Ngu Hổ Thần dẫn theo Triệu Đại Bằng đi về núi Hổ Đầu, để Thừa Ảnh và Hàm Quang ở lại bảo vệ Hoắc Thần. Mặc dù đang ở phủ tướng quân của Lạc Thanh Khung nhưng bên trong lẫn bên ngoài phủ đều có quân lính tuần tra. Lạc Thanh Thành vẫn rất lo lắng, tiếp tục sắp xếp Thừa Ảnh và Hàm Quang gác đêm.
Hàm Quang nằm trên sạp, không hề buồn ngủ. Hai chữ “Chiêu an” từ miệng Hoắc Thần nói ra, khiến tâm trí nàng lập tức trống rỗng. Đó là nơi nàng đã ở bảy năm, từ lâu nàng coi nơi đó là nhà, từ nay về sau, nơi nào là chốn nương tựa của nàng đây? Cứ suy nghĩ về chuyện này, tâm tư nàng thêm rối loạn. Nàng quyết định ngồi dậy, cầm lấy Vân Thư ra ngoài sân.
Hoắc Thần qua đêm trong phòng ngủ của Lạc Thanh Khung. Lúc này đã là canh ba, trong phòng đèn vẫn còn sáng.
Thừa Ảnh ngồi dưới bậc thềm trước hành lang. Ánh đèn chập chờn rọi lên khuôn mặt trầm tĩnh của hắn. Chẳng hay trong lòng hắn cũng có một loại cảm giác bất an mờ mịt như nàng hay không? Quyền thế danh lợi đối với nam nhân có một sự mê hoặc trời sinh khó lòng chống đỡ. Về điểm này, trong lòng Hàm Quang hiểu rất rõ. Cho nên, người cảm thấy buồn bã mất mát phải chăng chỉ có mình nàng mà thôi?
Thừa Ảnh thấy Hàm Quang đi đến, đứng lên: “Sao muội không ngủ đi?”
Hàm Quang đi đến, ngồi trên thềm, “Ngủ không được.”
Thừa Ảnh giật mình, ngồi xuống bên cạnh nàng.
“Muội đừng sợ, không sao đâu.”
Hàm Quang khẽ giọng nói: “Không phải muội sợ, chỉ là trong lòng rất rối bời. Không biết con đường về kinh này, sẽ có cái kết như thế nào.”
Thừa Ảnh vội đưa tay bịt miệng nàng lại. Hoắc Thần trong phòng chưa ngủ, Thừa Ảnh sợ hắn nghe thấy.
Hàm Quang kéo tay hắn ra, lè lưỡi cười cười.
Thừa Ảnh ôm gối ngồi thẳng, hai tay gác trên gối. Trong lòng bàn tay phải của hắn có một vết sẹo mờ mềm mại. Hắn vươn ngón tay trái nhẹ nhàng sờ vết sẹo nhô lên trong lòng bàn tay. Hắn chỉ cảm toàn thân đều ấm áp êm dịu hẳn đi, như là được ngâm mình trong suối nước nóng, lúc chìm lúc nổi, cả người thư thái không có lấy một phần khí lực.
Hàm Quang nhìn hành lang dài tăm tắp tĩnh lặng, nhỏ giọng nói: “Huynh đi ngủ đi, để muội canh nửa đêm đầu cho.”
Thừa Ảnh giống như tỉnh dậy từ trong mộng, khẽ ừ một tiếng, rồi đứng lên đi vào phòng ngủ.
Hàm Quang ôm đao, dựa lưng vào cột. Tâm tư lúc này bộn bề khôn xiết. Đúng là cuộc đời mười chín năm chưa bao giờ thôi chìm thôi nổi.
Cửa phòng sau lưng vang lên tiếng mở cửa, Hàm Quang đứng dậy quay đầu.
Hoắc Thần đi ra khỏi phòng, ánh đèn trong phòng xuyên qua khe cửa. Chiếc áo xanh động đậy, người như đạp sóng lướt đến đây.
“Điện hạ chưa ngủ sao?”
“Không ngủ được.”
Hàm Quang không khỏi cười khẽ, “Đêm nay người không ngủ được đúng là nhiều mà.”
“Ngồi đi.” Hoắc Thần vén tà áo lên, tùy tiện ngồi xuống hành lang.
Hàm Quang hơi chần chờ, cũng ngồi xuống cách hắn ba bước chân.
Một lúc lâu sau, Hoắc Thần vẫn không nói gì. Trong bóng đêm, hắn một mặt uy nghi trang nghiêm, một mặt lại đơn thuần phát sáng, có phần hơi cô quạnh.
