Cậu lôi chiếc vali ra, kéo nó đặt lên trên giường, tháo dây quai. Nắp vali được giở lên vẹo vọ nằm dựa vào thành tường. Bên trong nắp vali có dán nhiều ảnh. Phần lớn là ảnh cô em gái, và trong đó có hai bức ảnh chụp hai anh em cậu, nhìn y chang nhau với nụ cười như hai giọt nước. Cậu sờ tay vội vã lên một bức ảnh, sau đó tiếp tục ngắm nhìn các ảnh khác, những tấm có bố cậu. Spencer Merrimon là người đàn ông cao lớn với hàm răng to đều và nụ cười thân thiện. Bàn tay thô xù của người làm nghề xây dựng, vóc dáng tự tin và mực thước nơi ông khiến Johnny luôn cảm nhận mình rất may mắn được là con trai ông. Ông đã dạy Johnny khá nhiều: lái ô tô, hãnh diện ngẩng cao đầu, có những quyết định đúng đắn. Ông dạy cho cậu sự vận hành của thế giới xung quanh, dạy cậu những gì đáng tin tưởng và những nơi có thể đặt niềm tin vào: Thượng đế và cộng đồng. Tất cả những gì Johnny được rèn luyện để sống xứng đáng như một người đàn ông, dĩ nhiên đến từ bố cậu.
Nhưng rốt cùng, bố cậu lại bỏ nhà đi xa.
Giờ phút này Johnny phải nghi vấn tất cả những điều ấy, tất cả mọi thứ cậu đã được dạy với niềm tin mãnh liệt. Thượng đế đã không quan tâm gì đến nỗi đau khổ của con người. Ngay cả đến những sinh linh bé nhỏ. Hoàn toàn không có cái gọi là công lý, công bằng, hay cộng đồng; hàng xóm không ai giúp đỡ ai và kẻ hiền thì chẳng bao giờ gặp lành trên cõi đời này. Tất cả những điều bố nói đều là dối trá. Nhà thờ, cảnh sát, mẹ cậu... chẳng ai làm được điều gì ra hồn, chẳng ai có tài cán gì. Cả năm trời, Johnny sống với một sự thật phũ phàng khi cậu buộc phải tự lực cánh sinh.
Nhưng cuộc đời là vậy. Hôm nay chắc chắn như xi măng, ngày mai có thể vỡ tan như cát vụn; sức mạnh chỉ là ảo tưởng; niềm tin chỉ là con số không. Rồi thì sao? Cái thế giới huy hoàng một thời của cậu trở nên lạnh giá, sương mù ẩm ướt. Cuộc sống là như vậy, một trật tự mới. Johnny không còn điều gì để bám víu ngoài chính bản thân mình, và đó là lẽ sống cậu tự định đoạt trong đầu - đường đi, chọn lựa, và không quay lưng trở lại.
Cậu ngắm nhìn kỹ những tấm hình của bố: một tấm chụp ông đứng đằng sau chiếc bánh xe tải, đeo kính râm và mỉm cười; một tấm chụp cảnh ông đứng rón rén trên nóc nhà, cái túi da đựng kìm, búa, đinh đeo thõng xuống một bên hông. Vóc dáng của ông tráng kiện: bờ vai lực lưỡng, ria mép đen thẫm. Johnny quan sát tìm xem có điểm nào giống bố không, nhưng trông cậu quá mong manh, làn da lại quá mỏng. Cậu không có vẻ ngoài mạnh mẽ, nhưng nó chỉ là những gì trên bề mặt.
Cậu là người mạnh mẽ.
Rồi tự nhắn nhủ mình: Mình sẽ mạnh mẽ.
Có nhiều điều khó biểu lộ, cho nên cậu không nói. Cậu làm ngơ giọng nói nho nhỏ trong tiềm thức, tiếng nói của một đứa trẻ. Cậu nghiến chặt xương hàm và sờ những tấm ảnh lần chót; sau đó nhắm nghiền mắt lại, và khi cậu mở bừng đôi mắt, cảm xúc bỗng dưng biến mất.
Cậu không còn cô độc nữa.
Trong chiếc vali đựng tất cả những gì Alyssa mong nhớ nhất, những món mà cô bé sẽ muốn có chúng khi trở về nhà. Cậu bắt đầu mang chúng ra: nhật ký của cô, chưa hề đọc; hai con thú bông mà cô luôn mang bên mình; ba cuốn album ảnh; sổ học bạ; những CD cô yêu thích; một cái hộp nhỏ đựng những bài kiểm tra cô được điểm cao trong lớp mà cô lưu giữ chúng như báu vật.
