Gió kéo mấy lá cỏ lướt nhẹ trên gương mặt Phương Đăng. Nó cúi đầu, lác đác mấy bông hoa dại không rõ tên bị giẫm nát dưới gót giày. Bốn bề mọc đầy thứ cỏ dại xơ xác cao quá đầu, chúng khom mình trong gió, nhìn theo nó rì rầm chuyện gì đó. Căn phòng nhỏ nơi nó và cha đang ở trở thành một hình bóng mơ hồ sau lưng, còn phía trước không xa, dưới bông hoa màu tím của cây kê huyết đằng và những sợi râu dài rủ xuống gốc đa, tấm rèm nhung màu đỏ tươi khẽ lay động trong gió.
Nó giờ đã đứng trong khu vườn hoang nhà họ Phó. Căn nhà tổ nguy nga tráng lệ của ông vua cao su trong truyền thuyết giờ chỉ còn là tường đổ gạch nát. Duy nhất khu nhà nhỏ phía đông là tương đối nguyên vẹn, còn dãy hành lang lát đá đại lý ở khu giữa lẫn khu tây đều nhuốm màu hoang tàn, làm cảnh vật càng thêm ảm đạm.
Phương Đăng rẽ đám cỏ dại đi về khu nhà phía tây. Rõ ràng không quá mười mấy bước nhưng đám thực vật sinh sôi điên cuồng phía dưới cứ như giăng ra một lưới bẫy, trói chặt lấy chân nó. Nó phải bước đi thật chậm, ngón tay bị những ngọn cỏ sắc nhọn cứa đứt, vậy mà không đau chút nào. Nó thở ra phì phò, nhìn lên, cánh cửa ấy vẫn không gần không xa. Lòng như lửa đốt, chẳng nghĩ thêm được gì, con bé hướng về phía ấy thét gọi một cái tên.
Nó nghe được cái tên này từ đâu? Trong lời thầm thì của bà cô, hay từ mẩu đối thoại của những kẻ nhàn rỗi trên đảo? Cái tên vừa thốt ra liền bị gió thổi tiêu tán. Đúng vào lúc ấy, tấm rèm nhung màu đỏ tươi bị ai đó chầm chậm vén lên.
Cậu ta đứng bên mép khung cửa sổ hình bán nguyệt trổ cành hoa uốn lượn, lặng lẽ nhìn Phương Đăng. Chính là gương mặt thoáng qua lúc trưa, mềm mại tao nhã, đẹp mà nhợt nhạt, giống như một phiến đá đại lý sau trận mưa rào, sạch sẽ, mát lành.
Mùa mưa triền miên ở đảo Qua Âm lần đầu tiên tạnh hẳn trong mắt Phương Đăng. Đằng sau cậu thiếu niên, cả thế giới trong cửa sổ mà nó vẫn muốn biết, hóa ra lại là một bầu trời xanh thẳm, mênh mang trong vắt như vừa trải qua một trận mưa lớn, chẳng thể nhìn rõ đường chân trời.
Bộ dạng lúc bấy giờ của cô nhóc chắc ngốc lắm, giống như người nhà quê chân ướt chân ráo lên thành phố vậy. Thậm chí ban đầu nó còn hơi sợ, chầm chậm dừng bước, không dám tiến lên, cũng không muốn đi khỏi.
Chẳng ai nói gì, chỉ nghe tiếng gió, nó cảm thấy cứ thế này thật dễ chịu…. Sau đó trong tiếng gió chẳng hiểu sao cso thêm tiếng nước tí tách, quen thuộc lạ lùng, dường như…là tiếng nước mưa gõ vào ngói a-mi-ăng trên đỉnh đầu.
Phương Đăng mở bừng mắt, rồi lập tức nhắm lại. Thật là phí quá, tỉnh mất rồi. Chẳng còn bầu trời trong xanh, ngoài ô cửa sổ rách nát kia, thế giới lặng lẽ hửng dần trong cơn mưa.
