Huyền Lăng ôn tồn nói: “Nàng nói đi.”
Trinh Quý tần được y cho phép, thế là mới chậm rãi nói: “Thần thiếp cho rằng hình thêu trên chiếc áo này quả đúng là giống phượng hoàng, nhưng cũng chỉ là giống mà thôi. Phượng hoàng có đầu gà, hàm én, cổ rắn, lưng rùa, đuôi cá, trên mình mang đủ năm màu, cao chừng sáu thước. Nhưng hình thêu kia riêng chiều cao đã chẳng đủ sáu thước rồi, chỉ chừng bốn, năm thước mà thôi, bên trên màu sắc tuy có rất nhiều nhưng đều không phải là màu thuần chính tông, lông vũ cũng chủ yếu có màu xanh chứ chẳng phải màu vàng, hình như không giống với phượng hoàng cho lắm.”
Trinh Quý tần tâm tư tinh tế, nhất nhất chỉ ra những điểm khác biệt, Huyền Lăng nghe xong đôi hàng lông mày vốn đang nhíu chặt liền dãn ra rất nhiều, mà lời của nàng ta vừa dứt, chợt có giọng nói cao vút của một nữ tử từ ngoài cửa điện cất lên: “Đúng thế, hình thêu này không phải phượng hoàng, mà là thần điểu Phát Minh!”
Tú Hạ bất giác cau mày, thấp giọng quát: “Nơi này là chính điện của Hoàng hậu, kẻ nào mà lại dám huyên náo ở đây như thế?”
Người vừa tới hoàn toàn không để ý tới sự trách mắng của Tú Hạ, chỉ quay về phía Huyền Lăng và Hoàng hậu, khom người khấu bái: “Nô tỳ Quỳnh Chi bái kiến Hoàng thượng, Hoàng hậu.”
Quỳnh Chi là thị tỳ tùy giá của Hồ Uẩn Dung, trước đây còn từng hầu hạ Vũ Dương Đại trưởng công chúa, ngay tới Hoàng hậu cũng phải nể mặt thị mấy phần, thế là bèn quát Tú Hạ: “Quỳnh Chi nóng lòng hộ chủ còn có thể tha thứ được, cớ sao ngươi cũng chẳng hiểu quy củ gì như thế?”
Quỳnh Chi mỉm cười, nói: “Từ lâu đã nghe nói Trinh Quý tần kiến thức bất phàm, xem ra quả không sai, lão nô xin thay tiểu thư có lời cảm tạ.” Thị tự xưng là “lão nô”, hiển nhiên có ý tự thị thân phận, nói xong liền chậm rãi mở bức họa trong tay ra, bên trên bức họa có hình năm con chim, con nào con nấy đều màu sắc sặc sỡ, cực kỳ uy nghiêm. Quỳnh Chi khẽ vén búi tóc, chậm rãi nói: “Trong cổ tịch có năm loại thần điểu, phương đông là Phát Minh, phương tây là Túc Sương, phương nam là Tiêu Minh, phương bắc là U Xương, ở trung tâm là Phượng Hoàng. Phát Minh thoạt nhìn thì giống phượng, có mỏ dài, cánh rộng, đuôi tròn, không phải nơi trang nhã thì không đậu, không phải đồ quý báu thì không ăn, cũng khó trách các vị nương nương lại không biết, bởi trong số các loại thần điểu này chỉ có hình của phượng hoàng là lưu truyền rộng rãi, còn đa phần đều gần như đã thất truyền, nếu không phải tiểu thư nhà nô tỳ có hứng thú với cổ vật thì cũng khó mà tìm được.” Dứt lời liền đặt bức họa đó bên cạnh chiếc áo kia để so sánh, quả nhiên có thể thấy rõ hình thêu trên đó là thần điểu Phát Minh chứ chẳng phải phượng hoàng, chỉ là hai giống chim này rất giống nhau, nếu không tinh ý thì khó mà phân biệt được.
“Hoàng hậu là chủ nhân của trung cung, hoàn toàn xứng đáng là phượng hoàng trong giới nữ. Dưới Hoàng hậu thì có Tứ phi Quý, Thục, Hiền, Đức ở bốn cung đông, tây, nam, bắc, cũng giống như bốn con thần điểu ở bốn hướng đó vậy, ví dụ như Thục phi nương nương làm chủ tây cung, ứng với thần điểu Túc Sương. Tiểu thư nhà nô tỳ không hề dùng hoa văn hình phượng hoàng trên áo, thực sự không thể tính là tiếm việt được!” Quỳnh Chi nói xong liền đi tới đỡ Hồ Uẩn Dung dậy, nói: “Tiểu thư đã phải chịu ấm ức rồi.”