“Vừa rồi ta nghe thấy câu ngươi đã nói với Thừa Ảnh. Sao hả, ngươi thấy bản vương không có phần thắng?”
Hàm Quang vội trả lời: “Không phải, ta chỉ là thuận miệng nói chơi mà thôi. Đêm đã khuya, điện hạ bị thương chưa khỏi hẳn, nên đi ngủ sớm thôi, sáng mai còn phải lên đường nữa.”
Hoắc Thần nghiêng đầu qua, ánh mắt rơi trên gương mặt nàng, rồi lại nhìn thanh đao Vân Thư trong tay nàng.
Trên chuôi đao có gắn viên ngọc, hình dạng giống trăng khuyết.
“Đây là gì thế?”
“À, đây là khi ta còn bé, có người tặng.”
Hoắc Thần ồ một tiếng, Kể nghe xem sao.
Hàm Quang suy nghĩ một lát, khẽ cười nói: Khi đó ta khoảng chừng bảy tám tuổi, phụ thân và Giang bá phụ vẫn còn làm quan ở kinh thành. Thừa Ảnh và ta bị đưa lên chùa Nhàn Vân, theo đại sư Cô Quang học võ. Lúc đó, trong chùa còn có một cậu bé, cũng gần bằng tuổi Thừa Ảnh. Ban ngày hắn học võ, ban đêm còn phải chép kinh thư, không lúc nào ngơi nghỉ. Ta nhàn rỗi không có chuyện gì làm, liền giúp hắn chép kinh thư. Hắn thấy đôi đao uyên ương của ta, trụi lủi không có tua kiếm nên nói muốn tặng ta một cặp dây buộc đính ngọc. Một hôm hắn tặng ta một cái trước. Lúc về nhà mẫu thân vừa thấy đã nói thứ này vô cùng quý giá, không thể nhận. Thế là hôm sau ta liền lên chùa trả lại cho hắn, thế nhưng hắn đã đi rồi.
Hoắc Thần lại ồ một tiếng, thản nhiên hỏi: Thế hắn tên là gì?
Không nhớ nữa.
Hoắc Thần liếc mắt, im lặng giây lát, hừ lạnh một tiếng: Người ta tặng ngươi đồ, mà ngươi ngay cả tên người ta cũng không nhớ.
Ơ, đó là chuyện của hơn chục năm trước rồi, ta làm sao có thể nhớ rõ chứ. Hơn nữa tên tiểu tử kia rất kiêu ngạo, mặt hếch lên trời, có lẽ hắn không nói tên của hắn cho ta biết.
Hoắc Thần đứng dậy, phất áo choàng, xoay người bỏ lại một câu, Về ngủ đi, tối nay không cần canh nữa.
Ta vẫn nên ở lại bảo vệ điện hạ.
Hoắc Thần khẽ dừng bước.
Dù sao cũng không ngủ được.
Cộp! Cộp! Hoắc Thần nhấc chân bước qua cửa phòng, một tay đóng cửa lại. Một lát sau, ngọn đèn trong phòng tắt, sau đó không nghe thấy tiếng động gì nữa.
Hàm Quang lại ngồi trên hành lang thêm cả buổi. Mãi đến khi gió đêm thổi đến có phần lạnh, mới đứng dậy đi đến căn phòng nhỏ bên cạnh, khẽ gõ lên cửa sổ phòng của Thừa Ảnh. Người luyện võ rất thận trọng cảnh giác, Hàm Quang biết chỉ với âm thanh này thôi hắn nhất định sẽ tỉnh. Nàng nhẹ giọng nói: Điện hạ bảo không cần phải canh phòng.
Thừa Ảnh ở trong phòng lên tiếng ậm ừ đã rõ, Hàm Quang liền xoay người đi ngủ.
Sáng sớm hôm sau, Lạc Thanh Khung tự mình dẫn người ra bên ngoài cổng thành đón Ngu Hổ Thần.
Hoắc Thần dẫn theo Hàm Quang và Thừa Ảnh đứng chờ người.
Khi Hàm Quang nhìn thấy một đám người ngựa đang chạy qua đây từ xa xa thì trong lòng mơ hồ thấy xót xa. Trại Ngọa Hổ có hơn tám trăm người, mà tới đây không được hai trăm. Bọn họ mặc quần áo thường dân tóc búi gọn, tay không tấc sắt, thoạt nhìn đúng là giống bị chiêu an.