Chỉ một buổi tối ông Phương Học Nông uống hết nửa bình rượu mạnh, bây giờ dưới đất toàn bãi nôn. Hôm nay là Chủ nhật, mai mới phải lên trường làm thủ tục nhập học, Phương Đăng dọn dẹp đống hỗn tạp dưới đất rồi nấu một nồi cháo cho cả hai người. Trưa, vừa mê mệt tỉnh dậy ông Phương Học Nông đã sai con đi mua rượu. Trước ông uống cũng ghê gớm, nhưng vừa dậy đã đòi uống như hôm nay quả là hiếm thấy.
“Không có tiền!” Phương Đăng lạnh lùng cự tuyệt. Sau khi dọn về đảo Qua Âm, cha con bé vẫn chưa ra ngoài đi làm lần nào. Chút tiền ít ỏi trong tay nó bây giờ chính là miếng ăn nửa tháng tới của hai người, có đánh chết nó cũng không lấy ra.
“Không có thì cứ mua chịu trước. Bảo với lão Đỗ ở dưới nhà là mua cho tao, thế nào lão cũng đưa.”
Phương Đăng nghe xong cười nhạt. Ông Đỗ chủ hàng tạp hóa ở tần một lần nào gặp cũng chỉ biết hỏi cha con “Phương huyết nùng” bao giờ trả tiền thuê phòng nửa tháng sau thôi.
Phương học nùng thấy con gái không nói năng gì, bực bội đưa tay chặn trước mặt con bé, “Mau, đi mau rượu nhanh!”
Phương Đăng vốn định hất tay ông ra, nhưng ngẩng đầu nhìn bỗng thấy trong đôi mắt đục ngầu đầy tia máu kia dường như ánh lên một thứ na ná bi thương. Đã quá lâu rồi nó không nhìn thấy dáng vẻ ra hồn người của ông. Ngoại trừ niềm tha thiết với rượu, những lúc thường ông như cái xác thối không tim, như lúc cô Chu Nhan mất, ông chỉ biết đờ đẫn mang xác đi đốt vậy thôi.
“Ngoan nào, cha chỉ uống nửa lít thôi. Uống hết nửa lít này tiệt không uống nữa.” Phương Học Nông ngọt giọng khẩn khoản. Ông ta biết nếu tự đi, lão Đỗ còn lâu mới chịu cho nợ.
Phương Đăng dĩ nhiên chẳng tin lời con ma men nói. Nhưng thốt nhiên nó thấy thương hại cho người đàn ông khiếp nhược này. Ông sống trên đời liệu còn ý nghĩa gì? Còn có niềm vui gì? Ngoại trừ cảm giác lâng láng ngắn ngủi sau khi bị men rượu kích thích.
“Cho rượu vật chết bố đi.”
Phương Đăng đùng đùng vấn tóc đi xuống nhà. Còn lâu mới ghi sổ được, nó thừa biết. Có đôi khi muốn tiết kiệm chút tiền, ta phải chấp nhận đem thứ khác ra đánh đổi. Con bé để món tiền đủ trả cho một nửa lít rượu lên nóc cái tủ kính cáu bẩn, nứt nẻ rồi đứng chờ. Lát sau, lão già mắc dịch rót rượu đưa ra, chẳng biết vô tình hay cố ý đụng vào cánh tay nó một cái.
Phương Đăng rùng mình, chai rượu chưa kịp đậy sánh mấy giọt ra ngoài. Một thứ cảm giác buồn nôn xộc lên. Con bé đứng im, liếc xéo lão già trước mặt.
Lão Đỗ giở trò thành công, lại thấy con bé không tỏ thái độ gì, không hoảng sợ cũng chẳng bỏ chạy, lão đoán chắc nó sợ hãi quá ngớ người rồi, hoặc có lẽ ngây ngô chưa hiểu ý tứ bên trong. Lão mừng thầm, được nước làm tới, thò một bàn tay về phía ngực nó.
