Lục Nhất chỉ về chóp một toà kiến trúc nhô lên khỏi những bóng râm bao la trên hòn đảo nhỏ, “Kia là giáo đường đúng không?”
Phương Đăng gật đầu.
“Mẹ tôi và ông bà ngoại là Hoa kiều Malaysia, họ đều theo đạo. Cha tôi không phải là giáo đồ, nhưng từ khi mẹ tôi mất, ông thường dẫn tôi đến đó, chỉ vào đỉnh chóp giáo đường mà nói, mẹ tôi chắc chắn đã nghe theo tiếng gọi của Chúa trời mà bà hằng kính ngưỡng, bay lên thiên đường rồi. Cô nói xem, người theo Đạo và người không theo Đạo sau khi chết có thể đến cùng một nơi không? Tôi rất sợ họ không có cách nào đoàn tụ trên thiên đường.” Lục Nhất nói.
Phương Đăng trả lời: “Vấn đề này anh phải hỏi Chúa.”
“Cũng được đấy, tôi sẽ hỏi Người xem sao. Cô có muốn lên đảo với tôi không? Có dân bản địa đi cùng, Chúa chắc sẽ không lừa tôi.”
“Nhưng Chúa có phải là thần thổ địa của đảo Qua Âm đâu, sao phải nể mặt tôi.” Phương Đăng cười trêu. Cô vốn không muốn lên đảo, đặc biệt là cùng Lục Nhất. Nhưng cô lại muốn nghe những chuyện liên quan đến bố mẹ anh ta, biết đâu có thể tìm thêm manh mối về di vật Lục Ninh Hải để lại. Bây giờ cô chỉ muốn lấy được vật kia càng sớm càng tốt, như vậy Phó Thất đỡ phải âu lo hậu hoạn, mà cô cũng được giải thoát, cô sẽ rời xa Lục Nhất, sẽ không còn cảm thấy day dứt vì lừa dối một người lương thiện.
Hai người đến giáo đường ngồi cả buổi. Dĩ nhiên, Chúa chẳng thể trả lời câu hỏi của Lục Nhất, nhưng anh vẫn cảm tạ sâu sắc vì nhờ có Người mà lúc này anh có được Phương Đăng ở bên. Cách giáo đường không xa là cô nhi viện Thánh Ân, Lục Nhất hỏi Phương Đăng có muốn ghé qua thăm nom không, Phương Đăng dứt khoát cự tuyệt.
Lục Nhất cũng không nài ép, anh hiểu có những chốn mà đã rời đi, người ta không muốn quay lại nữa. Anh theo chân Phương Đăng đi tiếp về phía trước, lắng tai nghe những tiếng cười đùa trẻ con vọng ra từ cô nhi viện, bèn nói: “Tôi ngốc thật, trước khi gặp cô, tôi luôn cho rằng cha mình sẽ nhận nuôi một ‘bé gái’, ai ngờ cô chỉ kém tôi có một tháng tuổi. À cô chưa kể tôi nghe, cô và cha tôi làm thế nào mà quen biết?”
Phương Đăng lảng đi: “Tôi không rõ lắm, khi cha anh đề nghị nhận nuôi, tôi cảm thấy rất bất ngờ. Có lẽ ông thấy tôi đáng thương.”
Lục Nhất không mảy may nghi ngờ, gật đầu nói: “Tôi cũng đoán vậy. Kể ra cô và cha con tôi có duyên đấy chứ?”
Nói xong anh cố tình liếc nhìn Phương Đăng một cái, chẳng hề hay biết lời mình vừa thốt ra vào đến tai Phương Đăng lại đầy vẻ mỉa mai. Quả thật có duyên, nhưng là hoạ hay phúc chỉ có trời mới rõ, biết đâu ngày nào đó, anh cũng sẽ cảm thấy hối hận vì đã gặp phải cô, như người cha đã chết của anh.
“Bình thường trông cha tôi nghiêm khắc vậy thôi, kỳ thực ông rất tốt, không những đối với tôi, mà với những người yếu thế ông rất quan tâm, muốn giúp đỡ. Tôi còn nhớ có một người rất nghèo đến xin ông đánh kiện cho, ông đã nhận làm mà không lấy một xu nào. Cha nói, trên đời này luôn tồn tại công bằng và chính nghĩa. Từ nhỏ tôi đã coi cha là tấm gương, tôi luôn muốn làm một người chính trực, cao thượng, đối tốt với mọi người như ông.”
Phương Đăng cố giấu nụ cười nhạt. Cô không muốn phá hỏng hình tượng người cha cao đẹp trong lòng một cậu con trai. Cô cúi đầu, trân trối nhìn những viên đá xanh dưới chân: “Nói như vậy, quả thực trời cao không có mắt.”
