“Buổi sáng tốt lành, cô Farr.” Anh ta nhấc chiếc mũ rộng vành khỏi mái tóc đen và trưng ra cho tôi thấy một hành động mô phỏng tương đối giống cái cúi mình. “Tôi không biết cô liệt cả khoản bơi lội vào giữa rất nhiều tài năng của mình đấy.”
Giờ mà đáp lại bằng một cái nhún gối phải phép từ vị trí của tôi có vẻ rất lố bịch. Bên cạnh đó, cái điệu cười thẳng vào mặt tôi của anh ta khiến tôi vô cùng oán giận. Tôi ngay lập tức đứng dậy và hất đầu kiêu hãnh. “Tôi có vô số tài năng, thưa ngài”, tôi cộc lốc đáp lại anh ta, rồi xòe chiếc váy ra để kiểm tra mức độ thiệt hại.
“Tôi cũng không nghi ngờ điều đó đâu.” Vẻ suy tư được thay thế bằng nét cười trong đôi mắt anh ta, và anh ta nhảy xuống khỏi yên ngựa, nắm dây cương trong một bàn tay to khỏe. “Cô bị ướt hết váy rồi”, anh ta nói, như thể đây là một bí mật được khám phá không bằng. “Cô cần đi lại dưới ánh mặt trời để hong khô nó.”
Tôi bướng bỉnh đứng nguyên chỗ cũ. “Tôi không muốn đi lại dưới ánh mặt trời, thưa ngài. Tôi thấy cánh rừng mát mẻ khoan khoái hơn nhiều.”
“Vậy thì cô cần đi lại trong rừng. Lại đây, để tôi giúp cô.”
Anh ta vươn bàn tay rảnh rang về phía tôi, đôi mắt ánh lên vẻ thách thức. Sau một thoáng cân nhắc, tôi đặt tay mình vào anh ta và để anh ta đỡ tôi bước lên khỏi mặt nước đến chỗ bờ sông. Đó là một sự trợ giúp đáng hoan nghênh, tôi nhất định phải thừa nhận, bởi lớp vải ướt đẫm trên váy khiến đôi chân tôi trĩu nặng và đe dọa sẽ lôi tuột tôi trở lại con sông. Khi cuối cùng đã đứng vững, tôi buông phắt tay anh ta ra như thể đó là một con rắn, phá vỡ mối kết nối ấm áp.
“Cảm ơn ngài”, tôi ngọt ngào nói với anh ta. “Ngài thật là tốt bụng.” Tránh khỏi anh ta, một lần nữa tôi đi bộ lên thượng nguồn, lần này ở trên mặt đất, cảm giác không mấy thướt tha trong chiếc váy ướt sũng nhưng tôi vẫn giữ tư thế ngẩng cao đầu.
“Không có gì.” Richard de Mornay dễ dàng bước từng bước một bên cạnh tôi, dẫn theo con ngựa đi đằng sau. “Chắc chắn cô sẽ không phiền nếu tôi đi cùng cô chứ? Tôi mà để một tiểu thư đi bộ một mình trong khu rừng không có người hộ tống thì đâu còn là một chiến binh đích thực nữa?”
Tôi thử xử sự thông thường. “Tôi không biết ngài là một chiến binh.”
“Tôi đến từ một gia đình toàn các chiến binh.” Anh ta mỉm cười, nhưng nụ cười không hề hài hước. “Các hiệp sĩ quả cảm và các kỵ sĩ hào hoa, tôi là kẻ duy nhất còn lưu lại để bảo vệ thanh danh của gia đình.”
“Vậy tôi không cần sợ hãi sẽ đánh mất trinh tiết của bản thân nếu đi cùng ngài.” Tôi thừa biết đấy là một lời phát biểu táo bạo. Anh ta hướng đôi mắt sửng sốt nhìn thẳng vào tôi và ngay lập tức phá lên cười, âm thanh vui vẻ cứ thế vang vọng trong cánh rừng hẻo lánh.