“Mày giống ý đúc cô mày ngày xưa, sao mà đẹp thế…mái tóc này.”
Ban ngày ban mặt cửa hàng còn mở tênh hênh, lão Đỗ không dám manh động, ngón tay khẽ chạm vào mấy lọn tóc rủ trước ngực Phương Đăng, hơi ngừng một tí lại rụt về.
Phương Đăng cúi xuống nhìn, đúng vào lúc lão rụt tay, con bé không nhịn được chộp ngay lấy, khẽ nức nở một tiếng như sắp sửa la khóc đến nơi. Lão Đỗ làm sao đoán nổi nó lại như thế, theo bản năng định bịt miệng con bé lại. Phương Đăng vùng vẫy rít lên một tiếng. Tiếng kêu này không to cũng không nhỏ, nhưng đủ làm cho lão Đỗ hoảng hồn. Vợ lão đang xào nấu trong căn bếp phía sau, hai mặt chỉ cách nhau có một phòng ngủ. Người đàn bà này vừa dữ tợn vừa to béo, ngày thường chẳng có chuyện gì lão Đỗ vấn khiếp bà ta ba phần. Lão già cùng lắm chỉ có gan lén chòng ghẹo con gái nhà thằng nát rượu, chẳng may bị hung thần trong kia nhìn thấy, lão không chết cũng bị lột da.
“Đừng kêu! Lỡ ai nhìn thấy thì bác còn mặt mũi nào!”
“Ngữ ông có còn mặt mũi mà mất!” Mặt Phương Đăng lộ vẻ ghê tởm, hai mắt ngấn lệ, giữ rịt lấy tay lão Đỗ không buông, cũng không rõ sức lực lấy đâu ra mà khỏe thế.
Lão Đỗ sợ sệt ngó trước nhìn sau, Phương Đăng thừa cơ thoát ra, trong lúc giằng co, tiếng nói con bé lại to thêm vài phần, “Ông định làm gì, tay để cho đàng hoàng đi!”
Bấy giờ là buổi trưa, đa số mọi người ở nhà chuẩn bị ăn cơm, mưa lại lớn, người đi trên đường không nhiều. Lão Đỗ dường như nghe thấy tiếng bước chân từ nhà bếp từ phía sau vọng ra.
“Mày có tin vợ tao xé xác mày ra không hả?”, lão cuống quá lên tiếng dọa nạt.
“Ông sờ mó linh tinh, tôi phải mách bố.” Phương Đăng nghẹn ngào.
Lão Đỗ thở hộc ra, “Ai tin lời con ngớ ngẩn nhà mày!”
“Thế nào cũng có người tin.”
Đúng thế. Ừ thì bố nó là thằng ma men, chẳng dám làm gì ông chủ nhà thật, nhưng vợ lão Đỗ nếu có xé xác nó ra, thì trước hết sẽ bửa cái bàn tay của lão chồng mặt giặc.
Lão Đỗ thấy khuôn mặt xinh xắn của nó như hoa lê ngậm mưa quyết chẳng có ý chịu thua, dường như cũng ngẫm ra nguy cơ phía mình, bèn nhỏ giọng cầu xin: “Im nào, bà trẻ ơi, bà muốn thế nào? Hay thôi tôi không lấy chỗ tiền rượu này nữa nhé?”
Lão vội vàng vơ tiền trên nóc tủ, thuận tay với thêm cái kẹo cao su, nhét cả vào tay Phương Đăng.
Con bé vẫn còn nức nở. Lão Đỗ sợ muốn nhảy tim ra ngoài, “Tiền thuê nhà nửa tháng sau bác lấy rồi, nhé? Được chưa? Thế đã được chưa?”
Cảm giác bàn tay mình được nới lỏng, lão cả mừng chưa kịp phản ứng, chai rượu trên tay Phương Đăng bỗng rơi xuống vỡ tan. Vợ lão Đỗ đứng ở cửa sau tiệm nhìn ra, mặt đầy vẻ ngờ vực.