Lục Nhất khẽ cười, “Dù cha tôi không còn, nhưng nhờ ông mà tôi quen biết cô, tôi tin lúc ấy ông thật lòng muốn cho cô một gia đình và cuộc sống ổn định. Nếu ông thấy bây giờ chúng ta... làm bạn với nhau, chắc là vui lắm.”
“Có thể.” Phương Đăng lạnh nhạt đáp.
Đang là cuối tuần, lượng du khách đổ về đảo Qua Âm không ít, Phương Đăng đã rất lâu không trở lại, nơi này đã thay đổi rất nhiều. Do mấy năm gần đây ngành du lịch trên đảo phát triển mạnh, các khách sạn và quán cà phê đủ kiểu cách quy mô mọc lên như nấm sau mưa, rất nhiều ngôi nhà cổ niên đại xấp xỉ Phó gia viện được tu bổ lại, mở cửa đón khách tham quan, hoặc trở thành các khách sạn tư. Từ cổng cô nhi viện Thánh Ân lùi lại vài mét, là một dãy những nhà hàng thủ công mỹ nghệ và tiệm bánh kiểu Tây mang đầy phong vị tiểu tư sản. Ngôi nhà xây chui của lão Đỗ đã bị dỡ bỏ, thay vào đó là một siêu thị cỡ nhỏ. Căn gác xép từng là nơi trú mưa trú nắng của cô dĩ nhiên không còn tồn tại. Trải bao phong ba bão táp, chỉ có Phó gia viện là vẫn như ngày xưa.
“Phương Đăng, trước khi vào cô nhi viện, cô sống ở nơi nào trên đảo?” Lục Nhất tò mò hỏi.
Phương Đăng chỉ về phía cái siêu thị nhỏ, “Ở kia. Cha con tôi thuê một căn gác xép nhỏ trên tầng hai.”
“Tiếc là không được trông thấy dáng vẻ ngôi nhà đó thế nào nữa.” Lục Nhất có vẻ tiếc nuối.
“Có gì mà tiếc, một chốn lụp xụp tàn tạ như bao chốn nhà nghèo hay ở thôi.”
“Hồi đó cô có nghĩ những ngày sau này mình sẽ ra sao không? À đúng rồi, tại sao cô lại mở cửa hàng vải nội thất?” Lục Nhất có vẻ vô cùng hiếu kỳ với tất cả mọi thứ thuộc về Phương Đăng, chỉ hận không biết hết mọi chuyện kiếp trước kiếp này của cô cho rồi.
Phương Đăng kiềm lòng không đặng chậm lại bước chân, nhìn về Phó gia viện cách đó không xa, “Tôi thích những món đồ làm bằng vải, nó cho con người ta cảm giác như đã về nhà vậy.”
Cô lại nói dối. Cõi đi về trong cô chẳng có gì khác ngoài một khung cửa sổ nhỏ bé phủ rèm nhung màu đỏ tươi. Trong giấc mơ, cô chạy về phía ấy biết bao lần, mà khi đến đích, trước mắt vĩnh viễn chỉ có đường cầu thang chật hẹp và căn gác xép lúp xúp tồi tàn. Người rời, vườn không, Phó gia viện càng hoang phế thê lương. Rất nhiều đồ và vật trang trí đã bị tháo mất, tấm rèm nhung đỏ không cánh mà bay. Sau khi đủ tuổi trưởng thành, Phương Đăng từng tìm kiếm khắp nơi chất vải và màu sắc tương tự đấy, đâm ra cô mở luôn một cửa hàng vải nội thất. Sau này cô mới hiểu, rằng mình không thể nào tìm lại tấm rèm ngày ấy, bởi đến cái người đứng sau rèm trong ký ức kia, cũng không còn dáng vẻ xa xưa nữa.
“Tôi cũng nghĩ vậy.” Lục Nhất phụ hoạ. Anh đưa mắt nhìn căn nhà cổ phía trước. Dù cho hoang tàn đến nhường nào thì trên đảo Qua Âm, sự tồn tại của nó vẫn là không thể thay thế được. Mấy ai đi qua đây mà dám không ngước đầu ngưỡng vọng?
“Biết bao căn nhà cổ đã xây mới, mà sao căn nhà nổi tiếng nhất lại cứ bỏ hoang tại đây nhỉ? Không biết con cháu họ Phó có thấy đau xót không. Tôi từng đọc một số tài liệu liên quan đến hòn đảo này, năm xưa nhà họ Phó nghe nói lừng lẫy có một không hai.”
