Ban nãy Thẩm Bồi ghé sát vào tai anh nói cái gì đó anh không để ý nên không nghe rõ.
Đột nhiên bị kéo gần khoảng cách giao tiếp như vậy khiến Khương Hòa Tông cảm thấy xa lạ, dường như theo bản năng muốn đẩy ra, nhưng giây phút đó lại không động đậy chút nào, chỉ cảm thấy bả vai cứng lại, sau đó hóa đá liệt toàn bộ nửa cơ thể bên trái.
“Ôi dào không trò chuyện với cậu nữa, chỗ tôi còn có việc. Nếu cậu không đi dạo thêm nữa thì nhìn xem có muốn vào câu lạc bộ nào không, nắm chắc cơ hội nhé.” Thẩm Bồi vừa đi ra khỏi đám người vừa nói.
Khương Hòa Tông vốn đã định về phòng học thì lại dừng bước.
Thẩm Bồi thoáng nhìn, rồi nhanh chóng quay lại: “Này, bạn cùng bàn, giúp tôi một việc được không? Bên chỗ tôi cần người làm.”
Khương Hòa Tông đồng ý rồi đi theo Thẩm Bồi ra ngoài, rẽ ra quảng trường nhỏ, leo lên các bậc thang đến một mảnh đất nhỏ bằng phẳng đối diện ngay với sân khấu nhỏ, hai đèn pin lớn được gắn trên lan can chắn ở hai bên cạnh.
Thẩm Bồi vẫy tay với Khương Hòa Tông, đứng ở mép lan can cầm đèn pin cúi xuống để kiểm tra dây vải thô dùng để buộc chặt.
“Một lát nữa, nghe chỉ đạo của tôi mà bật đèn, bấm vào nút này là có thể sáng lên.” Thẩm Bồi chỉ vào cái nút trên mặt đèn pin, nháy mắt cười tủm tỉm rồi nói tiếp: “Chỉ vào đâu thì chiếu vào đó, OK không thầy đạo cụ?”
Khương Hòa Tông gật đầu, làm quen với các nút trên đèn pin một chút rồi hỏi Thẩm Bồi lấy đèn pin từ đâu ra.
Thẩm Bồi cong mắt, giơ ngón tay lên môi, tay kia móc bộ đàm nhỏ từ trong túi ra, nhỏ giọng nói: “Tìm bác bảo vệ để mượn đèn tuần tra với bộ đàm, có giỏi không?”
Khương Hòa Tông “Ừm” một tiếng.
Thẩm Bồi quay sang một bên nghiêng người với anh, hỏi: “Sao cậu không thắc mắc tôi định làm gì? Cứ như vậy bị bắt lên thuyền tặc thì phải làm sao?”
Trời đã tối, gió thu thổi qua làm bay góc áo, áo khoác đồng phục của hai người đang mở cùng bay lên, khóa kéo va chạm với nhau phát ra tiếng vang cực kỳ nhỏ.
Biểu cảm của Khương Hòa Tông ẩn trong đêm tối, giọng nói nhỏ nhưng rất rõ ràng: “Tôi tò mò, có thể hỏi không?”
Thẩm Bồi búng tay một cái nói đương nhiên có thể, sau đó nói đơn giản qua một chút cho Khương Hòa Tông về tiết mục được bổ sung và điều hành ánh đèn.
Sau khi Khương Hòa Tông nghe xong thì cười trong lòng rồi trong tiềm thức ngẩng đầu nhìn lên chiếc đồng hồ lớn treo phía trên tòa nhà giảng dạy phía xa, kim phút khó khăn lắm mới dừng lại ở giữa, những ngọn đèn đường ở cạnh quảng trường nhỏ lẽ ra phải bật sáng lại cùng nhau lặng yên, như là đang bảo vệ bí mật gì chung vậy.
Mười lăm phút nữa đến tiết tự học buổi tối, các bạn học tốp năm tốp ba mà đi ra khỏi quảng trường nhỏ.
Sau khi Thẩm Bồi nói vào bộ đàm câu “Bắt đầu”, một chuỗi âm thanh ghi-ta du dương phát ra từ loa, nghe như là có gió mạnh thổi đến cánh đồng bát ngát.
Trong bóng tối mù mịt có người bước lên sân khấu.
