Ta gật gật đầu, đôi mắt Tô Tử Thuần phút chốc như ngập trong sương mù.
Ta biết, chắc hẳn hắn ta đã phải đấu tranh tư tưởng một thời gian rất dài.
“Sư phụ có tổng cộng sáu người đồ đệ, ta là người bái sư cuối cùng, nên theo vai vế thì là nhỏ nhất. Vương Trác là đại sư huynh, không phải bởi hắn lớn tuổi nhất, mà vì nhà hắn nghèo, bái sư sớm nhất. Chẳng hiểu tại sao, tuy rằng trong số các sư huynh sư đệ, hắn là người ôn hòa nhất, trước giờ luôn nhẫn nhục chịu khó, ai mắng cũng không đáp trả, nhưng sư phụ vