Hết giờ nghỉ trưa tự đặt ta, Robin rửa đám tách chén và khay nước rồi đem trả lại cho Crowdy cùng với gói bánh quy mới mua. Để ý thấy cha này rất sốt sắng muốn giữ cô lại nói chuyện trong khi mắt đảo lia từ miệng tới ngực cô, cả tuần sau đó Robin cố tránh mặt.
Strike vẫn chưa về. Robin tự tìm thêm việc để làm, cô dọn các ngăn kéo, vứt ra những thứ mà cô đoán là những nhân viên trước đây để lại, hai mẩu sô-cô-la sữa bám bụi, một cái dũa móng tay đã mòn, nhiều mẩu giấy ghi số điện thoại và vẽ vời lăng nhăng. Thêm một hộp kẹp giấy bằng sắt kiểu cũ, Robin chưa thấy loại này bao giờ, khá nhiều sổ tay nhỏ màu xanh, mặc dù không in logo nhưng vẫn toát ra mùi công chức. Với kinh nghiệm từ nhiều văn phòng, Robin có cảm giác đám sổ kia bị thó từ kho của một cơ quan nhà nước nào đó.
Thỉnh thoảng điện thoại văn phòng đổ chuông. Sếp mới của Robin có rất nhiều tên. Một người gọi hỏi gặp “Oggy” ; một người khác thì đòi gặp “Thằng khỉ con”, rồi một giọng khô khan, dứt dạt gởi lời nhắn phiền “Ông Strike” gọi lại cho ông Peter Gillespie càng sớm càng tốt. Mỗi lần như vậy, Robin đều gọi vào máy di động của Strike, nhưng toàn vào thẳng hộp thư thoại. Vì thế cô để lại lời nhắn trên điện thoại, viết lại tên mỗi người gọi và số điện thoại trên một mẩu giấy Post-it rồi mang vào phòng của Strike dán gọn gàng trên bàn.
Máy khoan bên ngoài vẫn ầm ầm. Khoảng hai giờ chiều, trần nhà kêu răng rắc vì người ở tầng trên bắt đầu đi qua đi lại; nếu không Robin cứ tưởng chỉ có mỗi mình cô trong cả tòa nhà. Ở một mình, cộng thêm cảm giác sung sướng tưởng như muốn vỡ lồng ngực mỗi khi nhìn thấy chiếc nhẫn trên bàn tay, Robin trở nên bạo dạn. Cô bắt đầu dọn dẹp văn phòng nhỏ xíu, giờ đây chỉ có mỗi cô trông giữ.
Mặc dù mọi thứ trông có vẻ cũ kỹ dơ bẩn, Robin nhanh chóng phát hiện ra chúng được sắp xếp có tổ chức rạch ròi, hợp với tính cách ngăn nắp gọn gàng của cô. Những tập hồ sơ bìa giấy nâu (thật là cổ điển vì bây giờ người ta toàn dùng bìa nhựa màu) được xếp ngay ngắn trên kệ đằng sau bàn của Robin theo thứ tự thời gian. Mỗi hồ sơ được đánh số thứ tự viết tay ở gáy. Cô mở một hồ sơ ra và thấy mấy cái kẹp giấy kiểu cũ được dùng để đính giấy tờ vào tập hồ sơ. Nội dung bên trong viết theo một kiểu riêng, khó hiểu. Có lẽ cảnh sát toàn viết như vậy; biết đâu Strike từng là cảnh sát.
Robin tìm ra xấp thư dọa giết màu hồng mà Strike nhắc đến ở ngăn kéo giữa của tủ đựng hồ sơ, bên cạnh là một tập cam kết giữ bí mật. Robin rút ra một tờ cam kết và đọc; bản cam kết đơn giản, quy định rằng người ký tê không nhắc đến những tên tuổi hay thông tin trong hồ sơ của khách hàng ngoài giờ làm việc. Robin nghĩ ngợi một lúc, rồi ký và ghi ngày. Cô mang nó vào bên trong phòng làm việc của Strike, đặt lên bàn để Strike có thể ký vào phần còn lại. Sự thề thốt đơn phương này khiến cô lại thấy công việc có gì đó bí hiểm, thậm chí là hấp dẫn như cô đã hình dung khi đứng ngoài cửa gương, trước khi nó mở tung ra và Strike suýt chút nữa thì xô cô xuống cầu thang.
Sau khi đặt tờ cam kết lên bàn Strike, Robin nhìn thấy túi thể thao bị nhét trong góc, ngay sau tủ đựng hồ sơ. Chỗ dây kéo túi hở ra để lộ một góc áo đã bẩn, một cái đồng hồ báo thức và túi đựng xà phòng. Robin đóng ngay cửa phòng Strike lại, như thể vừa vô tình thấy chuyện riêng tư đáng xấu hổ của người khác. Cô nghĩ tới người đẹp tóc đen chạy ra khỏi tòa nhà lúc sáng, những vết thương đủ kiểu của Strike và cách anh ta đuổi theo cô nàng, có chút chần chừ ban đầu nhưng vẫn khá quyết liệt. Trong tâm trạng vui sướng của một người vừa đính hôn, Robin thấy thương hại những người không có may mắn trong tình cảm – một sự thương hại đi kèm với nỗi hân hoan khó tả khi cô nghĩ tới viễn cảnh thiên đường của riêng mình.
Năm giờ chiều, ông sếp tạm vẫn chưa về, Robin quyết định đã đến giờ nghỉ. Cô vừa khẽ ngân nga vừa điền vào phiếu ngày công, rồi hát to thành tiếng khi mặc áo khoác. Cô khóa cửa, bỏ chìa khóa dự phòng vào hộp thư và cẩn trọng bước về phía cầu thang sắt, về nhà với Matthew.