“Làm cái gì thế hả?”
Phương Đăng khóc nói: “Bác Đỗ đưa vội quá, cháu còn chưa cầm chắc. Đổ hết rượu rồi, bố cháu đánh chết cháu mất!”
“Thế thì tao chịu, tiền rượu vẫn phải lấy chứ.” Vợ lão Đỗ liếc cái bình vỡ dưới đất, “Lão già chết dẫm, có lấy rượu cũng không ra hồn, dọn sạch cho tôi nghe chưa!” Bà ta vừa lầm bầm chửi, vừa quay đầu đi vào trong bếp.
Lão Đỗ thở hắt ra một hơi, mãi mới hoàn hồn, đập vào mắt gương mặt nhòe lệ chẳng rõ vui buồn của Phương Đăng, lão lại được phen đánh trống ngực. Có điều lần này đầu óc đã linh hoạt hơn, nhoáng cái lão đưa ra bình rượu mới.
Phương Đăng đón lấy, không quên nói: “Cảm ơn bác Đỗ ạ.”
Nó ra khỏi cửa tiệm, nghe thấy tiếng lầu bầu của lão Đỗ vẳng theo, “Hãm thật.”
Đang định rẽ vào con đường hẹp dẫn lên lầu, bước chân Phương Đăng bỗng khựng lại. Nó quay ra nhìn về bên trái cửa tiệm tạp hóa. Cạnh bồn hoa trước cổng cô nhi viện Thánh Ân quả nhiên có một người đứng đó. Phải mất đến năm giây Phương Đăng mới nhận được ra đấy là ai.
Trên đảo Qua Âm, chẳng có mấy con đường bằng phẳng, thường không lên dốc lại đổ đèo. Phó gia viện và tiệm tạp hóa ngự ở nơi cao nhất ngõ, cũng là điểm cao nhất trên đảo. Do đó người kia đi về phía này chính là đang leo lên một đoạn dốc. Lão Đỗ và Phương Đăng khi nãy nhìn ra cửa cô nhi viện không phát hiện có người, nhưng từ vị trí người ấy đứng… Phương Đăng ngờ rằng toàn bộ vở kịch ban nãy đều cho cậu ta thưởng thức cả rồi, chỉ có điều cậu không muốn nhúng tay vào thôi.
Giờ đây kịch hay đã hạ màn, cậu ta liền thủng thẳng dạo qua mấy luống hoa, tiếp tục con đường mình đang đi.
Phương Đăng không cất bước, đứng nguyên trước hành lang nhìn theo. Người đó điềm nhiên đi qua Phương Đăng, cứ như nó là một khóm hoa dại bên đường, hoặc cái thùng rác trong ngõ, chẳng liên quan gì đến mình.
Phương Đăng mở miệng định nói, nhưng cổ họng cứ như bị nút kín bông gòn. Thấy cậu ta đi qua tiệm tạp hóa của lão Đỗ, như ma xui quỷ khiến, nó liền bám theo.
Trời vừa đổ cơn mưa, cậu thiếu niên căng chiếc ô màu đen, bảng vẽ đeo sau lưng. Trong tay Phương Đăng chỉ cầm mỗi chai rượu, đành lấy bàn tay còn lại che trên đỉnh đầu, có cũng như không. Nó không cố tình rón rén, cứ bước đi như bình thường bám sát người kia. Tiếng giày cùng tiếng nước mưa đập xuống mặt đá xanh lát đường nghe khá rõ, chắc chắn cậu ta cảm nhận được phía sau có người vậy mà tuyệt không ngoảnh đầu, không bước nhanh hay đi chậm lại, chiếc bảng vẽ đều đều đập vào tấm lưng gầy gò mà thẳng băng.