Mấy trăm người ở núi Hổ Đầu đều là những huynh đệ đã theo Ngu Hổ Thần từ thời phong ba bão táp năm xưa. Họ là những người nhặt được tính mạng trong mưa đao bão kiếm máu đỏ nhuộm thẫm cả vùng, an phận thủ thường trong vòng bảy năm ở núi Hổ Đầu. Trong số họ, có người đã có gia đình, có người nhìn thấy trò đời, có người chỉ muốn ung dung tự tại cả đời. Sự yên ổn nhàn hạ cũng chẳng thể làm chết tâm những con người hùng dũng kiên cường. Ngu Hổ Thần là một nhân tài kiệt xuất trong số đó, nhưng ông biết việc này có cố ép cũng không được. Nếu như ông cứ cố sống cố chết ép mọi người cùng đi, thì trái lại trên đường đi dễ xảy ra tranh chấp nội bộ. Vì thế, sau khi giải thích chuyện chiêu an vào đêm qua, ông liền để cho mọi người tự quyết định chuyện đi hay ở, nhất quyết không cưỡng ép.
Thiệu Lục đang đứng sau lưng Hoắc Thần, nhỏ giọng nói: Điện hạ, không phải đã nói có tám trăm người sao, sao lại có bấy nhiêu đây?
Ánh mắt Hoắc Thần sâu thăm thẳm, sắc mặt bình tĩnh, đáp: Người không nhất thiết phải nhiều, một lòng là được. Ngộ nhỡ có chuyện xảy ra thì những người này sẽ trung thành dũng mạnh hơn cả những tinh binh trong tay của Lạc Thanh Khung, bởi vì bọn họ đã không còn đường lui. Họ muốn làm rạng rỡ tổ tông, cũng cố gia đình. Đi theo ta là con đường duy nhất của họ.
Thiệu Lục gật đầu tỏ vẻ đã hiểu. Hắn quay đầu nhìn Hàm Quang và Thừa Ảnh đang đứng cách đó không xa, lại thấp giọng nói nhỏ lại: Ngu Hổ Thần, điện hạ thực sự an tâm sao?
Hoắc Thần nheo mắt, nhìn chằm chằm Ngu Hổ Thần đang ngày càng tiến đến gần, trầm giọng nói: Hiện tại, ta chỉ có thể tin hắn, hắn cũng chỉ có thể tin ta.
Ngu Hổ Thần thúc ngựa chạy đến gần, xoay người xuống ngựa quỳ một gối: Tội thần bất lực, chỉ có thể dẫn theo nhiêu đây người.
Hoắc Thần nhìn lướt qua đám người ngựa sau lưng Ngu Hổ Thần, cất cao tiếng nói: Ngu Hổ Thần, bản vương đặc xá ngươi vô tội, sau này không phải xưng là tội thần nữa. Những người huynh đệ ngươi mang đến đều là những binh sĩ nước Thương, không phải là thổ phỉ sơn tặc, nhất cử nhất động đều phải tuân theo quân kỷ khi xưa, không được làm xằng làm bậy.
Ngu Hổ Thần cùng thủ hạ nhất tề ào ào lên tiếng vâng, tiếng động rung chuyển tầng mây.
Hoắc Thần cảm thấy thoải mái hơn, lập tức phân phó Lạc Thanh Khung: Dẫn bọn họ nhập vào doanh trại, chọn ngựa tốt, phát đao kiếm. Còn nữa chọn một trăm kỵ vệ và kỵ binh tinh nhuệ nhất trong quân, lập tức theo ta đi phủ Khánh Châu.
Vâng.
Sau nửa canh giờ, ba trăm người chờ đợi xuất phát. Hoắc Thần ra lệnh một tiếng, đoàn người khởi hành đi phủ Khánh Châu. Tháng ba đầu xuân, không khí tươi mới như sương khói. Trên đường vó ngựa như bay, thanh thế rầm rộ, dân chúng bên đường đều đưa mắt trong theo, bàn luận râm ran.
Điều Hoắc Thần muốn đó chính là mọi người đều biết, sáng mai không quá giờ Thìn thì trong kinh thành sẽ nhận được tin tức. Mà đến lúc đó, bản thân hắn đã tới phủ Khánh Châu. Chỉ cần Thứ sử Khánh Châu ra khỏi thành nghênh giá, chính là báo cáo cho toàn mười sáu châu Đông Nam biết rằng hắn là thái tử điện hạ chân chính, còn vị thái tử đã chết ở biên thành chỉ là tin đồn nhảm. Cho dù thánh thượng không đợi được đến khi hắn về đến kinh thành, chỉ cần triều thần biết thái tử vẫn còn sống thì Khang vương tuyệt đối không thể tùy tiện đăng cơ, bằng không đó chính là soán ngôi.
Trên đường đi, Ngu Hổ Thần vẫn luôn nhếch môi như cười, ánh mắt nhìn về phương xa. Hàm Quang biết trong lòng ông nhất định rất không yên ả. Những người núi Hổ Đầu phía sau mặc dù mặc một thân áo vải, nhưng khuôn mặt dường như đều rạng rỡ hẳn lên. Họ vừa lên chiến mã, trên người liền có khí tức hùng dũng.