Huyền Lăng sau một hồi so sánh bất giác có chút áy náy, liền nắm lấy bàn tay Hồ Uẩn Dung. “Sao nàng không nói ra ngay từ sớm? Làm bản thân tự dưng phải chịu nỗi ấm ức này!”
Hồ Uẩn Dung tỏ ra hết sức tủi thân, còn mang theo chút vẻ làm nũng của một thiếu nữ, hoàn toàn chẳng còn bộ dạng lạnh lùng, cao ngạo không nói một lời như vừa rồi. Nàng ta đẩy tay Huyền Lăng ra, giậm chân, nói: “Vừa rồi biểu ca nổi giận như vậy, muội còn dám biện bạch hay sao? Biểu ca cũng biết tính Dung Nhi rồi đấy, một khi nôn nóng ắt sẽ nói năng chẳng lựa lời chọc giận biểu ca, đến khi đó chỉ sợ huynh sẽ lại càng chẳng thèm để ý tới người ta nữa!”
An Lăng Dung đứng kế bên nghe thấy hai chữ “Dung Nhi” đó thì bất giác ngẩn ra, ngoảnh đầu nhìn sang theo bản năng, nhưng rồi lập tức tỉnh ngộ, nhếch khóe môi nở nụ cười hờ hững. Đây là lần đầu tiên tôi nghe thấy Hồ Uẩn Dung tự xưng mình như thế trước mặt Huyền Lăng, trong lòng bất giác thầm suy nghĩ, “Dung Nhi” này chẳng phải “Dung Nhi” kia, Hồ Uẩn Dung xưa nay vốn tâm cao khí ngạo, nhất định đã khó chịu vì việc này từ lâu rồi, lúc trước bày ra thủ đoạn hại An Lăng Dung mất giọng ắt cũng có một phần nguyên nhân là vì thế.
Huyền Lăng vừa tức giận vừa tức cười. “Nàng trở nên nhát gan như thế từ bao giờ vậy? Không dám cự nự trước mặt trẫm thì thôi cũng đành, nhưng vừa rồi ở trong điện với Hoàng hậu sao không chịu nói năng đàng hoàng làm Hoàng hậu tức giận đến thế? Cơn phong ba này kỳ thực cũng từ đó mà ra đấy thôi.”
Triệu Tiệp dư hơi đảo mắt một chút, nở nụ cười tươi, vội vàng tiếp lời: “Cũng đúng, ai mà không biết Hồ muội muội xưa nay luôn khéo ăn khéo nói, cứ nói việc này ra ngay từ sớm không phải là xong rồi sao? Hoàng hậu vốn là người bụng dạ rộng rãi, thấy chỉ là hiểu lầm ắt sẽ mỉm cười cho qua, như thế các tỷ muội chúng ta cũng sẽ không cần phải kinh hoảng bôn ba một phen như thế này nữa.”
Hồ Uẩn Dung thoáng đưa mắt liếc qua nàng ta, cất tiếng trong trẻo, giòn tan: “Thần thiếp có lý nào lại chẳng muốn giải thích rõ ràng với Hoàng hậu chứ, nhưng thần thiếp vừa tới Chiêu Dương điện thì Hoàng hậu đã trừng mắt giận dữ đuổi tất cả mọi người ra ngoài, sau đó vừa mở miệng đã nói ra ngay bốn chữ “đại nghĩa diệt thân”, thần thiếp trước đây mỗi lần gặp Hoàng hậu đều gọi một tiếng “biểu tỷ”, nào có ngờ lại gặp chuyện như hôm nay, do đó chỉ còn biết thương tâm sợ hãi, chẳng dám biện bạch gì cho mình. Về sau Thục phi vừa bước vào cũng bị Hoàng hậu trách mắng một trận, nói cái gì mà nhu nhược, đớn hèn, làm Thục phi sợ đến nỗi không cả dám thở mạnh.” Nàng ta nhìn lướt qua khuôn mặt Hoàng hậu, rồi lập tức cười, nói: “Biểu ca cũng chớ nên tức giận làm gì, biểu tỷ vừa khỏi ốm sau cơn bệnh lâu ngày, dễ nổi giận cũng không phải là điều gì khó hiểu!” Sau đó lại ghé tới bên tai Huyền Lăng, cất tiếng rủ rỉ: “Ngoài những thang thuốc mà thái y thường kê, biểu ca cũng nên kêu thái y điều chế cho Hoàng hậu mấy loại thuốc như Khôn Bảo hoàn, Bạch Phượng hoàn, Phục Xuân thang nữa mới được.”