Đầu Phương Đăng ướt sũng, cứ ngốc nghếch theo sau cậu ta, chẳng biết để làm gì, như thể vẫn chưa thoát khỏi giấc mộng đêm trước. Không tính trong mơ, ở đời thực con bé chỉ mới thoáng thấy gương mặt cậu sau tấm rèm một lần. Nhưng nó biết chính là người đó. Ánh nhìn của cậu, dáng đi của cậu, tất cả đều y như trong tưởng tượng.
Phó gia viện vốn nằm chếch ngay phía trên tiệm tạp hóa, chẳng mấy chốc hai người đã đứng trước cửa lớn. Cả khu nhà nguy nga cùng vườn hoa rộng rãi bị bức tường cao và hai cánh cửa sắt vây kín. Cậu thiếu niên dừng lại bên cửa, rút chìa khóa ra.
Cánh cổng sắt mở kèm theo hàng tràng tiếng kẽo kẹt như người già, cậu ta bước vào, đóng chốt khóa lại như cũ. Phương Đăng đứng cách cánh cổng không xa, đối diện với người đó. Con bé cắn môi, không thốt tiếng nào, cũng không dám ngẩng đầu cao quá, cứ đăm đăm nhìn đôi tay cậu thoăn thoắt bên cái ổ khóa loang lổ rỉ sét. Xong xuôi, người bên trong cửa nán lại nhìn, con bé bèn ngẩng lên, mặt đối mặt.
Ánh mắt cậu ta chỉ dừng trên Phương Đăng một khắc. Là vì hiếu kỳ? Khó hiểu? Hay… ấy là khinh thường? Cậu ta đã đi khuất. Phương Đăng đứng đó hồi tưởng lại chuyện ban nãy ở tiệm tạp hóa, cảm thấy chưa bao giờ khinh bỉ bản thân như lúc này.
Ông Phương Học Nông trông thấy bình rượu còn nguyên niêm phong thì vui ra mặt, chẳng thèm hỏi câu nào đã bật nút uống liền. Phương Đăng rầu rầu nằm trên giường đến tận hoàng hôn mới dậy, nhìn sang thấy cha mình nằm bò trên giường trúc, sợ rằng có đá văng hai chân ông, ông cũng chẳng biết mà kêu đau. Vậy cũng tốt, nó không buồn miệng, bỏ luôn bữa tối cho gọn.
Phương Đăng lại nhớ người ấy. Nó đã nghe mấy chuyện về cậu, còn cậu thì sao? Liệu có biết nó tồn tại trên đời này? Nếu có, cậu ta nhất định biết nó là con gái của một tên ma men. Cha nào con nấy, nó có nói năng hay hành động quá quắt một tí cũng có gì lạ. Nghĩ đến đây bất giác nó thấy buồn, lâu lắm rồi cảm giác này mới lại tìm tới. Bị người ta cười chê, coi thường, nó vốn đã quen rồi. Nhưng nếu lời đồn là thật, vậy cậu ta chính là người thân hiếm hoi còn lại trên đời của nó, ngoại trừ bố ra. Chuyện này thật diệu kỳ làm sao. Một người như thế, xuất thân từ dòng tộc cao sang khác hẳn nó, sống trong ngôi biệt thự truyền thuyết tuy cùng lối ngõ nhưng hoàn toàn cách biệt với nó, vậy mà hai đứa lại là máu mủ ruột già của nhau. Người đó là thứ gì trên mây, hoặc trong giấc mộng mà thôi. Mối liên hệ với người đó chính là thứ tinh khiết, xinh đẹp duy nhất tồn tại giữa cuộc sống bùn nhơ thường ngày của con bé.
Bầu trời dường như bị cơn mưa hút lấy trơ ra một vệt nứt sâu thẳm, mưa gần ngớt hẳn, chỉ còn những tầng mây nặng trịch tắc lại không chịu tan. Phương Đăng phủi phủi đôi bàn tay đầy bùn đất, ngồi vắt vẻo trên tường cao nhìn xuống. Nó là đứa bé con nhà thôn dã, lấy mặt đất dốc đứng cùng cây xoài bên đường làm đà trèo lên bức tường đã xiêu đổ của Phó gia viện, chẳng phải chuyện khó lắm. Góc này không trông ra ngõ, chẳng ai phát hiện nó được. Hàng rào sắt nhọn hoắt, thẳng băng trên đỉnh tường vừa hay bị lở mất một đoạn đủ cho nó ngồi lên trên.