Khương Hòa Tông ấn bật đèn pin, một chùm ánh sáng trắng khó khăn lắm mới chiếu nghiêng xuống tới dưới chân người trên sân khấu, Lý Giai Di cười, đọc thơ bằng tiếng Anh.
Đám người đi ra ngoài dừng lại nhìn tiết mục biểu diễn ngoài lề trên sân khấu, sau khi nghe xong một đoạn thơ thì vỗ tay nhiệt liệt.
Khẩu âm tiếng Anh của Lý Giai Di rất tốt, phát âm chuẩn, mỗi từ đơn đều đọc đầy đủ và tình cảm, nhưng không có vẻ sục sôi quá, đọc một bài thơ về mùa thu mà không biết tên là gì một cách trẻ trung và chân thành.
Khương Hòa Tông chậm rãi trượt nút để làm dịu ánh sáng, sau khi đọc xong một hai chữ cuối cùng, Lý Giai Di đứng dịu dàng dưới chùm tia sáng.
Khương Hòa Tông nghiêng đầu nhìn Thẩm Bồi, thấy ngón tay anh đang gõ theo nhịp ghi-ta, sau khi gõ đến nhịp tiếp theo của tiếng đàn anh nhanh chóng đẩy sáng đèn.
Lâm Thịnh ở một bên khác trên sân khấu được chiếu sáng lên.
Lâm Thịnh cũng đọc thơ, đọc tiếng Trung, nhưng nhịp từng câu chữ đều đáp lại bài thơ Lý Giai Di vừa đọc.
Lâm Thịnh đọc bình thản thoải mái, giọng nói trong trẻo và rõ ràng hiếm thấy ở những người con trai cùng tuổi khác, nghe như một dòng sông trong suốt, khi ánh sáng trắng chiếu lên, cả người cậu ấy như hòa tan trong ánh sáng.
Thẩm Bồi ôm đầu xem rất nghiêm túc, lại rất kiêu ngạo mà vỗ n.g.ự.c khoe khoang với Khương Hòa Tông: “Đẹp chứ? Nghe hay chứ? Giỏi chứ? Đây là trưởng câu lạc bộ Văn học của chúng tôi đó! Bài thơ này là cậu ấy viết, có phải viết rất tốt không?”
Khương Hòa Tông trả lời đúng vậy, rồi chăm chú nhìn lên sân khấu, chiếu ánh sáng phối hợp với Thẩm Bồi.
Một tiết mục dưới ánh đèn được làm qua loa không nhiều màu sắc của một nhóm hai người đã được hoàn thành vô cùng đẹp đẽ, hai loại ngôn ngữ xen kẽ với nhau ngâm được một bài thơ tươi đẹp thanh thoát, cuối cùng là những tiếng hô dồn dập đã đẩy bầu không khí lên cao trào, sau đó hai ánh đèn kia dập tắt “Bụp”, chỉ có một tiếng vang nhỏ lơ lửng trên bầu trời phía trên quảng trường nhỏ.
Không biết là ai dẫn đầu vừa vỗ tay vừa hô lên câu cuối cùng “Cộng phó bất hủ”, vì thế tiếng hô lẫn tiếng vỗ tay đều có nhịp.
Thẩm Bồi hô to “Cộng phó bất hủ” theo nhịp, hô lên nhiều lần không biết mệt mỏi, quay đầu lại nhìn cười Khương Hòa Tông.
Khương Hòa Tông không quá rành việc hô lên như vậy, gần như làm nó theo một cách trẻ con, tất cả những việc này đối với anh đều quá mới lạ, từ khi mới tắt đèn trái tim anh mới dần rơi xuống ngực, ngay sau đó là sự kích động và vui vẻ cuồn cuộn trào dâng, khi đang hít sâu muốn điều chỉnh lại thì bắt gặp ánh mắt Thẩm Bồi đang cười khanh khách.
Não Cá Vàng team
Khương Hòa Tông thấy đèn đường sáng lên khi các bạn trẻ hô to “Cộng phó bất hủ”, thấy ánh đèn xuyên qua khe hở ngón tay của bàn tay Thẩm Bồi giơ lên, nghe thấy tiếng hoan hô điếc tai, rồi nghe thấy Thẩm Bồi nói đập tay đi.
Giống như được mặt trời chiếu sáng lên.
Khương Hòa Tông xòe bàn tay ra đập vào bàn tay Thẩm Bồi.