“Cô là một cô gái dạn dĩ.” Anh ta nhe răng ra cười. “Phải, cô không cần lo đâu. Tôi sẽ không đòi hỏi đặc ân của lãnh chúa trong vùng đất của mình. Tôi chưa bao giờ có động cơ để ép buộc một người đàn bà theo ý muốn của mình.”
Tôi ngước lên nhìn khuôn mặt đẹp trai đang cười của anh ta và tin rằng những điều anh ta nói là sự thật. Có lẽ chính tình ý nơi tôi mới khiến tôi phải lo âu, chứ không phải của anh ta...
“Nói tôi nghe xem”, anh ta tiếp tục, bằng cách thay đổi chủ đề, “tình hình ông bác của cô thế nào rồi? Ông ta hẳn đang đau yếu nghiêm trọng lắm mới để cô mạo hiểm ra ngoài thế này. Thực ra, đây là lần thứ hai tôi thấy cô đi dạo một mình. Nào, nói tôi nghe xem, vì sao sáng nay ông ta lại cho cô đi lang thang thế?”.
Tôi mỉm cười trước cách diễn đạt đó. “Cho phép tôi ra khỏi nhà là yêu cầu của chính ông ấy”, tôi giải thích. “Ông ấy bảo rằng lo lắng cho sức khỏe của tôi.”
“À”, anh ta khô khốc nói, “ông ta quả là người rộng lượng bậc nhất. Hèn gì ông ta đối xử nhã nhặn với người nhà đến vậy”.
Tôi liếc nhìn anh ta. “Tôi thấy ngài có vẻ không ưa bác tôi.”
“Tôi cho rằng ông ta là kẻ độc ác và nhẫn tâm”, anh ta nói, nhún bờ vai rộng, “và có chút hiềm khích giữa hai chúng tôi”.
Tôi gật đầu thông cảm. “Ông từng bảo quỷ dữ ngụ trong người ngài.”
“Không nghi ngờ việc ông ta tin vào điều đó. Cô thì sao, Mariana Farr?”
Anh ta trông hơi xảo quyệt, người đàn ông mặc bộ quần áo đen có mái tóc đen cùng đôi mắt lấp lánh sắc màu của cánh rừng xung quanh, ngăn cách chúng tôi khỏi thế giới bao la ngoài kia, đang mỉm cười nhìn xuống tôi. Tôi nghiên cứu anh ta cẩn thận và nhún vai đáp lại.
“Tôi không phải mấy cô nàng yểu điệu, thưa ngài. Tự tôi có mắt để đánh giá và tôi không nhìn thấy chiếc sừng quỷ nào cả.”
Anh ta điềm tĩnh nhìn tôi khi cả hai cùng sánh bước. “Hẳn rất khó khăn cho cô”, anh ta khẽ nói, “để sống trong ngôi nhà đó”.
Tôi cứng nhắc vươn người lên, không chào đón sự thương hại của anh ta. “Tôi chỉ là một kẻ mồ côi, thưa ngài, sống phụ thuộc vào lòng cưu mang của họ hàng. Tôi không thắc mắc đến vị thế của mình.”
Đôi mắt anh ta ngờ vực vẻ ngay thẳng của tôi, nhưng anh ta để mặc lời bình luận trôi đi và chúng tôi cứ thế bước đi trong im lặng. Khi đến một khúc quanh của dòng sông, con ngựa xám đằng sau hất đầu ra sau và giật mạnh dây cương, khiến bạn đồng hành của tôi khựng lại.
“Tôi tin Navarre khát rồi”, anh ta giải thích hành động của nó với tôi. “Lại đây ngồi với tôi một lát trong khi chờ nó uống nước. Đây là chỗ rất thoải mái để giết thời gian.”
Tôi để bản thân bị dẫn đến một bãi cỏ sạch sẽ cách vài mét so với mép nước và ngồi lên một thân cây đổ, gạt bỏ chút tội lỗi châm vào lương tâm của chính mình. Bác tôi sẽ không bao giờ phát hiện được chuyện này, tôi tự nhủ, và thậm chí ông có biết, cũng đâu có gì đáng phải hổ thẹn? Sau cùng, tôi không mời mọc Richard de Mornay đi cùng mình, và đơn thuần người ta cũng không thể xua đuổi lãnh chúa của vùng ra chỗ khác như thể anh ta là một gã trai làng bình thường được. Và sự thật là tôi cũng không đặc biệt muốn xua đuổi anh ta, đối với tôi thì điều đó thật bất thường.