Hồ Uẩn Dung nói tuy rất khẽ, thế nhưng mấy phi tần trẻ tuổi ở gần đều nghe thấy cả, không kìm được che miệng cười khúc khích. Huyền Lăng bật cười nhéo cổ tay nàng ta một cái, khẽ mắng: “Ăn nói linh tinh, Hoàng hậu đâu đã tới mức phải như vậy.” Ngoài miệng tuy cười, thế nhưng khi ánh mắt y nhìn về phía Hoàng hậu, đôi hàng lông mày bất giác hơi máy động, dường như khá giận dữ, nhưng rốt cuộc vẫn kìm nén được, chỉ hờ hững nói: “Sau này ít tức giận thôi, như thế không tốt cho thân thể của nàng.”
Hoàng hậu gặp phen biến cố này vẫn không hề nôn nóng, cúi đầu, cất giọng ung dung: “Uẩn Dung xưa nay vẫn luôn được Hoàng thượng và Thái hậu yêu thương, lỡ như phạm lỗi, há chẳng khiến Hoàng thượng và Thái hậu phải đau lòng? Thần thiếp kỳ thực chỉ là quan tâm tắc loạn đó thôi.”
Hồ Uẩn Dung chỉ khẽ cười nhạt, rốt cuộc vẫn là Quỳnh Chi cất tiếng: “Vậy xin đa tạ sự quan tâm của Hoàng hậu.”
Lữ Chiêu dung trù trừ một hồi lâu, dường như có lời muốn nói, cuối cùng vẫn không kìm nén được: “Vừa rồi Quỳnh Chi cô cô nói Hoàng hậu là phượng hoàng ở trung cung, Thục phi thì làm chủ tây cung, ứng với thần điểu Túc Sương, vậy theo như lời cô cô nói, Hồ...” Nàng ta thoáng do dự một chút, không biết nên xưng hô thế nào mới phải: “Trên áo nàng ta thêu hình thần điểu Phát Minh, há chẳng phải tương ứng với ngôi Quý phi của đông cung hay sao?” Nghĩ tới tin đồn Hồ Uẩn Dung đã được phong làm Xương Phi, sắp ngồi lên ngôi Quý phi, nàng ta không kìm được ngấm ngầm chặc lưỡi.
Lời đồn chẳng qua chỉ là lời đồn, nếu thật sự có tâm tư như thế há có thể để lộ ra cho mọi người hay biết. Dư Dung Nương tử đang đắc sủng mấy tháng qua không kìm được cất tiếng cười lạnh. “Lương đệ phúc phận lớn quá! Chí khí lớn quá!”
Hồ Uẩn Dung coi như không nghe thấy, cẩn thận tháo khối ngọc bích đeo trên chiếc vòng trên cổ xuống, chỉnh lại xiêm y cẩn thận, trịnh trọng quỳ xuống. “Hoàng thượng cho rằng thần thiếp dám tự coi mình là thần điểu Phát Minh ư? Hoàng thượng còn nhớ không, thần thiếp khi vừa sinh ra đã cầm trong tay khối ngọc này.” Nàng ta kính cẩn dâng khối ngọc bích trong tay lên. “Mời Hoàng thượng xem kĩ bức hình được điêu khắc bên trên đó.”
Tôi đứng bên cạnh Huyền Lăng tỉ mỉ nhìn kĩ, thấy đó là một khối ngọc bích màu đỏ hiếm có, chẳng qua chỉ to bằng một nửa bàn tay trẻ con, đỏ như mào gà, mặt trước có khắc bốn chữ “vạn thế vĩnh xương” theo lối cổ, xung quanh là dày đặc những đường hoa văn cực kỳ tinh tế, mặt sau thì có hình một cặp thần điểu, thoạt nhìn rất giống với phượng hoàng, phải nhìn kĩ mới có thể nhận ra cả hai đều là thần điểu Phát Minh ở phương đông.