“Có thể họ có nỗi khổ tâm riêng.” Phương Đăng nói.
Lục Nhất tỏ ý đồng tình. “Ngày trước tôi từng nghe cha nói, gia tộc nào trong quá khứ càng cường thịnh, thì quyền thừa kế nhà cửa sản nghiệp càng phức tạp. Phương Đăng, trước đây cô sống ngay cạnh Phó gia viện, có từng nghe lời đồn về nơi ấy chưa?”
“Đồn đại gì, cũng chỉ là ngôi nhà hoang thôi mà!”
“Tôi nghe nói Phó gia viện là căn nhà ma nổi tiếng trên đảo, cứ đêm đến là nghe tiếng gió gào thảm thiết, có người gọi đó là biệt thự hồ ly, cô có biết nguyên do từ đâu không? Sống ngay cạnh đó cô có thấy ghê không?”
“Dĩ nhiên là ghê rồi. Trong cái nhà đó có con ma nữ, mỗi đêm trăng tròn nó xoã mái tóc dài thò đầu từ dưới giếng lên, vừa dạo quanh vườn vừa khóc lóc tỉ tê.” Phương Đăng vờ doạ dẫm.
Lục Nhất là đàn ông con trai, đương nhiên không thấy sợ, anh cười nói: “Cô lại đùa rồi. Tôi thì thấy những tin đồn ma quỷ đó chỉ là tam sao thất bản mà thôi.”
Phương Đăng và Lục Nhất vào siêu thị mua hai chai nước, như nhớ đến điều gì, Phương Đăng thốt nhiên nói: “Để tôi kể cho anh một câu chuyện liên quan đến Phó gia viện nhé, chuyện này không phải do tôi chế ra đâu.”
Cô ngồi xuống cửa siêu thị, vừa uống nước, vừa dịu giọng kể lại câu chuyện hồ ly nhỏ và hồ ly đá của Tiểu Xuân cô nương. Lục Nhất nghe rất chăm chú, nghe xong, anh nói: “Câu chuyện này còn ghê hơn chuyện ma nữ đáy giếng ban nãy.”
“Sao lại thế?”
“Cô nghĩ mà xem. Mấy chuyện ma nữ gì đó ở đâu chẳng có, nhưng câu chuyện cô vừa kể, càng ngẫm sâu xa, càng khiến lòng người nghe khó chịu. Con hồ ly nhỏ moi trái tim hiến cho hồ ly đá, chẳng có được người bầu bạn như nó hằng mong, lại phải thay hồ ly đá chịu hình phạt ngàn năm và bị nỗi cô đơn giày vò, thật quá bất công. May mà nó không còn trái tim, nếu còn, chắc cũng nguội lạnh.”
Phương Đăng cười: “Công bằng? Anh tin trên đời này tồn tại công bằng ư?”
“Dĩ nhiên!” Lục Nhất nói một cách kiên quyết, “Thế gian này chắc chắn tồn tại công bằng và chính nghĩa. Người tốt phải được báo đáp, hồ ly tốt cũng vậy.”
Phương Đăng không đồng tình. Chỉ có người từ nhỏ luôn đắm chìm trong ánh mặt trời, tâm địa thuần lương như anh ta mới có niềm tin nhảm nhí như vậy.
“Chỉ là chuyện kể cho vui, nghe rồi thì thôi.”
“Câu chuyện này cô nghe từ ai thế?” Lục Nhất hỏi.
“Tôi quên rồi.” Phương Đăng đáp một cách mơ hồ.
“Tôi nghĩ người ấy chưa kể xong đâu, chẳng lý do gì câu chuyện lại kết thúc ở đó.”
“Anh lại xoắn rồi.” Phương Đăng cười cười, kiếm cớ trêu. “Hay anh định viết tiếp hộ người ta?”
Lục Nhất cũng cười, anh cầm chai nước khoáng trong tay, quả thực ngẫm nghĩ một lúc, nói: “Nếu để tôi viết tiếp câu chuyện này thì... Cho dù hồ ly đá không quay lại, cũng chẳng lý do gì để con hồ ly nhỏ phải cô đơn mãi, một ngàn năm quá dài, phải có cái gì đó xuất hiện chứ...”
“Ví dụ như chuột chũi, hay là côn trùng gì đấy?”
“Cô không nghĩ ra cái gì xinh xắn hơn một tí được à?” Lục Nhất cười như trẻ con, “Để xem nào, bọn gia cầm là chúa thích tha thẩn trong vườn hoang. Đúng rồi, một con chim.”
“Một thời gian sau, có con chim bay đến?” Phương Đăng vừa uống một ngụm nước, suýt nữa phun cả ra ngoài.