Anh ta ngồi ngay chỗ tôi để chân, lưng dựa vào lớp vỏ thô nhám của thân cây đổ, một chân đi bốt co lên đỡ cho cánh tay vươn ra trước. Qua đôi mắt lười biếng, anh ta nhìn con ngựa xám uống nước.
“Ngài vừa bảo ngài là người cuối cùng trong gia đình”, tôi nhắc anh ta, cố gắng bắt chuyện. “Ngài không có anh em trai nào sao?”
“Tôi có năm anh em trai”, anh ta nói, “nhưng họ đều yên nghỉ cả rồi. Họ đều mất trong khi phụng sự cho vua Charles I”.
Tôi nghiêm nghị nhìn xuống. “Vậy là gia đình ngài đứng về phía nhà vua, chống lại Nghị viện.”
“Phải.” Từ đó nghe thật chua chát. “Và đổi lại cho những cố gắng, họ mất mạng, đất đai cùng tất cả những gì họ sở hữu và trân quý.”
“Ngài đâu có chết”, tôi chỉ ra.
“Phải, tôi đâu có chết.” Anh ta dịch vai trên thân cây đổ và cười nửa miệng với tôi. “Đứa em trẻ nhất trong số chúng tôi mới được mười tám tuổi và vừa kết hôn khi nó ngã xuống, rồi chính nhà vua cũng mất. Lúc đó tôi hai mươi tuổi. Sau cuộc hành trình, tôi bỏ chạy sang Pháp và nhập vào gia đình của mẹ tôi trong triều đình của vua Pháp. Tôi không còn bụng dạ nào để chiến đấu, trong khi cha tôi bị giam trong tháp Luân Đôn, tôi có thể chẳng mấy giúp ích cho ông nếu tiếp tục ở lại Anh.”
Tôi nhìn anh ta chằm chằm. “Cha ngài bị giam trong tháp sao?”
“Ông bị bắt trong khi đang bảo vệ Exeter, lúc đó ông mới bốn mươi sáu tuổi. Họ giam giữ ông mười bốn năm trong những bức tường của tòa tháp, mà không có một cuộc xét xử đúng luật. Ông trở nên già nua trong cái nơi tăm tối đó. Ông chỉ sống đến khi nhìn thấy sự tự do, và đất đai của ông được trả lại, nhưng không kịp đợi tôi trở về từ Pháp.” Anh ta nhổ một lá cỏ và vò nó giữa những ngón tay, bóng tối của nỗi đau xa xưa giăng trên nét mặt khắc kỷ.
“Tôi rất tiếc.” Với nỗi cảm thông, tôi khẽ nhào người lên trước. “Tôi biết cảm giác mất cha là như thế nào. Ngài không còn một ai bên cạnh ư?”
“Cũng không đến nỗi không còn ai. Tôi có một đứa cháu, Arthur, con trai đứa em út của tôi. Nó sống ở Hà Lan với mẹ. Nó vừa bước sang tuổi mười lăm và là một kẻ bảnh chọe ẩm ương, nhưng dù sao nó cũng là cháu tôi. Và tôi có Evan. Như vậy cũng đủ cấu thành một gia đình rồi.”
Evan Gilroy, anh ta kể với tôi, là bạn của anh ta từ rất lâu rồi, trước khi hỏa lực của chiến tranh quét ngang vùng quê và bỏ nó lại cho thần chết tối cao. Khi Richard de Mornay theo Charles Stuart trở về quê nhà ở Anh năm năm trước, Evan Gilroy đã đề nghị được phục vụ người chủ mới của lâu đài Crofton, chịu trách nhiệm quản lý chuồng ngựa cùng những hộ nông dân trong vùng.
Người đàn ông ngồi cạnh chân tôi mỉm cười trước ký ức ấy. “Viễn cảnh một ngôi nhà trống không cùng một vùng đất khô cằn ko mấy chào đón đối với một người đàn ông”, anh ta nói. “Nếu không vì Evan, tôi không nghĩ mình sẽ ở lại.”
Tôi lẳng lặng thừa nhận mình nợ Evan Gilroy. Tôi đang cảm thấy rất dễ chịu, mặc cho đám quần áo ướt trên người, khi ngồi ở đây dưới ánh nắng lấp loáng xuyên qua kẽ lá và nói chuyện với một người đàn ông ở địa vị xã hội cao hơn tôi vài bậc. Cha tôi sẽ thích người đàn ông này, tôi nghĩ, mặc dù bác Jabez không hề tán thành.
Tôi ngả người và lồng bàn tay vòng ôm đầu gối. “Vậy ngài đã gặp đức vua bao giờ chưa?”
“Chính thức hả? Chỉ một lần thôi.” Anh ta liếc tôi qua vai. “Dù tôi nhìn thấy ngài thường xuyên, thậm chí còn đánh bài với ngài một hoặc hai lần. Rất dễ dàng để nhìn thấy ngài ở cung điện Pháp, trong suốt chuyến lưu đày của ngài.”
“Chính tôi cũng từng thấy ngài ấy một lần. Ở lễ đăng ngôi.” Lần đó ngài để lại một ấn tượng sâu đậm trong tôi, tôi hồi tưởng, một dáng hình uy nghi và cường tráng với những lọn tóc quăn dài, khuôn miệng gợi cảm và đôi mắt đen biếng nhác đầy thu hút. “Ngài ấy có vẻ là người tốt”, tôi bình luận.
“Ngài ấy khá tốt bụng”, Richard de Mornay đồng ý, “và chính trực hơn hết thảy. Ngài có một trái tim hào phóng, nhưng không phải một vị vua vĩ đại. Thời của các vị vua vĩ đại qua rồi”.
Tôi nhăn trán suy ngẫm. “Họ bảo, thực tế ngài ấy là người theo đạo Thiên Chúa.”
Người đàn ông bên cạnh tôi nhún đôi vai mạnh mẽ. “Mẹ tôi cũng theo đạo Thiên Chúa”, anh ta nói. “Tôi nghĩ cũng không phải tội lỗi gì to tát.”
Tôi giả vờ lạnh nhạt. Tôi chưa bao giờ gặp một người theo đạo Thiên Chúa trước đây. “Còn ngài?” Tôi hỏi anh ta. “Đức tin của ngài là gì thế?”
Richard de Mornay hơi cúi đầu, vẻ mặt của anh ta tối đi. “Tôi có rất ít niềm tin với Chúa”, anh ta nói thẳng với tôi. “Ngài ấy cũng có rất ít niềm tin vào tôi.”
Anh ta ném nhánh cỏ xơ xác sang một bên và lơ đễnh với tay bắt giữ cả hai bàn tay tôi trong một tay của anh ta, kéo chúng về phía trước để anh ta có thể nhìn thấy hai cổ tay tôi. “Em không đeo chiếc vòng”, anh ta nhận xét.
Mặt tôi đỏ lựng, cố kéo tay mình ra một cách vô vọng. “Tôi không thể đeo nó”, tôi phản kháng. “Công bằng mà nói, tôi không thể nhận nó, như thế là không thỏa đáng. Tôi đang định trả lại cho ngài.”
“Tôi sẽ không nhận lại.” Anh ta trông có vẻ bực mình. “Tôi đã mua nó tặng em như một món quà và em nên đeo nó.”
“Bác tôi chắc chắn sẽ không vừa lòng, thưa ngài”, tôi nhẹ nhàng nhắc anh ta. Buông tay tôi ra, anh ta đứng dậy để đi dắt con ngựa đang ăn cỏ, thu những chiếc dây cương trong nắm tay.
“Tôi không quan tâm”, anh ta nói. “Bác em thì liên can gì đến việc của tôi?”
“Đúng là không, thưa ngài”, tôi phải thừa nhận, “nhưng ông ấy rất quan tâm đến những chuyện có dính líu tới tôi, và tôi không muốn kích động cơn giận dữ của ông ấy”.