“Thần thiếp sau khi sinh không thể xòe bàn tay ra được, mãi tới hôm gặp Hoàng thượng người mới đích thân cạy tay thần thiếp lấy ra khối ngọc bích này, bên trên khắc bốn chữ “vạn thế vĩnh xương”, ý rằng quốc vận Đại Chu ta muôn đời hưng thịnh, thiên hạ yên bình. Thần thiếp may được trời cao hậu ái, mang theo khối ngọc bích này mà sinh ra, về sau lại được hầu hạ thiên tử, tất nhiên phải dốc hết sức mình, không dám sơ suất chút nào. Không thể sinh hoàng tử nối dài dòng giống hoàng tộc, thần thiếp ngày đêm bất an, chỉ có thể thường xuyên cầu xin thần linh ban phúc, phù hộ cho Đại Chu. Lại thấy bức hình được điêu khắc trên khối ngọc này rất giống với phượng hoàng, thần thiếp thực là vừa sợ hãi vừa nghi hoặc, thầm nghĩ hai vị biểu tỷ đều là Hoàng hậu, hơn nữa Nghi Tu biểu tỷ còn đang chưởng quản hậu cung, trên khối ngọc của thần thiếp ắt không phải là hình phượng hoàng thật sự. Sau khi mở xem vô số cổ tịch, thần thiếp mới hay đó là thần điểu Phát Minh, thời cổ từng nắm điềm lành một phương, báo việc mưa thuận gió hòa. Thần thiếp vô cùng mừng rỡ, thế là bèn tự tay thêu bức hình này lên chiếc áo mà mình yêu thích nhất, hy vọng nó có thể phù hộ cho Đại Chu, hoàn toàn không có ý nhòm ngó bảo tọa Quý phi đâu.” Nàng ta tỏ ra hết sức trang trọng, nói năng điềm đạm đâu ra đó, phong thái chẳng thua kém gì một vị Quý phi.
Huyền Lăng đích thân đỡ nàng ta dậy, xúc động nói: “Thực đã vất vả cho nàng rồi.”
Hồ Uẩn Dung thoáng lộ vẻ ngượng ngùng, ngay sau đó liền ngạo nghễ ngẩng đầu, đưa mắt nhìn qua phía An Lăng Dung. “May mà có Chiêu viện tâm tư tinh tế, lúc nào cũng để ý tới Yến Hy điện, ngay cả lúc thăm bệnh cũng không bỏ sót, nhờ thế một phen khổ tâm của thần thiếp mới tới được tai Hoàng thượng, đồng thời còn được mọi người hay biết.” Nàng ta khẽ cười tủm tỉm. “Chuyện lần này còn phải cảm tạ Chiêu viện rất nhiều.”
Kính Phi cười, nói: “Chiêu viện muội muội cũng đúng thực là, thường ngày dụng tâm trên người Hoàng thượng thì không sai, nhưng không ngờ lại yêu người yêu cả đường đi thành ra dụng tâm quá mức như thế, chẳng trách Hoàng thượng lúc nào cũng sủng ái Chiêu viện.”
Kỳ Tần đưa mắt nhìn qua phía Tường Tần, cười nói: “Phải rồi, lúc nào mà chẳng có người thích làm mưa làm gió như thế. Vốn lúc này các tỷ muội chúng ta người đánh cờ thì đánh cờ, người chơi chim thì chơi chim, ai cũng có niềm vui riêng cả, đâu cần tới đây thế này.”
An Lăng Dung thoáng lộ vẻ lúng túng, rất nhanh sau đó đã cười, nói: “Cũng tại thần thiếp nhát gan quá, trong bụng có gì đều không giấu được, vốn nghĩ Hoàng hậu nương nương và Hồ muội muội là biểu tỷ biểu muội với nhau, nhất định sẽ nhẹ nhàng khuyên nhủ, chẳng ngờ cuối cùng lại gây ra một phen phong ba thế này, tất cả đều là lỗi của thần thiếp.” Nói xong liền rơm rớm nước mắt quỳ xuống.