“Cô muốn nghe thì nghiêm túc một tí đi.” Lục Nhất cố tình xị mặt ra vẻ cảnh cáo, “Cứ cho đó là một con chim sơn ca đi.”
“Sao lại là sơn ca, chim sơn ca trông thế nào?”
Lục Nhất cười nói: “Cô hỏi tại sao tại sao nhiều thế, tóm lại chim sơn ca là loài chim tốt... à, loài chim có ích! Này đừng có cười, nghe tiếp đây này. Sau khi hồ ly đá đi rồi, một hôm, có con chim sơn ca bay vào vườn. Nó thấy con hồ ly con cô đơn quá, nên ngày nào cũng bay đến, đậu trên ngọn cây hót...”
“Vì sao lại thế?”
“Hả?” Lục Nhất không hiểu.
Phương Đăng nói: “Chuyện anh sáng tác có lỗ hổng, con sơn ca đó tự dưng sao lại tốt với hồ ly nhỏ vậy, ngày nào cũng đến hót cho nó nghe!”
“Con người cô thật là, cứ nghĩ mọi thứ đều xấu xí. Thế cô nói xem, tại sao hồ ly nhỏ lại hiến tim mình cho hồ ly đá?” Lục Nhất ấm ức vặn lại.
Phương Đăng chợt sững người, cô chẳng hề nghĩ đến điều này.
“Bởi vì hồ ly nhỏ và hồ ly đá ít nhất cũng là đồng loại.” Cô gắng gượng lý sự cùn.
“Ai bảo không phải đồng loại thì không thể đồng cảm? Mà nói chung câu chuyện của tôi là như thế. Ngày nào sơn ca cũng bay đến hót cho con hồ ly nhỏ nghe, dùng mỏ chải lông cho hồ ly nhỏ. Lại có người bầu bạn, trái tim hồ ly nhỏ dường như bắt đầu đập trở lại.” Lục Nhất có vẻ rất hài lòng với tác phẩm của mình.
“Mất tim rồi làm sao mà đập được nữa?” Phương Đăng khinh khỉnh, “Bố mẹ anh ngày xưa chắc suốt ngày kể chuyện cổ tích cho anh nghe đúng không, bị lậm nặng quá rồi đấy.”
“Tôi chẳng hiểu nổi suy nghĩ trong đầu cô, Phương Đăng. Tin vào những điều tốt đẹp trên đời này khó vậy sao?” Lục Nhất khi trở nên cứng đầu cũng dễ khiến người ta chịu không nổi.
Phương Đăng đứng bật dậy nói: “Nếu chuyện cổ tích có thật, sao không thấy cô công chúa nào từ trên trời rơi xuống cứu rỗi anh chàng kỹ sư ế như anh?”
Lục Nhất định nói: sao cô biết không có, nhưng lại không dám nói ra lời lộ liễu quá, đành tiếp tục cúi đầu cười.
Chộn rộn một hồi, tâm trạng Phương Đăng bỗng tốt hơn hẳn. Cô đi men theo chân tường căn biệt thự, đến thẳng chỗ tường giáp với vườn sau, trong quá khứ đã bao lần cô ra vào vườn từ đây.
“Anh có muốn tận mắt nhìn thấy bức tượng hồ ly đó không?” Cô quay lại mỉm cười, cởi phăng đôi giày cao gót.
“Muốn chứ... Ơ kìa, đừng bảo cô định trèo tường vào đấy nhé? Tuyệt đối đừng nên, cẩn thận có người trông thấy bây giờ.” Lục Nhất ngoái nhìn tứ phía, anh không ngờ Phương Đăng lại liều lĩnh như thế. Người chưa từng làm việc xấu trong lòng tất lo lắng khác thường.
“Sợ người ta nhìn thì im lặng.” Phương Đăng thầm thấy may vì hôm nay mình mặc quần. Thực ra cô thừa biết, sau khi già Thôi được Phó Thất đón sang Mỹ dưỡng già, trong vườn này chẳng còn ai. Đã nhiều năm không giở ngón nghề, lúc đầu cô thấy hơi khó dùng sức một chút, nhưng quen rồi mới hay mình còn dẻo dai chán, chẳng bao lâu đã đu được lên đầu tường.
---------- BỔ SUNG THÊM ----------
Lục Nhất thấy người đẹp leo tường, bất ngờ suýt rơi cả kính, Phương Đăng ngồi vắt vẻo trên tường, phủi phủi bụi trong lòng bàn tay, ra hiệu cho Lục Nhất làm theo.