Anh ta liền quay lại, dáng hình cao lớn hiện trên con ngựa màu xám, vẻ mặt nghiêm trọng. “Nếu Jabez Howard dám bày tỏ thái độ với em dưới bất kỳ hình thức nào, tôi cũng không cho phép điều đó xảy ra.”
Tôi cũng đứng bật dậy và nhìn thẳng vào anh ta. “Tôi rất lấy làm hãnh diện, nhưng đây không phải việc của ngài. Tôi không phải là trách nhiệm của ngài.”
“Em sai rồi, tiểu thư ạ”, anh ta nói bằng cái giọng ngọt lịm như mật ong. “Em là trách nhiệm của tôi nhiều lắm đấy. Tôi sẽ biến nó thành hiện thực.” Anh ta tiến về phía tôi, một tay chỉnh lại chiếc yên ngựa. “Đến đây, tôi sẽ đưa em về.”
Tôi căng thẳng ngước nhìn anh ta. “Tôi sẽ không cưỡi ngựa cùng với đàn ông, thưa ngài.”
“Vậy thì cưỡi một mình vậy”, anh ta đề nghị, mỉm cười trước sự bồn chồn của tôi.
Tôi ngước lên trời tìm cớ thoái thác và thoáng nhẹ nhõm khi thấy mặt trời vẫn chưa xuống thấp trên phần phía đông. “Vẫn còn quá sớm để tôi quay về”, tôi xin lỗi. “Bác tôi đã chỉ thị tôi đừng về cho đến giữa chiều.”
Richard de Mornay híp mắt không tin. “Cái gia đình cưu mang em thú vị thật đấy. Không thành vấn đề.” Anh ta gạt phăng sự phản đối của tôi. “Em có thể cưỡi ngựa với tôi đến lâu đài Crofton và lưu lại làm khách của tôi cả chiều.”
Bị lời đề nghị ấy cám dỗ vô cùng, nhưng phút chót tôi lại lắc đầu, hơi lui ra sau và sém chút nữa vấp phải thân cây đổ vì hành động đó.
“Tôi rất cảm kích lòng tốt của ngài, thưa ngài”, tôi khẽ nói với anh ta, “nhưng tôi nghĩ tốt hơn hết mình không nên làm thế”.
“Đấy là quyết định của em”, anh ta quả quyết với tôi, rồi nhã nhặn nhảy lên yên ngựa. Anh ta thúc ngựa lại gần hơn, dây cương gò mạnh đến mức phần đùi đầy cơ bắp của con ngựa chỉ cách mặt tôi vài gang tay đáng sợ, khi biết rằng khúc gỗ nặng nơi gót chân đã chặn đường tháo lui của mình. “Tôi đã từng bảo sẽ không ép buộc em làm theo ý tôi”, anh ta nhắc tôi nhớ, vạch một ngón tay dọc theo phần quai hàm đang hướng lên của tôi. “Khi chúng ta trở thành tình nhân, thì đó là do em khao khát điều đó cũng nhiều như tôi vậy.” Ngón tay anh ta lướt qua làn môi tôi, đem theo huyễn hoặc chớp mắt về một nụ hôn, trước khi anh ta đưa bàn tay lên mũ và lịch sự chúc tôi một ngày tốt lành.
Mặc cho toàn bộ kích cỡ của bản thân, con ngựa xám di chuyển với tốc độ và sự lanh lẹ tuyệt vời. Tôi nhìn những hàng cây dần nuốt lấy họ và rồi trong vài phút cứ đứng đó lắng nghe tiếng vó ngựa mờ dần. Tôi cho rằng mình có thể cử động, nếu không cũng là tôi muốn thế, nhưng thực sự tôi không muốn làm như vậy. Tôi cứ đứng đó dưới tán cây rọi nắng, cố gắng lưu giữ khoảnh khắc này thật lâu, khi cùng lúc cảm nhận nó đang tuột dần ra xa như những hạt cát lọt khỏi kẽ tay tôi... tuột dần... tuột dần...