Huyền Lăng chăm chú nhìn nàng ta một lát. “Chỉ bởi nàng thường ngày quá cẩn thận đó thôi, sau này nhớ chú ý một chút là được.” Rồi y quay sang mỉm cười với Hồ Uẩn Dung, buột miệng nói: “Nàng có tấm lòng như thế, sao lại chẳng làm được Quý phi?”
Một tia vui mừng lóe lên nơi đáy mắt Hồ Uẩn Dung, rất nhanh sau đó đã bị giấu kín hoàn toàn. “Hoàng thượng quá khen rồi!”
Không có những nỗi oan ức trước đó cùng sự xoay chuyển đột ngột về sau, cộng thêm những lời làm nũng, lời hứa “Quý phi” kia nàng ta đâu có dễ gì nhận được. Cuộc đời vốn chính là như thế, trước tiên cần phải trả giá thì về sau mới có thể có thu hoạch.
Dục vọng của con người vốn giống như vực sâu chẳng thể lấp đầy, đợi khi trở thành Quý phi rồi, liệu nàng ta còn muốn gì nữa đây? Tôi chăm chú nhìn vào thân hình nhỏ nhắn của nàng ta, lại nhìn qua phía Hoàng hậu, bất giác cười thầm, có tiền lệ từ việc Chu Nghi Tu trước tiên làm Quý phi rồi sau trở thành Hoàng hậu, dã tâm của Hồ Uẩn Dung chỉ e không nhỏ chút nào! Có một người biểu muội như thế, Hoàng hậu hẳn sẽ đau đầu lắm!
Có điều cẩn thận để ý từng hành vi, cử chỉ của nàng ta thường ngày, nếu nàng ta thật sự thay thế Chu Nghi Tu trở thành Hoàng hậu, ắt cũng chẳng dễ ứng phó chút nào. Huống hồ bây giờ vị trí của Chu Nghi Tu hãy còn vô cùng vững chắc, Huyền Lăng lại không thể không chú ý đến cảm xúc của tôi và Đoan Phi, nên nàng ta kỳ thực hãy còn cách cái ngôi Quý phi kia mười vạn tám ngàn dặm.
Tôi cụp mắt xuống, đưa tay áo lên che miệng khẽ ho một tiếng, ánh mắt thoáng liếc qua phía Đoan Phi lúc này đang ngồi nghiêm túc, đoan trang. Huyền Lăng lập tức hiểu ý, biết là mình đã lỡ lời, không khỏi có chút ngượng ngùng.
Tôi cười, nói: “Năm xưa Hoàng hậu cũng từ Quý phi mà trở thành Hoàng hậu, nếu thật sự như lời Hoàng thượng nói, sau này Hồ muội muội cũng được phong làm Quý phi, hai tỷ muội con cô con cậu đều là Quý phi của Đại Chu ta, há lại chẳng trở thành một giai thoại?” Tôi đưa mắt liếc qua phía Dư Dung Nương tử, cười tủm tỉm, nói: “Vừa rồi Nương tử còn gọi Hồ muội muội là Lương đệ, thực là đáng đánh!”
Hoàng hậu hơi trầm ngâm một chút, nở nụ cười tươi. “Vô cớ khiến Uẩn Dung phải chịu nỗi ấm ức vì bị giáng làm Lương đệ, lễ phong Phi lần này bản cung và Thục phi sẽ cùng tổ chức cho thật long trọng, coi như là để bù đắp, không biết Hoàng thượng thấy thế nào?”
Huyền Lăng lập tức đồng ý ngay: “Trước tiên cứ cử hành lễ sắc phong đã rồi tính tiếp. Hoàng hậu thông thuộc nghi lễ, lần này hãy dùng nhiều tâm tư vào người Uẩn Dung một chút.”