Hồi nhỏ Lục Nhất chẳng mấy khi đi học trễ, chứ đừng nói là leo tường trèo cây. Nhưng một cô gái liễu yếu đào tơ thế kia còn trèo được, mình thì đàn ông con trai sức dài vai rộng... Anh cứ ngần ngừ không biết có cần cởi giày để leo không.
“Này, giày cởi ra để ở đâu?” Lục Nhất thì thào hỏi.
Phương Đăng nhìn vào trong vườn, không trả lời. Một thoáng, Lục Nhất còn chưa kịp cởi giày, đã thấy Phương Đăng khẽ khàng nhảy xuống bên mình, đi giày rồi rảo bước. Trong mắt cô không còn lung linh thứ hào quang rực rỡ vừa nãy, cả người cứ như hồn bay phách lạc.
“Phương Đăng, cô sao thế?”
Lục Nhất vội đuổi theo hỏi.
Phương Đăng càng đi càng mau, như thể bị ma đuổi. Cô không hề nói với Lục Nhất ban nãy mình đã nhìn thấy điều gì.
“Cẩn thận nhé.” Phó Kính Thù rảo bước trên con đường nhỏ dẫn ra vườn sau, cỏ hoang nơi này giờ đây cao không quá cẳng chân hắn. Phó Kính Thù hiểu rõ từng bí mật ẩn giấu dưới mỗi gốc cỏ dại nơi này, nhưng vị khách mặc váy ngắn đi giày cao gót sau lưng thì chưa chắc nên hắn không thể không quay lại nhắc nhở.
Khi chủ nhân “Tố Thành”, nhà họ Cổ ở Đài Loan chính thức ngỏ ý muốn kết thông gia với bà Trịnh, bề trên hai nhà đều tỏ ý rất sốt sắng, dốc sức mai mối cho đôi trẻ, hận không thể đưa hai người vào lễ đường thành hôn ngay cho xong.
Bà Trịnh từng gặp cô gái này một lần, lần đó cô gái kia và cha cùng tới Malaysia thăm hỏi, đúng lúc Phó Kính Thù phải ở lại Mỹ để lo công việc. Khi trở về, hắn nghe bà Trịnh khen cô gái kia không tiếc lời, nào là vừa xinh đẹp vừa cởi mở, vừa nhìn đã biết xuất thân trong gia đình tốt, hiện đại tân thời, nhưng cử chỉ vẫn có chừng mực, rất có giáo dục.
Chuyện bà Trịnh đã quyết định, Phó Kính Thù đương nhiên không tiện nêu ý kiến. Ý hai nhà đều mong họ gặp mặt càng sớm càng tốt, đẩy nhanh tiến độ tìm hiểu. Nhưng thứ nhất là Phó Kính Thù quả thực trăm công nghìn việc, thêm nữa cô gái kia suốt ngày rong chơi khắp nơi, muốn tìm một cơ hội thích hợp để gặp mặt chẳng phải dễ dàng. Vừa may lần này, Phó Kính Thù cần quay về làm một số công tác chuẩn bị cho việc trùng tu nhà tổ, cô gái kia lại đang tham gia khoá học chuyên sâu ngắn hạn tại một trường đại học trong thành phố, người lớn hai nhà bèn nhắc họ sắp xếp cuộc hẹn. Các bậc bề trên nhận thấy đây là một cách quen biết “tương đối hiện đại” và dễ được đám con cháu chấp nhận. Đều còn trẻ trung, lại sinh trưởng trong hoàn cảnh gia đình và có nền tảng học vấn khá tương đồng, nhân phẩm tài mạo cũng tương đồng, dù chưa thể nảy nở tình cảm ngay tức khắc, chí ít họ cũng không thiếu đề tài để giao lưu.
Sau khi giải quyết xong công việc, Phó Kính Thù bèn gọi điện cho cô gái kia chính thức ngỏ lời mời. Đối phương không tỏ ra ngạc nhiên, còn chủ động ấn định nơi gặp mặt là Phó gia viện, điều này ít nhiều vượt ngoài dự liệu của Phó Kính Thù. Song nghĩ đến cha cô ta điên cuồng vì căn biệt thự cổ này, cha nào con nấy, cô yêu cầu như vậy cũng hợp tình hợp lý.
Để giữ phép lịch sự, sau khi lên đảo Phó Kính Thù đưa cô gái đi dùng bữa trưa trước. Cô gái tên Minh Tử kia đích thực kiều diễm tươi tắn như lời bà Trịnh kể, hiếm có hơn nữa là, cô ta không giống một số cô “hot girl” mà Phó Kính Thù từng tiếp xúc, người thì Tây hoá quá đà, người thì kiêu căng quá trớn. Cô cởi mở, hiếu động, hành sự tự nhiên thoải mái, ấn tượng đầu tiên trong Phó Kính Thù về cô không tệ.