Cảnh vật trước mắt nhòe đi và khoảnh khắc ấy biến mất.
Tôi đang đứng một mình bên bờ sông lững lờ trôi, nơi chỉ có những bụi cây cao đến đầu gối rải rác khắp nơi cùng những nhánh liễu còn sót lại gợi nhớ về sự hùng vĩ của khu rừng đã từng chạy dọc hai bên bờ sông. Con sông giờ đã bị nắn lại nhờ bờ kè cao chót vót cả hai bên, tôi gần như không nhìn thấy gì ngoài nước, cỏ và bầu trời xanh trên đầu. Tôi không biết mình đang đứng ở đâu.
Trèo lên bờ kè dốc, tôi ngước ra xa cánh đồng và cố gắng lấy lại phương hướng. Tít tắp phía bên tay trái, tôi có thể nhìn thấy những bãi cỏ được rào lại cùng những mái nhà uốn cong của một ngôi làng nhỏ rất có thể là Exbury. Cũng rất khó nói từ cái góc nhìn lạ lẫm này. Trước mặt tôi cũng có một hàng rào bằng đá, cách không đầy một mét và xa hơn về một bên là một ngôi nhà nhỏ đặc trưng của đồng quê được quét vôi trắng, ngăn nắp, với những chậu hoa nở tươi tốt trên mỗi khung cửa sổ. Một khu rừng thu nhỏ từ những cây táo xương xương, oằn mình vươn rộng theo một tạo hình gọn ghẽ nằm cách xa một bên sườn của ngôi nhà và vài con cừu mới xén lông tĩnh lặng nhìn tôi từ chỗ của chúng bên kia hàng rào bằng đá.
Tôi biết mảnh đất này thuộc về ai thậm chí còn trước khi Iain Sumner vừa huýt sáo vừa đi vòng quanh ngôi nhà và dừng lại bên ngoài chiếc kho siêu vẹo phía sau, mó máy với món đồ cơ khí nào đó tôi không thể nhận dạng từ phía xa. Lưng anh ta quay về phía tôi, những cơ bắp kéo căng dưới mặt vải từ chiếc áo sơ mi bằng cotton, mái tóc đỏ của anh ta như gột ánh vàng nhờ những tia nắng hừng hực chiếu xuống từ mặt trời buổi sáng.
Tôi phải thừa nhận, khi nhảy qua hàng rào và bắt đầu bước qua đám cừu thờ ơ đó, mục đích duy nhất của tôi là tiến về phía Iain và hỏi xin một tách cà phê, nhưng khi tôi càng lại gần ngôi nhà, anh ta vẫn tiếp tục không nhận ra được sự xuất hiên của tôi, một chút quỷ quyệt bắt đầu khuấy động trong tôi.
Cơ hội đây rồi, tôi nghĩ, cơ hội bắt anh ta trả giá cho tất cả những lần anh ta làm tôi giật nảy đến đờ cả người vì cứ lén lút đến sau lưng tôi. Tôi sẽ chẳng bao giờ có cơ hội tốt hơn thế này. Tôi bước chậm để hạ thấp âm thanh hết mức có thể.
Khi chỉ còn cách vài mét, tôi nhìn thấy nguyên do giải thích cho hành động của anh ta. Anh ta đang bận rộn dùng dụng cụ xử lý một khối gỗ nặng, loại công cụ tôi vẫn thường nhìn thấy được treo trong các kho thóc. Làn khói xanh phả ra từ điếu thuốc bốc lên đầu khi anh ta nhoài người lên trước, dùng cả hai tay để điều chỉnh chiếc máy khó cầm.
Giờ tôi chỉ còn cách không đầy một mét hai. Thêm một bước nữa thôi và tôi có thể vươn tay chạm vào vai anh ta. Bàn tay tôi thực tế đã giơ lên lưng chừng thì Iain ngẩng phắt đầu lên và nghiêng nhẹ sang một bên, dùng những ngón tay nhem nhuốc, thành thạo rút điếu thuốc khỏi môi.
“Buổi sáng tốt lành, Julia”, anh ta nói.