Nhóp nhép cái kẹo cao su lão Đỗ cho ban trưa, nó rướn cổ ngó nghiêng bốn phía. Căn phòng nhỏ cậu ta ở nằm ngay trước mặt, nhưng cửa ra vào lẫn cửa sổ hướng ra phía khác. Dưới chân nó, một mảnh đất trống rộng thênh thang. Trong góc vườn có một cái đình nghỉ mát mái sụt mất một nửa, bên cạnh là miệng giếng, xung quanh hoa cỏ xanh tươi, khác hẳn vẻ hoang liêu nơi cổng chính. Phương Đăng đang phân vân có nên nhảy xuống xem cho rõ, chợt hiểu ra mỗi một cành cây ngọn cỏ nơi này vì sao được chăm sóc tốt đến thế. Nó thấy cái người mình tìm đang cầm cây kéo làm vườn, cắm cúi tỉa tót một chậu kiểng chẳng rõ tên ở góc rẽ tận cuối tầm mắt. Cậu ta chắc chưa biết có một vị khách không mời đang ngồi trên tường cao kia.
Ở bên ngoài cậu ta khiến người khác cảm thấy khó gần, tuy chưa đến mức lạnh nhạt, nhưng cái vẻ xa lạ ấy cứ như dùng một tấm màn ngăn bản thân khỏi tất cả mọi sự. Chuyện lúc trưa thật khiến Phương Đăng bối rối. Con bé nghĩ chắc ở nhà cậu ta cũng ngất ngưởng như thế, giống như một đứa trẻ con nhà có tiền giàu từ trong trứng giàu ra ấy. Mặc dù con nhà có tiền thường làm cái gì, về cơ bản là nó không biết. Dù sao cũng không thể như nó đang thấy: Tay áo xắn cao, ống quần bị nước mưa đọng trên hoa cỏ làm ướt cả, một bên mặt còn lấm chút bùn.
Động tác của cậu ta thật thuần thục, ánh nhìn chăm chú, cây kéo làm vườn trong tay nhẹ nhàng linh hoạt, trông cậu dịu dàng hơn nhiều. Phương Đăng bỗng táo tợn hẳn lên, nhặt lấy một miếng gạch vỡ, ném về phía đó. Viên gạch rơi đúng vào ngọn cây ngọc lan trước mặt cậu thiếu niên. Cái cây khẽ lay động, những giọt nước bắn tóe lên, cậu ta đưa tay hứng lấy. Ngẩng lên nhìn, thấy Phương Đăng đang ngồi trên tường, lần này rõ ràng là cậu kinh ngạc.
“Phó Kính Thù, anh có phải là Phó Kính Thù không?”
Cảm thấy câu hỏi của mình hơi kỳ, Phương Đăng tự bưng miệng cười.
“Cô đi theo tôi làm gì?” Cậu ta không cười, cũng không có vẻ giận.
Phương Đăng đáp: “Hóa ra anh biết nói à. Tôi tưởng anh bị câm cơ. Sao lúc trưa không nói gì?” Cô nhóc muốn tỏ vẻ ngầu, cố thổi một quả bóng thật to, ai ngờ thổi mạnh quá bóng vỡ, dính đầy cả mặt.
Chẳng rõ khóe miệng người kia có phải vừa nhếch lên hay không nữa. Cậu ta nói: “Trưa nay á? À… Tôi sợ cô sẽ bịp cả tôi.”