Dùng bữa xong, Phó Kính Thù đưa Minh Tử về Phó gia viện. Sau khi già Thôi rời đi, bà Trịnh không buồn thuê người chăm lo cửa nhà vườn tược nữa, có lẽ bà định trước mắt cứ để nó hoang phế, nhưng bà có lòng tin sẽ trông thấy căn nhà được trùng tu trước ngày mình ra đi. Lần này trở về, Phó Kính Thù nhận ra rằng, khu vườn phía đông, nơi duy nhất trước kia còn khang trang gọn gàng giờ đây đã trở thành vương quốc cỏ dại, chẳng còn chút nào dấu tích xinh đẹp xưa kia nữa.
Cổ Minh Tử vừa đi theo Phó Kính Thù, vừa ngoái nhìn tứ phía. Mặc dù đến đây lần đầu, nhưng cô ta có thể thao thao bất tuyệt về phong cách, các chi tiết trang trí, thậm chí cả đến xuất xứ và đặc điểm các vật liệu xây dựng của căn nhà, rất có hiểu biết, quả nhiên chịu ảnh hưởng không nhỏ từ người cha.
Đôi chân mang giày cao gót bước đi trên thảm cỏ khó tránh khỏi vất vả, cô vừa cẩn thận đặt chân, đôi mắt vừa không kiềm chế được quan sát xung quanh. Có lẽ cô không nỡ bỏ qua bất cứ chi tiết kiến trúc nào, mỗi lần phát hiện ra điều gì là không ngớt lời tán tụng.
“Ngày trước cha từng nói với tôi, Phó gia viện chính là tinh hoa của kiến trúc thời bán thực dân, lúc ấy tôi chưa tin ngay. Sao bên anh nỡ nhẫn tâm để nơi tuyệt vời này biến thành thế này?! Tây Lầu sắp sửa hoàn toàn biến dạng, Đông Lầu đỡ hơn một chút nhưng cũng chẳng ra sao, tiền viện và hai vườn hoa nhỏ trông đến là đáng thương.” Minh Tử than thở.
Phó Kính Thù nói: “Một lời khó nói hết, ngày đó gia đình tôi dời đi là bất đắc dĩ, ai mà ngờ thế cục và chính sách về sau lại như vậy. Hiện giờ căn nhà đã được trả về, nhưng người nhà họ Phó quá nửa lưu lạc ở nước ngoài, người cả ba phòng quá đông, quyền thừa kế rất phức tạp. Ai nấy đều suy tính cho mình, muốn trùng tu căn nhà là một chuyện không dễ. Nếu không nhờ cha cô thần thông quảng đại, thuyết phục được toàn bộ người Phòng Nhì ký vào giấy chuyển nhượng, chẳng biết nơi này còn bị bỏ hoang đến bao giờ.”
Minh Tử nói: “Khi lần đầu tiên nhìn thấy Phó gia viện ở Đài Loan cha tôi đã rất thích rồi, nhưng có người mách ông, căn nhà ở Đài Loan chỉ là bản sao căn nhà tổ của họ Phó tại Đại Lục. Người Phòng Nhì sau khi di cư sang Đài Loan, nhằm biểu thị lòng tưởng nhớ tổ tông, dựa vào ấn tượng về căn nhà tổ mà xây nên. Năm tôi mới mười mấy tuổi, cha đến Đại Lục công cán, đặc biệt bỏ thời gian tìm tới đây, khi trở về, trước mặt chúng tôi ông cứ nhắc mãi không thôi rằng thật đáng tiếc, một căn nhà có quy mô, phong cách độc đáo vậy mà tàn tạ đến đau lòng. Nếu căn nhà thuộc về ông, bất kể bỏ ra bao nhiêu tiền của và sức lực, ông cũng sẽ khôi phục nó về nguyên dạng bằng được. Tôi đoán từ lúc đó, ông đã nuôi ý định mua lại Phó gia viện. Cha tôi là người đã muốn thì phải làm bằng được, ông phái người đi tìm kiếm suốt bốn năm, tìm tới từng người một trong số những vị đứng tên thừa kế của Phòng Nhì nhà họ Phó, dùng đủ mọi biện pháp cứng có mềm có nhằm thuyết phục họ đồng ý chuyển nhượng, tôi nghe nói mà sợ thót cả tim. Có điều ông không ngờ, giải quyết xong Phòng Nhì là nhánh đông người nhất, lại đụng phải bức tường ngoan cố ở Phòng Ba. Có thuyết phục thế nào bà của anh cũng không chịu bán Phó gia viện, còn nói nếu bán rồi, bà có xuống đất cũng không thể yên nghỉ.”