Lúc chạng vạng, mọi người đến thị trấn Đồng Huy, Lạc Thanh Thành mang theo quân sĩ kỵ vệ cửa ải Đông Dương đưa ra quân phù mà Lạc Thanh Khung giao phó ở trước cửa thành, nên được vào trong thành thuận lợi.
Huyện lệnh nghe được tin, lập tức kinh sợ chạy đến tiếp đón. Thành nhỏ, trạm dừng chân cũng đơn sơ. Huyện lệnh vã mồ hôi đầm đìa, rất sợ tiếp đãi thái tử điện hạ không chu toàn.
Ai ngờ Hoắc Thần ăn cơm xong, lại không ở lại nghỉ ngơi trong thành mà lập tức dấn người ra đóng quân bên ngoài thành.
Hàm Quang thầm biết hắn sợ huyện lệnh Đồng Huy không đáng tin, vạn nhất tình thế có biến, thì ba trăm người liền bị bao quanh trong thành.
Lều trại đã sắp xếp ổn thỏa, cũng là lúc mặt trời đang lục tục xuống núi. Ngọn núi xanh xa xa kia như dần dần được tẩm mực.
Thừa Ảnh đứng dưới một tàng cây, chắp tay đưa mắt nhìn xa xăm, dường như có tâm sự.
Hàm Quang đi đến phía sau hắn, khẽ khàng gọi: Đại ca, muội muốn đến một nơi. Huynh có muốn đi cùng không?
Thừa Ảnh quay đầu lại, dưới ánh chiều tà, ánh mắt mơ màng.
Được.
Hàm Quang dắt ngựa đến, hai người mỗi người một ngựa phóng về hướng mặt trời đang chìm xuống.
Thiệu Lục lập tức vào doanh trướng của Hoắc Thần, vội vã tiến lên bẩm báo: Điện hạ, Ngu Hàm Quang và Giang Thừa Ảnh cưỡi ngựa không biết đi đâu, sẽ không sao chứ?
Hoắc Thần ngẩn ra, ngước mắt lên.
Thiệu Lục lại nói: Lúc này đang trong tình cảnh nguy hiểm, điện hạ phải đề phòng bất trắc.
Hoắc Thần bỏ bản đồ trong tay xuống.
Ngươi đi theo xem sao.
Một lúc lâu sau, Thiệu Lục thở hổn hển quay trở lại.
Bẩm điện hạ, hai người đó đã quay về.
Hoắc Thần nhích chiếc bút lông sói trên tay, chấm mực, rồi đặt bút viết. Hắn không hề ngẩng đầu nhìn Thiệu Lục, chỉ ra lệnh: Nói đi.
Thiệu Lục nuốt nước bọt đánh ực một cái: Hai người đó chạy một mạch về hướng Tây, chạy gần đến thành Kinh Phong, dừng lại trên một sườn núi cao ở ngoại ô. Họ đứng bên vách núi một lúc lâu. Nô tài không dám đến quá gần nên không thể nghe thấy hai người họ nói cái gì. Một lát sau, Giang Thừa Ảnh ôm Ngu Hàm Quang vào lòng.
Nói đến đây Thiệu Lục vừa định nghỉ lấy hơi, chợt nghe thái tử điện hạ trầm giọng nói: Nói tiếp đi.
Sau đó, hai người quay về. Nô tài hồ đồ rồi. Ngay từ đầu nô tài cho rằng hai người này có suy nghĩ khác, muốn mật báo cho ai đó. Sau lại cảm thấy hai người này có tư tình, giống như muốn bỏ trốn, sau đó lại cảm thấy không giống. Trên đường trở về, hai người đó không hề nói gì cả, chỉ một trước một sau phóng ngựa như bay. Điện hạ người nói xem, cái này không phải là cùng chạy đi thật xa, chỉ để ôm nhau rồi nói hai ba câu tâm tình bên vách núi đó chứ?
Nói đến đây, Thiệu Lục liền phát hiện thái tử điện hạ đã dừng bút, sắc mặt âm u. Hắn không biết hắn đã nói sai ở đâu, chỉ nghe một tiếng bốp. Hoắc Thần đập bút lên bàn, vò tờ giấy thành một nắm, quăng xuống đất.
Gọi người tới đây ngay.
Thiệu Lục không biết là gọi hắn hay là nàng, chỉ biết thái tử điện hạ đang rất tức giận. Hắn vừa cẩn thận quan sát, vừa sợ hãi hỏi: Gọi ai ạ?