Bà có phải một người mẹ mẫu mực hay không?
Da thịt bà bị kéo căng ngang qua những phần xương xẩu của khuôn mặt mòn mỏi và quá mức xanh xao. Mái tóc trên đầu nặng nề hơn thường lệ, và những ngón tay của bà run rẩy khi bà đưa nó lên tận gò má. Bà thấy móng tay bà trở nên dòn, dễ gẫy vụn, đôi mắt thâm quầng. Bà tìm kiếm một cái gì đó quen thuộc, nhưng đôi mắt lại dối trá.
Hình ảnh Johnny hằn sâu trong đầu bà. Cậu được băng bó trắng toát; và bà nhớ trước tiên đến cô con gái song sinh.
Alyssa.
Cái tên rớt qua đôi môi của bà, chút xíu nữa làm bà ngã quỵ. Bà bấu chặt bồn rửa mặt, rồi một tay đưa lên. Bà tìm tấm gương, và với tất cả sự kinh tởm, bà mở nắp tủ. Những chai lọ đựng thuốc chất đầy ba ngăn kệ. Nhựa màu cam. Nhãn chai trắng. Bà cầm bừa một chai: Vicodin. Bà mở nắp, đổ ba viên vào lòng bàn tay. Chúng có thể làm tan biến đi, những hồi ức lung linh, những mất mát.
Mồ hôi chảy xuống lưng. Miệng bà khô quánh một cách đau đớn và bà có thể cảm được nó như thế nào trên đầu lưỡi - nuốt khan, rất khó khăn, những viên thuốc đắng nghét ứ đọng trong cổ họng. Nhưng khi ngẩng đầu lên nhìn vào trong gương, bà thấy đôi mắt chẳng khác nào mắt giấy cắt bằng kéo, và chúng mờ nhạt như thể bản sao sau nhiều lần sao đi sao lại. Chúng trông giống như đôi mắt Johnny. Không phải lúc nào trông cũng như vậy. Cả hai mắt.
Bà nghiêng bàn tay để những viên thuốc rơi xuống, tạo ra những âm thanh nhỏ như chạm phải gạch tráng men. Bất thình lình trong cơn hoảng loạn, bà lôi hết những chai thuốc ra, cào chúng rớt xuống chậu rửa mặt. Từng lọ một, bà mở nắp, đổ hết thuốc xuống bồn cầu. Một lọ. Hai mươi lọ. Bà đổ tất cả chúng đi và kéo nước bồn cầu. Chớp nhoáng.
Phải hành động chớp nhoáng.
Bà mang hết những chai lọ rỗng, vứt hết vào giỏ rác và lôi bọc rác ra ngoài. Thời gian trôi qua mau khi bà dọn dẹp và chùi rửa. Sàn nhà. Tủ lạnh. Cửa sổ. Giờ giấc trở thành hơi nóng mờ nhoà của mồ hôi và thán khí. Bà nhồi nhét khăn trải giường vào máy giặt, đổ rượu xuống bãi cỏ dại và vứt chai lọ thuỷ tinh vào cái thùng khiến chúng vỡ toang và nổ tung khi bà quay lưng đi vào nhà khuân thêm ra. Cuối cùng, bà nhìn vào tấm gương. Máu bầm tụ ở phần thịt mềm dưới cằm. Bà mở vòi nước nóng, chùi rửa khuôn mặt cho đến khi da bỏng rát, nhưng đôi mắt nhìn vẫn có vấn đề. Bà cởi bỏ áo quần và bước vào bồn tắm; nhưng như vậy vẫn không đủ.
Bụi bặm bám mãi tận bên trong.
Johnny thức giấc một mình trong căn phòng xa lạ. Cậu nghe thấy tiếng chân bước ở xa bên ngoài cánh cửa, âm thanh câm nín. Một bác sĩ được gọi trên hệ thống loa liên lạc, và nhiều mảng ký ức của cậu được phục hồi. Cậu sờ lớp băng trên ngực, thấy đau đớn, sau đó cố ngồi dậy khi cơn nôn hành hạ. Mắt nảy đom đóm: màu đỏ nhạt xuyên qua cửa sổ, trắng trơ dưới cánh cửa. Cậu tìm kiếm mẹ cậu giữa những bức tường chao đảo. Khi ngồi dậy, cậu thấy dấu vết bồ hóng dưới móng tay, gợi nhắc nước dâu và vết máu khô trên những ngón tay. Những cái lông không còn, nhưng nó cũng không còn cần thiết nữa. Cậu nhắm mắt và hình dung cú vồ hụt của gã Jar. Cậu ngửi thấy mùi nệm da ô tô, cảm được mặt đường lạnh lẽo khi Jar đè nát cổ cậu và chém bằng chính con dao của cậu.