Nói những lời như thế mà trông cậu ta thật hời hợt. Phương Đăng hầm hầm liếm kẹo cao su dính quanh miệng, mấy thứ này đã dính thật khó làm sạch. “Cái kẹo lởm này!” Nghĩ sơ cũng hiểu những thứ lão Đỗ cho làm gì có cái gì tốt đẹp! Nó không chịu thừa nhận, tâm trạng mình bỗng chốc rối ren chỉ vì một câu nói vô tình mà đâm trúng chỗ hiểm của Phó Kính Thù.
Phó Kính Thù chẳng buồn lên tiếng nữa, lại cúi xuống tỉa tót chậu kiểng tồi tàn, hình thù kỳ dị của mình. Phương Đăng càng nhai tợn, trong tim nỗi sợ thêm dầy.
“Lão ta chẳng phải giống gì tốt đẹp. Từ khi tôi dọn vào mắt lão cứ hấp ha hấp háy, chỉ chực giở quẻ.” Nó cúi đầu nhìn mũi chân mình chốc chốc lại đá bâng quơ vào mấy cành cây bên tường, “Ừ thì tôi cũng lợi dụng lão đấy, nhưng mà lão đáng bị như thế! Phải có người cho lão bài học chứ.”
Tuôn xong một tràng lý luận đanh thép, tự con bé cảm thấy nhạt nhẽo. Nó là sứ giả của chính nghĩa ư? Có heo mới tin.
“Bố tôi không đóng nổi tiền thuê nhà nửa tháng sau đâu. Với tôi tiền quan trọng lắm.” Con bé không muốn bị vợ chồng lão Đỗ đuổi đi, không muốn chuyển nhà nữa. Cái gác xép kia tuy có hôi hám nhưng cũng tốt lắm rồi, ít nhất nơi ấy có một khung cửa sổ.
Nó nín thở quan sát phản ứng của bên kia. Cậu ta vẫn chăm chú vào chậu cây, tỉa tỉa cắt cắt, có điều động tác chậm lại, lát sau lên tiếng: “Tôi không có rượu, không phải chủ nhà của cô, cũng không có tiền đâu.”
Chẳng phê bình luân lý đạo đức, không khinh lờn, càng không mảy may an ủi hay thương hại. Phương Đăng nghe xong, tâm trạng quay ngoắt một trăm tám mươi độ, trở lại vẻ láu lỉnh, cười hi hi nói: “Anh mà không có tiền? Phòng thì to ngần này, vườn thì rộng ngần này.” Con bé vừa nói vừa khoa chân múa tay, “Có cái gì mà anh không có kia chứ?”
Hứng chí ngọ nguậy quá đâm ngồi không vững, suýt tí nữa con bé rớt khỏi tường.
Phó Kính Thù nói: “Tôi không có tiền mua thuốc cho người nào ngã gãy chân đâu.”
Phương Đăng phát hiện, tính cách cậu ta không mấy nhiệt tình, nhưng giọng nói lại khiến người ta cảm thấy như được đắm mình dưới cơn gió xuân. Dịu dàng, tiết chế, không gấp quá cũng không chậm quá, dường như bẩm sinh đã có sức mạnh mê hoặc lòng người. Nó nghĩ, giả sử giọng nói ấy bảo nó đêm là ngày, sợ rằng nó cũng tin.
“Anh cần làm gì nữa không, tôi giúp cho. Hay tôi tưới hoa cho, tôi khỏe phết đấy.”
“Cảm ơn, vừa mưa xong, cô tưới nữa thì hoa chết hết… À này, cô đừng có mà nhảy xuống…”
Cậu ta nói chưa dứt câu, Phương Đăng đã nằm gọn trên bãi cỏ dưới chân tường.
“… Cẩn thận!”
Phương Đăng định bò dậy, thình lình trông thấy một con chó to nằm phục trong bụi cỏ không xa, nghĩ đến nửa câu sau của Phó Kính Thù, người chợt run bắn lên.
Nếu sớm biết trong vườn có chó, dĩ nhiên nó sẽ cẩn thận hơn.
“Ôi mẹ ơi… Giữ chó nhà anh lại đi!” Phương Đăng bưng mặt co rúm người lùi lại.