Hơn một lần mẹ cậu hỏi về những đồ vật đựng trong vali, nhưng Johnny thừa khôn ngoan để không hề tiết lộ. Nếu bà ấy trộn nhầm thuốc và uống thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Bà sẽ vứt chúng đi hoặc thiêu đốt chúng ở vườn sau nhà, đứng giữa trời như con ma trơi hoặc gào thét nói lên sự đau khổ của bà như thế nào mỗi khi nhớ về đứa con gái. Đó là những gì đã xảy ra với các tấm hình của bố cậu và những đồ vật nhỏ bé, linh thiêng một thời chất chứa đầy trong phòng em gái cậu. Chúng đã lụi tàn trong màn đêm hoặc biến thành tro bụi trong bão lửa khi mẹ cậu lên cơn thịnh nộ.
Dưới đáy vali là một tập bìa cứng màu xanh. Bên trong bìa cứng là một xấp bản đồ và một tấm ảnh Alyssa cỡ 8x10 cm. Johnny để bức ảnh qua một bên và giở tung những tấm bản đồ. Một bản đồ tỷ lệ lớn, trong đó vẽ vị trí quận hạt nằm trải rộng bên trong vùng viễn đông Bắc Carolina, không hẳn nằm trong các cồn cát, ở Piedmond hoặc vùng đầm lầy; mất hai tiếng đồng hồ đi từ Raleigh, và có lẽ cách bờ biển khoảng một giờ đồng hồ. Vùng phía bắc của quận hạt hầu hết đều là đồng quê: rừng, đầm lầy và rặng đá granite dài ba mươi dặm, nơi đây một thời người ta đã đào hầm sâu vào lòng đất để tìm vàng. Một dòng sông chảy xuống từ phía bắc chia đôi quận hạt, chỉ cách thị xã vài dặm đường. Phía tây là vùng đất thịt đen, rất tốt cho việc trồng nho và dựng nông trại, phía đông là những đồi cát với một chuỗi những sân gôn sang trọng, và xa hơn nữa là hàng loạt những thị xã nhỏ bé, nghèo khó vất vả mưu sinh hàng ngày. Johnny đã từng đến vài nơi ở vùng đất nghèo đó, cậu nhớ cỏ dại mọc cả trên rãnh nước, nhiều cửa hiệu và nhà máy đóng cửa không còn hoạt động, những người đàn ông gầy yếu ngồi dưới bóng cây uống những chai nước to đựng trong các túi giấy màu nâu. Đi quá những thị trấn hoang tàn khoảng năm mươi dặm sẽ đến Wilmington và bờ biển Đại Tây Dương. Bang Nam Carolina lại là một vùng đất xa lạ ở đâu đâu vượt ra ngoài tấm bản đồ.
Johnny xếp tờ bản đồ lớn vào trong tập bìa. Những tấm bản đồ còn lại vẽ chi tiết đường phố trong thị xã. Mực đỏ đánh dấu số nhà trên đường, các dấu X nhỏ đánh dấu những địa chỉ riêng biệt. Những dòng ghi chú viết tay ở góc bìa tờ bản đồ. Một số khu phố hoàn toàn chưa ghi chép gì; một số trong đó bị gạch chéo như những vùng đất cấm lai vãng. Cậu nhìn kỹ khu vực phía tây thị xã, thắc mắc không biết khu vực mà Jack đề cập đến là khu nào. Cậu phải hỏi lại Jack. Sau này.
Johnny nghiên cứu bản đồ thêm vài giây nữa, rồi xếp nó lại đặt qua một bên. Những thứ liên quan đến Alyssa được bỏ gọn vào vali, chiếc vali được cất xuống gầm giường. Cậu nhặt tấm ảnh lớn lên và nhét một cây bút mực đỏ vào trong túi. Cậu vừa đi ra phía ngoài cửa chính và định khoá trái cửa thì một chiếc xe bán tải rẽ vào con đường xi măng dẫn vào nhà. Sơn xe loang lổ đầy trên nóc tạo thành những mảng to bé bừa bãi; thành xe phía trước bên phải bị móp méo, sét rỉ. Chiếc xe trườn vào con đường dẫn vào nhà, động cơ co giật, và linh tính Johnny báo trước có chuyện chẳng lành. Cậu quay người lại, cuộn tròn tấm bản đồ và nhét nó vào trong túi cùng cây bút đỏ. Cậu giữ tấm ảnh trên tay để nó không bị nhàu nát. Khi chiếc xe dừng hẳn, Johnny thấy một vệt xanh chói sáng qua lớp kính; sau đó cửa kính hạ xuống. Khuôn mặt người bên trong xe xanh xao và húp híp.