Johnny kéo hai tay dưới tấm ga trải giường, nhưng vẫn cảm nhận được cái lỗ sau đầu của gã Jar nóng ấm, sũng nước. Cậu nghe thấy âm thanh chuyển từ nặng nề sang mềm mại và nhớ là gã Jar đã chết. Johnny lăn người qua bên hông và đóng cửa lại. Cánh cửa quá nhẹ khiến Johnny không hề nghe thấy tiếng động. Cậu linh cảm thấy có sự chuyển dịch của không khí và sự xuất hiện của ai đó bên cạnh giường cậu. Cậu mở mắt và thấy Thám tử Hunt, trông dáng điệu bơ phờ, nụ cười gượng gạo. “Tôi lẽ ra không được phép có mặt ở đây,” ông nói, chỉ về hướng cái ghế. “Cậu cho phép tôi chứ hả?”
Johnny duỗi thẳng người trên gối. Cậu cố nói nhưng cả thế giới này được gói chặt trong bông băng.
“Cậu cảm thấy sao rồi?” thám tử Hunt hỏi.
Hai mắt Johnny nhìn vào cây súng mà báng của nó đội lên dưới áo khoác ngoài của ông thám tử.
“Tôi bình thường.” Những chữ nặng trịch, chậm rãi và giả dối.
Hunt ngồi. “Chúng ta có thể nói chuyện được không?” Johnny không trả lời, và thám tử Hunt ngả người về phía trước. Ông chụm các ngón tay làm thành cái tháp chụp và đặt hai cùi chỏ lên hai đầu gối. Cái áo khoác hé mở, và Johnny có thể thấy bao súng sờn cũ, sơn đen bóng bao bọc bên ngoài lớp thép. “Tôi cần biết chuyện gì đã xảy ra.”
Johnny không trả lời. Cậu không nhúc nhích.
“Cậu có thể nhìn thẳng vào tôi không, con trai?”
Johnny gật đầu, nhưng cậu cảm thấy đôi mắt dường như quá nặng nề để ngước lên.
“Johnny?”
Johnny nhìm chằm chằm vào cây súng. Báng súng sọc ca-rô. Đầu ruồi của khoá an toàn màu trắng. Tay cậu di chuyển, và ông cớm vẫn ngồi yên, ngay cả khi Johnny với tay chộp khẩu súng. Cậu chỉ muốn cầm nó, để biết nó có nặng như dáng dấp của nó không, nhưng cây súng biến dần thành một quả cầu ánh sáng. Một sức nặng đè lên trên ngực Johnny. Nó ép chặt cậu xuống nệm giường và cậu nghe giọng ômg cớm ở một nơi nào đó rất xa. “Johnny. Tỉnh dậy đi. Johnny.”
Sau đó cậu rơi xuống, và ai đó đóng những cây cọc đen vào hai mắt của cậu.
Bà Katherine ủi áo quần và đồ đầm. Bà phải cố gắng để giữ vững các ngón tay, nhưng những cái cúc áo dường như rất bé nhỏ. Bà sấy khô mái tóc, chải những gút trên tóc, và đắn đo về chuyện trang điểm. Cuối cùng, bà trông giống như một người phụ nữ bình thường trong thân xác của một người nào đó đang ốm nặng. Khi gọi taxi, bà phải suy nghĩ mãi mới nhớ ra số nhà; sau đó bà ngồi chờ ở rìa chiếc ghế sofa. Chiếc đồng hồ gõ nhịp trong nhà bếp.
Bà giữ thẳng lưng.
Mồ hôi bắt đầu rịn thành giọt ở giữa hai bả vai. Bà tưởng tượng hơi men của một ly rượu và nghe lời ru vỗ đứa trẻ vào giấc ngủ của một ngày quá khứ quên rồi.
Chuyện đó quá dễ.
Quá dễ, quá dễ.
Ý quyết cầu nguyện bao phủ lên bà như một cái bóng. Như thể nếu bà chớp mắt, sau đó mở mắt ra, sẽ không còn ánh sáng khác thường. Sự cám dỗ dâng trào từ một nơi nào sâu thẳm trong tiềm thức, bầu nhiệt huyết một thời biết sợ hãi bây giờ bị dồn ép chỉ còn là chút gì đó tối đen và lạnh lẽo. Bà chống chọi sự cám dỗ, nhưng ngã gục, và khi quỳ xuống, bà thấy mình như một kẻ giả dối, một sự nguỵ tạo, như một lữ hành đi lạc trong một đêm mưa gió không ngừng.
Chữ nghĩa, trước tiên, chối từ xuất hiện, và cảm giác như chính Chúa đóng sầm cổ họng bà. Nhưng bà cúi cằm xuống và cố nhớ lại cảm giác như thế nào. Trơ trọi. Tin cậy. Cúi mình van nài. Và đó là những gì bà đã làm. Bà van xin Chúa ban thêm nghị lực, và cho con trai sớm bình phục. Bà van xin Chúa che chở giúp đỡ trong yên lặng nhưng rất mãnh liệt. Bà van xin giữ được những gì đang có: con trai, cuộc sống thường ngày với con. Khi đứng dậy, bà nghe như có tiếng bánh xe trên sỏi đá, âm thanh lạo xạo như tiếng mưa rơi. Và sau đó âm thanh chấm dứt. Ken Holloway gặp bà ở ngoài cửa.
Quần áo vest ủi hồ thẳng tắp, cà vạt màu tím đậm, buông thõng trên cổ. Bà Katherine chết lặng khi thấy vẻ mặt bực bội của ông ta, mồ hôi thấm trên cổ áo. Bà hướng mắt nhìn vào mớ lông măng bao phủ cổ tay của gã.
“Em làm gì thế?” Gã bụm cằm bà bằng ngón tay cứng như thép. “Em chưng diện vì ai vậy?” Bà không thể trả lời. Gã bóp mạnh cằm bà. “Tôi nói, em chưng diện vì ai?”
“Tôi đi đến bệnh viện,” giọng bà nhỏ nhẹ.
Ken nhìn đồng hồ đeo tay. “Giờ thăm bệnh nhân sẽ chấm dứt trong khoảng một tiếng nữa. Hay là em kiếm cho chúng ta mỗi người một ly gì đó uống và em có thể đi vào ngày mai?”
“Họ sẽ thắc mắc tại sao tôi không có mặt ở đó.”
“Ai sẽ thắc mắc?”
Bà nuốt giọng. “Sở Xã hội.”
“Quan chức. Họ đâu làm phiền em được.”
Bà ngẩng cao đầu. “Tôi phải đi.”
“Pha cho tôi ly rượu.”
“Trong nhà không còn gì hết.”
“Cái gì?”
“Hết rồi. Tất cả mọi thứ.” Bà cố lách mình qua khỏi gã ta. Gã dùng cánh tay hộ pháp chặn bà lại.
“Giờ này trễ rồi.” Gã lần một tay xuống tấm lưng nhỏ bé.
“Tôi không thể.”
“Tôi bị giam suốt cả đêm.” Gã vồ chặt tay bà. “Lỗi là do thằng Johnny. Tại thằng con của em đấy. Nếu nó đừng ném cục đá xuyên qua cửa sổ nhà tôi...”
“Ông đâu biết nó làm điều đó.”
“Có phải em đang chống đối lại tôi?”
Tay bà bùng lên đau nhói. Bà nhìn những ngón tay của gã. “Buông tay tôi ra.”
Gã cười, và bà cảm thấy gã đang lấn át bà, ngực gã ép vào bà khi gã chắn lối đi ở cửa. Gã bắt đầu đẩy lùi bà vào nhà. “Buông ra,” bà nói. Nhưng gã đẩy bà vào nhà, cặp môi mỏng của gã mím lại dưới con mắt không tha thứ. Hình ảnh cậu con trai bỗng ẩn hiện trong bà, chiếc cằm bé nhỏ tựa trên cánh tay bất động khi cậu bé ngồi ở hàng hiên nhìn lên trên ngọn đồi chờ ngóng dấu hiệu cha nó trở về. Bà đã trừng phạt cậu về chuyện này, nhưng giờ thì bà thấm thía niềm hy vọng mà cậu bé trông ngóng. Ánh mắt bà lướt từ cánh tay gã Ken ngước lên, bà nhìn về hướng ngọn đồi quen thuộc. Bà hình dung chiếc xe tải của ông chồng nhấp nhô, nhưng ngọn đồi vắng lặng, con đường là một chuỗi dài tĩnh lặng. Gã Ken phát ra âm thanh từ trong cuống họng, và khi bà nhìn lên, bà thấy nụ cười trên khuôn mặt gã. “Ngày mai,” gã nói. “Johnny. Chuyện đầu tiên.”
Bà lại nhìn lên đỉnh đồi, thấy ánh chớp của kim loại khi một chiếc xe vượt qua trên đỉnh đồi. Bà nín thở, sau đó nhận ra chiếc xe ô tô. “Taxi của tôi,” bà nói.
Ken lùi bước khi chiếc taxi chậm bánh. Bà Katherine giằng mạnh cánh tay của mình, nhưng cảm nhận được sự giận dữ của gã đàn ông cao lớn đang đứng đó. “Tôi phải đi,” bà nói, sau đó vượt qua người gã và nhìn thấy chiếc taxi trên đường dẫn vào nhà.
“Katherine.” Nụ cười của gã bất ngờ rạng rỡ, và bất kì ai cũng có thể nghĩ nó rất thành thật.
“Chúng ta sẽ nói chuyện vào ngày mai.”
Bà quăng mình vào trong taxi, cảm nhận chiếc ghế sau lưng ám mùi khói thuốc lá, quần áo không giặt giũ và keo xịt tóc. Ông tài xế da nhăn nheo gấp nếp và một vết sẹo trên cổ. “Bà đi đâu?”
Bà Katherine vẫn nhìn trông chừng Ken Holloway.
“Thưa bà?”
Gã Ken vẫn đứng cười.
“Đến bệnh viện,” bà nói.
Ông tài xế nhìn bà qua kính chiếu hậu. Bà biết ông nhìn mình và nhìn đáp trả. “Bà không sao chứ?” Ông ta hỏi.
Bà toát mồ hôi và run rẩy tay chân. “Tôi không sao,” bà nói.
Nhưng bà nhầm.