Hoàng hậu nắm lấy bàn tay rôi, chậm rãi cười, nói: “Hôm nay Thục phi cũng đã phải chịu một phen ấm ức rồi. Nói đến việc xiêm y tiếm việt, Thục phi hẳn là người rõ ràng nhất, năm xưa Thục phi mắc tội phải xuất cung xét cho cùng cũng là vì một chiếc áo của tỷ tỷ. Hoàng thượng là người trọng tình trọng nghĩa, nhưng đồng thời cũng rất xem trọng quy củ trong cung. Hôm nay Thục phi vốn tới để khuyên giải bản cung, nào ngờ vừa nhìn thấy nàng ta bản cung liền nhớ tới chuyện cũ, do đó lại càng khó chịu hơn.” Rồi nàng ta chỉ tôi mà nói tiếp với mọi người: “Thục phi là một người thông minh đến cỡ nào, vậy mà chỉ vô ý làm sai quy củ xúc phạm tới Thuần Nguyên Hoàng hậu, thế là bản cung và Hoàng thượng liền không thể không nghiêm khắc trừng phạt. Trong việc của Uẩn Dung hôm nay bản cung cứ ngỡ là muội ấy đã quên vết xe đổ khi trước mà xúc phạm bản cung, lại sợ sẽ một lần nữa xảy ra chuyện ngày đó, cho nên lại càng đau xót, tính khí không khỏi có hơi nóng nảy.” Sau đó lại ân cần dặn dò: “May mà đây chỉ là hiểu lầm, nhưng quy củ trong cung nghiêm khắc, ai ai cũng như nhau, các vị muội muội nhất định phải chú ý tới từng hành vi cử chỉ của mình, bằng không bản cung dù có xót thương cũng không dám làm trái với quy củ bao đời nay của tổ tông.”
Mọi người đều nhất tề vâng dạ. Tôi nghe Hoàng hậu nhắc lại chuyện năm xưa thì căm hận vô cùng, thế nhưng đang ở trước mặt Huyền Lăng nên không tiện tỏ vẻ gì, chỉ đành hùa theo đám đông.
“Hoàng hậu nói vậy là sai rồi!” Đang lúc mọi người cúi đầu im lặng, Hồ Uẩn Dung đột nhiên nói ra một câu khiến bất cứ ai cũng phải ngạc nhiên, bên khóe miệng thấp thoáng một nét cười khẩy. “Tiếm việt phạm thượng thì đương nhiên phải trừng phạt nghiêm khắc, có điều... vừa rồi Hoàng thượng cho rằng thần thiếp cố ý thêu hình phượng hoàng lên áo, còn Thục phi năm xưa lại chỉ vô tình mặc nhầm áo cũ của Thuần Nguyên Hoàng hậu. Thần thiếp cố ý thì bị giáng xuống làm Lương đệ tòng ngũ phẩm, trong khi đó Thục phi vô tình lại bị biếm làm Quý nhân chính lục phẩm, mà nghe nói năm xưa khi Thục phi bị cấm túc trong Đường Lê cung, từng phải chịu không ít nỗi khổ, thức ăn mà phủ Nội vụ đưa tới toàn là đồ thiu mốc, giữa trời đông giá rét đến than để sưởi cũng không có, bị lạnh đến nỗi nứt nẻ đầy người, để mời được thái y đã phải trả giá bằng tính mạng của một thị tỳ hầu cận. Nếu thần thiếp thật sự bị Hoàng thượng trừng phạt, một tháng ít ra còn có thể gặp Hòa Mục một lần, trong khi đó Thục phi lại bị đuổi tới chùa Cam Lộ, nếu không vì phúc trạch sâu dày, chỉ e đến tận cuối đời cũng chẳng thể gặp lại Lung Nguyệt!”
“Đám nô tài dám ức hiếp nàng ở phủ Nội vụ đều đã bị trẫm trừng phạt đích đáng rồi.” Trong lòng tôi bất giác trào lên muôn vàn cảm xúc đan xen, chẳng trách sau khi về cung, Hoán Bích từng lén đi tìm kiếm những tên thái giám năm xưa đã ức hiếp chúng tôi, vậy mà chẳng có chút manh mối nào, hóa ra còn có duyên cớ này ở bên trong nữa. Huyền Lăng hơi run rẩy một chút, nơi đáy mắt để lộ một tia áy náy. “Trẫm vẫn luôn ngỡ rằng cái chết của Lưu Chu chỉ là ngoài ý muốn.”
“Đa tạ Hoàng thượng. Có điều, đó đều là việc đã qua rồi.” Tôi cố gắng che giấu tâm trạng mất bình tĩnh nơi đáy lòng, giọng nói vang lên nghe vô cùng cảm động. Hơi dừng một chút, tôi mỉm cười nhìn Hồ Uẩn Dung, nói: “Hoàng thượng cực kỳ thương yêu muội muội, cho nên mới không đành lòng phạt nặng đấy thôi. Xét về tình cảm thân sơ với Hoàng thượng, bản cung đâu thể nào so sánh với muội muội được.”