“Lên đi,” người đàn ông giục.
Johnny bước xuống bậc rồi phóng nhanh qua những mảng cỏ và cỏ dại. Cậu dừng ngay tại bờ kè đường xi măng dẫn vào nhà. “Steve, ông làm gì ở đây vậy?”
“Chú Steve.”
“Ông mà chú cháu với tôi cái gì.”
Cửa xe kẽo kẹt mở bật ra, người đàn ông bước xuống. Ông ta mặc bộ áo liền quần màu xanh, trên cầu vai có đeo huy hiệu màu vàng. Thắt lưng to dày màu đen tuyền. “Tôi là anh em họ với bố cậu, là họ hàng thân thuộc của nhau. Hơn nữa, cậu đã từng gọi tôi là chú Steve khi cậu lên ba.”
“Chú có nghĩa là thân tộc, và điều đó có nghĩa chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau. Tôi không gặp ông sáu tuần lễ nay, và tính cả tháng trước đó. Ông trốn biến đâu mất tiêu vậy?”
Steve móc hai ngón cái vào thắt lưng làm cho sợi dây to cứng kia cọ quẹt kẽo kẹt. “Mẹ cậu dạo này qua lại với những người giàu có đấy Johnny. Của trên trời rơi xuống.” Ông ta vẫy một tay. “Nhà ở miễn phí. Không phải làm việc. Quá đã con trai ơi, tôi không thể làm gì hơn để giúp bà ấy trong khi bạn trai bà ấy có thể làm hơn tôi gấp ngàn lần. Ông ta làm chủ thương xá, rạp ciné. Ông ta làm chủ cả một nửa cái thị trấn này rồi, lạy Chúa. Ông ta đâu cần những người như tôi đây đứng làm kỳ đà cản mũi.”
“Kỳ đà cản mũi?” Johnny không tin những điều chính tai mình nghe.
“Không phải...”
“Ông sợ ông ta thì có,” Johnny nói với giọng khinh miệt.
“Ông ta ký tên vào chi phiếu trả lương cho tôi và khoảng bốn trăm gã khác. Nếu ông ấy bạc đãi mẹ cậu, hoặc làm những gì tương tự như vậy, nó là một chuyện. Nhưng ông ấy đang giúp bà ta. Có đúng thế không? Nếu đúng vậy thì tại sao tôi lại làm kỳ đà cản mũi. Bố của cậu hiểu điều này mà.”
Johnny quay mặt đi chỗ khác. “Không phải ông đang trễ giờ làm việc ở thương xá à?”
“Đúng rồi. Lên xe mau đi.”
Johnny không nhúc nhích. “Ông đến đây làm gì vậy ông Steve?”
“Mẹ cậu gọi điện thoại và hỏi liệu tôi có thể giúp chở cậu đi học không. Bà ấy nói cậu nhỡ xe bus.”
“Tôi sẽ không đi học.”
“Cậu phải đi học.”
“Không tôi không đi đâu cả.”
“Lạy chúa, Johnny. Tại sao cậu cứ phải làm cho tất cả mọi chuyện trở nên quá khó khăn vậy? Hãy lên xe đi.”
“Sao ông không nói với bà ấy là ông đã đón tôi đi và làm lơ luôn chuyện này?”
“Tôi đã nói với bà ấy tôi sẽ đón cậu, cho nên tôi phải đón cậu. Tôi sẽ không đi đâu cho đến khi cậu lên xe. Tôi sẽ bắt cậu nếu tôi buộc phải làm như vậy.”
Johnny chùng giọng. “Ông đâu phải cảnh sát. Ông chỉ là nhân viên an ninh. Ông đâu được phép bắt tôi làm bất cứ điều gì.”
“Dẹp chuyện này đi,” Steve nói. “Cậu hãy chờ ngay tại đây.” Ông ta bực tức lách người khỏi Johnny và tiếng kêu của kim loại va chạm phát ra từ thắt lưng ông. Đồng phục của ông ta ủi hồ thẳng nếp và từ hai bên đùi chúng phát ra âm thanh sột soạt.
“Ông đang toan tính chuyện gì vậy?”
“Nói chuyện với mẹ cậu.”
“Bà ấy đang ngủ,” Johnny nói.
