Nhưng người cũng chưa về.
Phương cự hiệp trôi giạt chân trời.
Nhưng tâm của y đã cùng ái thê rơi vào vực sâu, vạn kiếp bất phục.
Cho dù y đi vạn dặm, đi phương bắc, ra biên cương, vào đại mạc, qua ngàn cánh buồm đều chẳng thấy, chọn hết cành đông chẳng chịu dừng, nhưng sinh mệnh của y vẫn ở trên ngọn núi xanh này, cũng không rời đi, vẫn luôn tìm tìm kiếm kiếm, giống như con dơi không quên bay về hang núi nơi nó cư trú, giống như chim én luôn luôn bay về chiếc tổ mà nó xây nên.
Sau đó, cuối cùng y đột nhiên nhận được tin tức do con nuôi ở phương xa đưa tới.
Tin tức là lại nhìn thấy Vãn Y.
Sự tình là như sau.
Nghe nói người đầu tiên phát hiện Vãn Y vẫn còn “sống ở nhân gian”, hoặc “mọc cánh thành tiên”, đó là con nuôi Tiểu Khán.
Lúc hắn bái tế nghĩa mẫu, lại nhìn thấy người mà bọn họ bái tế vẫn còn sống… ít nhất là chợt hiện ra trước mắt.
Phương Ứng Khán luôn có lòng hiếu thảo.
Hơn nữa đối với chuyện sơ ý khiến nghĩa mẫu tìm chết, hắn vẫn luôn hết sức áy náy, vô cùng khó chịu.
Hắn thậm chí còn bày tỏ với cự hiệp muốn chết theo, lần đó cự hiệp đã cho hắn tám cái bạt tai, mới có thể khiến hắn từ trong bi phẫn bi thương trấn định lại.
Người đã chết rồi, chôn theo có ích lợi gì.
Cho nên vì bù đắp sự áy náy trong lòng, Phương Ứng Khán không chỉ lập tế đường cho nghĩa mẫu tại Bất Giới trai, còn thường xuyên mang giấy tiền, đèn nến, gia súc, rượu lễ, ngũ quả, không ngại bôn ba lên núi, đến nơi nghĩa mẫu chết quỳ xuống bái tế, khóc lóc đổ lệ, cho đến khi trời chiều hạ xuống mới lưu luyến rời đi.
Vì vậy người ở kinh sư đều lưu truyền, Phương tiểu hầu gia mặc dù lòng dạ độc ác, dễ trở mặt vô tình, nhưng lại rất cung kính trung thành với nghĩa phụ, chí hiếu chân thành với nghĩa mẫu.
Chuyện này đã trở thành “điểm đáng khen” của Phương tiểu hầu gia.
Thế nhưng lần đó, trên núi đang có mưa phùn, lại có ánh chiều tà chiếu nghiêng nghiêng. Sau khi Phương Ứng Khán bái tế xong, từ từ đứng lên, đang định xuống núi, đột nhiên liếc thấy nơi mây mù mê mang có bóng sáng chợt lóe lên.
Chỉ chợt lóe lên, sau đó biến mất.
Nhưng như vậy đã khiến Phương Ứng Khán há miệng muốn kêu lên.
Đó là một tiếng gọi nhều lần thúc giục…
“Nghĩa mẫu!”
Nhưng hắn lại không hô ra miệng, kêu không thành tiếng.
Chẳng phải nghĩa mẫu đã nhảy núi tự vận sao?
Nhưng đó quả thật giống như bóng dáng xinh đẹp của nghĩa mẫu, giống như một dáng múa phiêu dật, theo bóng mưa và ánh mặt trời, bỗng chốc lướt qua khe núi biển mây, lay động một cái, giống như ra hiệu từ biệt, như hoa sen hoa thủy tiên chợt nở rộ rồi tàn đi, khiến người ta không kịp kinh ngạc thán phục một lần.
Phương Ứng Khán hoàn toàn ngẩn ra.
Sao lại gặp được người!
Sau lần kỳ ngộ này, hắn cũng không “lập tức” thông báo cho nghĩa phụ.
Bởi vì hắn cho rằng đó chỉ là ảo ảnh, mình thường hay suy nghĩ nên mới chợt sinh ảo giác. Nếu kinh động đến nghĩa phụ quá sớm, chỉ khiến y càng phân tâm lo lắng.
Cho dù nghĩa mẫu vẫn còn sống, cũng không thể nào xuất hiện giữa khe núi cheo leo hiểm trở như vậy. Nơi đó trên không tới trời, dưới không tới đất, chẳng những với khinh công của nghĩa mẫu không thể làm được điểm này, ngay cả tuyệt thế võ công của Phương cự hiệp cũng không làm được.
Có thể làm được điều này, trừ khi không phải là người, mà là thần tiên.
Nếu là thần tiên, vậy càng không cần thông báo cho cự hiệp, bởi vì dù sao nghĩa mẫu vẫn chết rồi.