Phó Kính Thù chẳng phản ứng gì, con chó trắng cũng không thèm động đậy. Phương Đăng dụi dụi mắt. Chẳng trách con bé nhìn lầm, trời còn âm u, pho tượng con chó bằng đá trắng thì nằm trong cỏ, cả về kích thước, tư thế đều y như chó thật.
“Tôi bảo cô cẩn thận kẻo sái chân.”
“Có một câu mà không nói cho hết ra!” Mặt mày lem luốc, Phương Đăng đến gần ngắm nghía con chó đá. Không đúng, “con chó” này hàm dưới nhọn hơn, hai tai vểnh ngược, dù đặt trong vườn bị mưa gió bào mòn, những đường nét chạm khắc đã không còn sắc sảo nữa nhưng vẫn đủ khiến người ta nhìn ra thần thái hoang dã kỳ dị của nó. Đây không phải chó, mà là hồ ly.
“Chẳng trách có người gọi nhà anh là ‘biệt thự hồ ly’.”
Mới đầu nghe qua cái tên này, Phương Đăng còn ngỡ là do cách phát âm chữ “Phó” và “Hồ” ở đây có chút tương đồng, giống như họ gọi “Phương Học Nông” thành “Phương Huyết Nùng” vậy. Không ngờ nơi này có “hồ ly” thật.
Vừa nói nó vừa quay sang nhìn Phó Kính Thù, ngạc nhiên phát hiện cậu ta đang cười. Là vì nó ngã trông buồn cười à? Cậu nên cười nhiều một chút mới phải. Trong mắt Phương Đăng, mỗi khi cười, dường như quanh Phó Kính Thù lờ mờ tỏa ra hào quang.
“Anh cũng là hồ ly phải không?” Phương Đăng biết mình lại nói lời ngốc nghếch. Nhưng giữa khu vườn tuyệt đẹp mà hoang lạnh, một người như thế đứng đó, dưới ánh sáng nhập nhoạng của buổi hoàng hôn, thật dễ khiến người ta tưởng tượng viển vông.
Người đó càng cười toe toét, “Cô bây giờ còn giống hồ ly hơn.”
Phương Đăng ngẩn ra một lúc mới hiểu ngụ ý trong lời nói này: Nó nằm bò dưới bãi cỏ, đối diện con cáo đá, hai bên quan sát lẫn nhau, tư thế như thể cùng một bầy mà ra.
“Cũng phải, hồ ly thường rất là đẹp.” Con bé nói xong, thản nhiên đứng dậy chẳng thèm thẹn. Rất nhiều người khinh nó là con gái thằng nát rượu, nhưng cũng nhiều người phải thừa nhận, lão nát rượu Phương Huyết Nùng có một đứa con gái xinh đẹp.
Phương Đăng sực nghĩ ra điều gì, chợt nhìn Phó Kính Thù chằm chằm.
“Sao mà nhìn ghê vậy?” Phó Kính Thù tuy là ông cụ non, nhưng tuổi còn nhỏ, bị Phương Đăng nhìn chằm chặp như thế cảm thấy không thoải mái cho lắm.
Phương Đăng không vòng vo, “Ai cũng bảo tôi hơi giống cô Chu Nhan hồi trẻ, thế tôi với anh chắc hẳn có nét hao hao nhau chứ?”
Nụ cười trên mặt Phó Kính Thù vụt tiêu tan, như pháo hoa chợt tắt trong màn đêm. Cậu nhóc rũ rũ vụn lá bám trên kéo, cụp mắt cúi đầu, “Cô mau đi đi, đừng để già Thôi trông thấy, chú ấy nóng tính lắm.”
“Già Thôi là ai?”
Cậu ta rõ ràng chẳng còn hứng thú nói chuyện với nó nữa.
“Đi nhanh.”
“Ra đằng nào bây giờ?”
“Nhảy vào được thì trèo ra được.”