“Tôi sẽ đánh thức bà ta. Đừng có đi đâu. Tôi nói thật.” Ông ta đi vào bên trong, căn nhà nhỏ bé hăng hắc mùi bia rượu đổ và xà phòng lau nhà. Johnny nhìn dõi theo cánh cửa đã đóng hẳn, rồi liếc qua chiếc xe đạp. Cậu có thể phóng lên và biến mất trước khi chú Steve trở ra, nhưng điều này không nên với kẻ trượng phu. Sau đó Johnny lôi tấm bản đồ ra khỏi túi, vuốt nó thẳng ra trên ngực áo. Cậu hít một hơi thở tự tin, đi vào bên trong nhà, sẵn sàng đương đầu với vấn đề.
Trong nhà yên lặng như tờ, đèn vẫn tối mù. Johnny rẽ vào hành lang ngắn và dừng lại. Cửa phòng mẹ cậu mở to, Steve đứng trước cửa, không nhúc nhích. Johnny nhìn thoáng vài giây đồng hồ, nhưng Steve không nói cũng không có động tĩnh gì. Khi Johnny đến gần hơn, cậu có thể trông thấy một khoảng không gian trống trong phòng ngủ mẹ cậu. Bà vẫn ngủ, nằm ngửa, một tay vắt ngang che hai mắt. Cái chăn đắp kéo tụt xuống tận bụng, và Johnny thấy mẹ mình không mảnh vải che thân, nằm bất động, còn Steve thì đứng chết trân ngắm nhìn. Sau đó Johnny hiểu ra. “Thế này là thế nào?” Sau đó lớn tiếng hơn: “Thế này là thế nào ông Steve?”
Steve lúng túng trong tội lỗi. Ông ta đưa tay lên, những ngón tay xua ra. “Không phải như cậu nghĩ đâu.”
Nhưng Johnny dường như không nghe điều gì cả. Cậu bước năm bước nhanh chóng và kéo sập cửa phòng mẹ lại. Bà ấy không hề cựa mình. Johnny xoay lưng về phía cánh cửa, cậu cảm thấy lửa bốc ngùn ngụt lên hai mắt. “Steve, ông là kẻ bệnh hoạn! Bà ấy là mẹ tôi.” Johnny đảo mắt nhìn quanh như thể đang tìm kiếm một cây gậy hoặc khúc chày vồ, nhưng không tìm thấy gì. “Ông bị làm sao vậy hả?”
Đôi mắt Steve phát một dấu hiệu chống chế hiếm thấy. “Tôi chỉ mới mở cửa. Tôi có chủ ý gì đâu. Tôi thề trước thượng đế đấy, Johnny! Tôi không phải hạng người như vậy. Tôi thề đó. Giơ tay lên trước Chúa.”
Một lớp mồ hôi nhễ nhãi bóng láng trên da mặt Steve. Gã quá sợ hãi, trông thật thảm hại và tội nghiệp. Johnny chỉ muốn phóng cho ông ta một cước vào hạ bộ. Cậu chỉ muốn vật gã xuống sàn nhà, lấy đoạn ống nước cất giấu dưới gầm giường đánh cho hạ bộ của gã dập nát. Nhưng cậu nghĩ đến bức ảnh của em gái Alyssa và những việc cần phải làm. Và những gì cậu đã tích luỹ được trong suốt một năm qua. Cậu học được điều cần thiết phải xếp hạng cảm xúc ưu tiên của mình. Giọng nói của cậu trở nên lạnh lùng và điềm đạm. Cậu còn có việc phải làm, và gã Steve sẽ phải giúp cậu. “Chú nói với bà ấy chú đã chở cháu đến trường học.” Johnny gật gù bước đến gần hơn. “Nếu mẹ cháu có hỏi, chú chỉ nói bao nhiêu đó.”
“Và cháu sẽ không làm lớn chuyện này?”
“Không, nếu chú làm đúng những gì cháu yêu cầu.”
“Thề nhé?”
“Đi đi chú Steve. Hãy đi làm đi.”
Steve biến ra khỏi nhà, hai tay vẫn giơ lên. “Tôi không có ý gì khác thật mà.”
Nhưng Johnny cũng không có gì khác để nói. Cậu đóng cửa lại, trải tờ bản đồ trên mặt bàn nhà bếp. Cây bút đỏ trơn tuột giữa các ngón tay. Cậu vuốt bàn tay trên tờ giấy co nhàu, sau đó hướng ngón tay về khu phố mà cậu điều nghiên trong suốt ba tuần qua.
Cậu chọn ngẫu nhiên một con đường.