“Những người ở thế hệ của bà có lòng tin mạnh mẽ hơn chúng ta.” Phó Kính Thù vén cành mai dại phía trước để Minh Tử đi qua “Nếu bà đồng ý bán, chúng ta bây giờ sẽ không gặp nhau tại đây.”
Minh Tử đột nhiên bật cười: “Anh không biết cha tôi thích anh thế nào đâu. Ngày nào trước mặt tôi ông cũng khen anh là người có bản lĩnh hiếm có trong lớp trẻ, mặt nào cũng tốt. Tôi cảm thấy trước đây ông lỡ yêu căn nhà, bây giờ lại lỡ phải lòng anh. Nếu ông là con gái, không chừng phải tìm cách lấy anh bằng được. Làm như tôi không gặp anh thì cả đời sẽ phải hối hận không bằng.”
“Thế còn cô, cô thấy sao?” Phó Kính Thù cười nhẹ. Đây đã như hiệp thương mang lên bàn thảo luận kí kết, hắn cần gì phải quanh co.
Hắn đang hỏi về suy nghĩ của cô một cách rất trực diện. Nếu đổi lại là người khác, trong lần đầu tiên tiếp xúc, không biết chừng Minh Tử sẽ cho rằng đối phương quá đường đột. Nhưng vẫn câu nói ấy thốt lên từ miệng Phó Kính Thù, nghe lại tự nhiên thanh thoát như nước chảy mây trôi. Cô từng gặp nhiều chàng trai trẻ trung hơn, hấp dẫn hơn, gia thế của cải chẳng hề kém cạnh, nhưng con người này có một cốt cách rất đặc biệt, gặp phải anh ta, bạn sẽ thấy dường như không phút giây nào không bị thuyết phục, bị làm cho rung động, làm cho mềm lòng, bị xâm chiếm. Bạn sẽ thấy anh ta nói gì, làm gì đều chính đáng tự nhiên như đất trời vốn thế. Đến vẻ cười, giọng nói của anh ta, thoạt trông hoàn toàn chẳng cố ý đạt được điều gì, nhưng rồi bạn sẽ thấy anh ta nói sao mà đúng, sao mà khiến lòng mình vui vẻ thần phục lạ lùng. Rốt cuộc Minh Tử đã hiểu tại sao cha mình hài lòng về anh ta đến vậy.
Nhưng suy cho cùng, cô không phải một người dễ bị chi phối. Mặc dù từ nhỏ Minh Tử đã hiểu rằng, là đứa con gái độc nhất trong một gia đình tài phiệt, khi tìm kiếm nửa kia, cô không thể không suy xét đến lợi ích gia đình, nhưng một cô gái còn quá trẻ, làm sao không có giấc mơ về tương lai và tình yêu của riêng mình?...
Cô hỏi Phó Kính Thù: “Anh nghĩ chúng ta chỉ có một lựa chọn là nghe theo sự sắp đặt thôi ư?”
Phó Kính Thù trầm ngâm một lát rồi nói: “Các bậc bề trên đã đi quá nửa cuộc đời, trải biết bao chuyện thăng trầm, cách nhìn nhận của họ chắc chắn sáng suốt hơn. Không phải vì họ kiên trì khiến tôi buộc phải phục tùng, nhưng tôi sẽ suy nghĩ kỹ vì sự lựa chọn này biết đâu lại là chính xác.”
“Vậy, anh có tin vào tình yêu không?” Minh Tử đi tới chắn trước mặt Phó Kính Thù, hỏi một cách nghiêm túc.
“Tôi chỉ tin vào những thứ mình tận mắt trông thấy.” Phó Kính Thù cười hỏi ngược lại, “Cô nghĩ thế nào là yêu?”
Minh Tử bước lên mấy bước, đáp một cách mơ hồ: “Tôi nghĩ, tình yêu là thứ chúng ta không thể nắm bắt. Nó nguy hiểm, cực kỳ bất ổn, anh chẳng thể biết khi nào sẽ gặp nó nhưng bất ngờ nó sẽ nổ ‘Bùm’ khiến anh ngây ngất choáng váng.”
Khi Minh Tử thình lình nói chữ “Bùm”, Phó Kính Thù tỏ vẻ như bị chọc cười, “Cứ như là ni-tơ-rô-gly-xê-rin[1] ấy nhỉ?”
[1] C3H5(NO3)3, chất lỏng màu trắng hoặc vàng nhạt, có độc, tính nổ rất mạnh, thường dùng trong chế tạo thuốc nổ.