Nàng ta cố tình nhắc lại những chuyện ngày xưa, giọng nói cũng có vẻ khá tự đắc, nhưng ý tứ kỳ thực không phải ở trong lời, một phen công phu miệng lưỡi rõ ràng không chỉ để khoe khoang: “Thục phi tự hạ thấp bản thân quá rồi, không phải biểu ca cố tình thiên vị ta đâu, mà là Thuần Nguyên Hoàng hậu và Hoàng hậu biểu tỷ không hoàn toàn giống nhau. Theo ta được biết Thuần Nguyên Hoàng hậu do chính thất Đào phu nhân sinh ra, còn Hoàng hậu biểu tỷ thì là con gái của tam di nương.” Bên khóe miệng nàng ta thoáng hiện một nụ cười đầy ý vị. “Thuần Nguyên Hoàng hậu là nguyên phối của Hoàng thượng, cũng là tỷ tỷ ruột dòng đích của Hoàng hậu biểu tỷ. Ngày đó nhà họ Chu xuất hiện một hậu một phi đã là giai thoại trong thành, chỉ là khi Thuần Nguyên Hoàng hậu còn tại thế, Hoàng hậu biểu tỷ vẫn là Quý phi, phong hậu cũng là tục huyền. Trong dân gian việc cưới vợ còn chia ra vợ kết tóc và vợ kế, dòng đích dòng thứ cũng có sự khác biệt rõ ràng, Hoàng hậu tất nhiên là không thể so với Thuần Nguyên Hoàng hậu được.”
Lời này của nàng ta quả đúng là cực kỳ cay nghiệt! Mọi người trong cung đều biết Hoàng hậu xuất thân là con dòng thứ, tuy sau khi Thuần Nguyên Hoàng hậu qua đời cũng được lập làm Hoàng hậu, nhưng bất kể là ai cũng đều rõ cả, địa vị của hai vị Hoàng hậu này trong lòng Huyền Lăng thực là một trời một vực, sau này nếu y qua đời, trong lăng tẩm cũng sẽ chỉ cho phép Hoàng hậu nguyên phối được chôn cùng, còn Chu Nghi Tu thì phải nằm trong chiếc quan tài cách đó một trượng về phía bên trái. Những điều vi diệu bên trong đó ai mà chẳng hay, thế nhưng Hồ Uẩn Dung chính là người đầu tiên dám nói thẳng ra mà không kiêng dè như thế.
Hoàng hậu xưa nay vẫn luôn điềm tĩnh, ung dung, thế nhưng khi nghe thấy hai chữ “đích, thứ” kia, cơ thịt trên mặt không kìm được hơi co giật, lại nghe thấy mấy chữ “vợ kết tóc” và “vợ lẽ”, tuy ngoài mặt chưa tỏ vẻ gì nhưng hai tay đã run bần bật, hiển nhiên là vô cùng tức giận. Từ khi vào cung tới giờ, tôi chưa từng nhìn thấy thần sắc như vậy ở nàng ta, xem ra ai ai cũng có điểm yếu, và Hoàng hậu không phải là ngoại lệ.
Thế nhưng chỉ sau khoảnh khắc, nàng ta đã giấu hai bàn tay đang run rẩy vào trong tay áo rộng, bình thản nói: “Bản cung chỉ có một người tỷ tỷ ấy thôi, từ nhỏ đã được tỷ tỷ thương yêu rất mực rồi. Hai tỷ muội bọn ta tình cảm sâu đậm, bản cung tất nhiên lúc nào cũng đặt tỷ tỷ lên trên, hoàn toàn không dám so sánh.”
Bên khóe môi Hồ Uẩn Dung thoáng qua một nụ cười giễu cợt, thế nhưng thần sắc thì thành khẩn vô cùng: “Phải rồi, muội cũng nghĩ như vậy, biểu ca thử nói xem có đúng thế không nào?”
Ánh mắt Huyền Lăng không dừng lại ở bất cứ người nào, mà nhìn thẳng về phía chân trời xa xa. Lúc này dường như y đã nhìn thấy dung nhan tuyệt thế của Thuần Nguyên Hoàng hậu, ánh mắt lộ vẻ mê say, từ trong miệng bật ra những lời lẩm bẩm vô cùng quyến luyến: “Tất nhiên là không giống nhau rồi.”