Bất kể thăng tiên hay thành quỷ thì đều đã chết, không còn là người nữa.
Đã không phải là người, vậy còn gặp làm chi? Đâu còn gặp lại được nữa?
Sau đó Phương Ứng Khán suy nghĩ.
Hắn cho rằng đó chỉ là ảo giác trong lúc tâm tư ngơ ngẩn. Lúc ấy có biển mây, còn có mưa bụi, lại vừa lúc có ráng chiều sót lại, có thể vì vậy mà huyễn hóa ra cảnh tượng trong lòng mình tưởng niệm. Tại Nga Mi Kim Đỉnh, Giang Tây Lư Sơn, không phải cũng thường có loại phật quang huyễn tượng này sao?
Thế nhưng không lâu sau, Hắc Quang Thượng Nhân lên núi tu luyện pháp thuật… mặc dù không ai biết hắn tu luyện pháp thuật gì (hay là là yêu thuật?), rốt cuộc có pháp thuật hay không, hoặc là chỉ luyện võ công. Có điều phàm là luyện tiên luyện đan, tu đạo tu pháp, nhất định sẽ lên núi, ẩn vào trong rừng, mới có thể “tu thành” công pháp chính quả. Có lẽ, một khi để thế nhân tận mắt nhìn thấy, không xem là kỳ lạ, cũng sẽ không thành pháp thuật nữa? Hắn lại trông thấy Vãn Y phu nhân trên Thục sơn.
Trước kia hắn từng có một dạo làm phó lâm chủ của Ác Nhân lâm, một trong ba đại tuyệt địa của võ lâm, xem như là có duyên xưa, cũng có hận cũ với Phương cự hiệp. Nhưng khi đó công lực của hắn còn cách cự hiệp quá xa, căn bản không thể nảy sinh ý niệm trả thù.
Nhiều năm qua, hắn đã có danh có lợi, trở thành quốc sư cao quý, càng không muốn nhắc đến chuyện xưa tích cũ, báo thù rửa hận nữa.
Nhưng hắn chắc chắn nhận ra vợ chồng Phương cự hiệp.
Trong một lần luyện công (nghe nói là đang mưa to gió lớn), hắn đột nhiên nhìn thấy, trong lưới mưa trùng trùng, có một người đẹp đứng thẳng ở khe núi lơ lửng giữa trời, như có như không, xa xôi trước mắt, xoay người một cái trong mưa, bay nghiêng mà đi, lại không thấy nữa.
Hắc Quang Thượng Nhân chấn động.
Sau khi xuống núi, hắn đã kể chuyện này với Phương Ứng Khán.
Nghe hắn nói xong, Phương Ứng Khán cảm thấy đã đến lúc thông báo cho nghĩa phụ.
Sau khi Phương cự hiệp được biết chuyện này, lập tức đi đến kinh sư.
Một đường đánh ngựa, trong lòng cự hiệp chỉ có bốn chữ.
Để ta gặp nàng, để ta gặp nàng!
Trong lòng cũng chỉ có một kỳ vọng.
Nàng vẫn còn sống, nàng vẫn còn sống!
Y còn có một ý nghĩ đoạn tuyệt.
Cho dù nàng đã chết, cũng cho ta gặp lại nàng một lần. Chỉ cần biết dưới suối vàng có thể gặp nhau, ta sẽ cam tâm tình nguyện cùng chết với nàng.
Dọc theo đường đi, trong lòng y còn lặp đi lặp lại, nhiều lần gọi một cái tên.
Vãn Y, Vãn Y!
Do đó, y vào kinh dạy bảo con cái là một chuyện quan trọng, nhưng muốn tìm thê tử đã mất càng là một đại sự.
Hôm nay, y không tiếc trở lên núi xanh, trèo lên đỉnh cao, chính vì muốn tìm kiếm thê tử đã mất. Hơn nữa sau khi y tới kinh sư, lại từ trong miệng con nuôi biết được một chuyện.
Bởi vì Phương Ứng Khán từng thấy nghĩa mẫu hiện thân, cho nên trong lòng không yên, thường kiếm cớ lên núi tìm kiếm. Sau một lần bái tế, đột nhiên lại thấy nghĩa mẫu chợt xuất hiện trên đỉnh Chiết Hồng, giống như hoa rơi khắp chốn phồn hoa tuyệt mỹ rời đi, kéo theo một vệt cầu vồng rực rỡ trên đỉnh núi.
Nói đến đây, Phương Ứng Khán lại khóc.
Nghe đến đây, Phương cự hiệp cũng khóc.
Đổ lệ, khóc không thành tiếng.
Khóc không thành tiếng là thương tình nhất.
Thương tình luôn là người si tâm.
Người si vì đạo không câu thúc.
Người si vì kiếm sát tính mạnh.
Người si vì tình nhớ khó quên.