“Anh đã gặp ni-tơ-rô-gly-xê-rin của đời mình chưa?” Minh Tử cười hỏi.
“Ni-tơ-rô-gly-xê-rin chính là bom. Nếu gặp phải vật như vậy, chẳng phải đầu tiên người ta sẽ tìm cách loại bỏ, hoặc trốn tránh nó sao?”
“Tôi luôn nghĩ, nếu được nếm trải cái mùi vị bị nổ banh xác đó cuộc đời sẽ thi vị hơn nhiều.” Minh Tử chớp chớp mắt, “Đúng rồi, anh Phó này, tôi nghe nói anh biết vẽ tranh, có cơ hội tôi muốn thưởng thức tác phẩm của anh được không?”
“Cô muốn thử xem tranh của tôi có khiến cô nổ tung không à?” Phó Kính Thù pha trò.
Minh Tử nói: “Mẹ tôi từng nói, thương nhân chỉ biết có công việc rất chi là vô vị. Nếu cha tôi không có sở thích sưu tập nhà cổ, chắc chắn con người ông sẽ nhạt nhẽo lắm. Tôi đang cố tìm kiếm chút ánh sáng cho viễn cảnh rất có thể là tương lai sau này của mình mà thôi.”
Phó Kính Thù không rõ từ đâu cô ta biết về sở thích vẽ tranh của hắn. Trên thực tế vài năm nay ít khi hắn cầm tới cây bút vẽ, giống như sở thích trồng hoa cũng dần phải gác sang một bên, công việc bề bộn khiến hắn phân thân không xuể. Bức tranh hắn hận nhất, tâm đắc nhất, có lẽ cũng là bức tranh đẹp nhất hắn từng vẽ hiện giờ đang treo trong phòng ngủ của Phương Đăng.
“Không chừng vài năm nữa cô sẽ thấy những thứ ổn định đơn thuần mới thật đáng tin.” Phó Kính Thù nói, “Còn nữa, tôi gọi cô là Minh Tử, sao cô lại gọi tôi là anh Phó?”
“Vậy tôi nên gọi anh là gì? Chú Phó ư?” Minh Tử cười hóm hỉnh.
“Gọi tôi là Phó Thất được rồi.”
“Phó Thất!” Minh Tử có vẻ rất thích thú với cái tên này, vừa cười hihi vừa nhẩm lại một lần, đột nhiên cô giậm giậm chân, “Ngứa quá, có muỗi hay sao ấy!”
Khu vườn cỏ hoang mọc um tùm, Minh Tử lại để chân trần, không bị muỗi cắn mới lạ. May nhờ Phó Kính Thù nhắc từ sớm, nên trước khi vào vườn cô đã mua một lọ dầu thơm ở siêu thị đối diện.
Minh Tử vội xức dầu thơm lên chân, dù bực mình vì bọn muỗi, nhưng cô chưa muốn rời khỏi căn biệt thự quá sớm.
“Cái mùi này hắc thật, Phó Thất, anh có ngửi quen mùi dầu thơm không?” Minh Tử xìu giọng hỏi.
Cô khom người, mái tóc dài chảy qua vai, che mất nửa khuôn mặt. Mùi hương đặc trưng của dầu thơm Lục Thất váng vất trong không gian, vừa nồng đượm vừa the mát.
Nghe Minh Tử gọi “Phó Thất”, Phó Kính Thù bỗng dưng rơi vào ảo giác. Hình như chỉ một giây nữa thôi, cô gái kia sẽ khẽ khàng ngẩng mặt lên, dụi mái tóc ướt rượt vào ngực hắn. Mùi dầu thơm như có như không. Cô gái ấy sắp run rẩy thốt lên rằng: “Tiểu Thất, trên đời vẫn có những kẻ ngốc như vậy đấy...”
Lâu không trở lại, đứng giữa nơi này, trong chốc lát Phó Kính Thù không nhận rõ đâu là thực đâu là mê. Trong lòng hắn chợt xao xuyến, không kìm được đưa tay vén tóc cô gái.
Minh Tử kinh ngạc ngẩng đầu lên, thấy đôi mắt vốn rất đỗi tinh minh của người đàn ông trước mặt giờ đây cứ như mê đi, rồi mau chóng trở nên sửng sốt, cuối cùng tỏ ra vẻ hối lỗi. Trông Phó Kính Thù dịu dàng hơn trước đó rất nhiều.
“Anh cũng ghét cái mùi này ư?” Cô hỏi vẻ khó hiểu.
Phó Kính Thù lắc đầu, “Đây là mùi vị dễ chịu nhất tôi từng biết.”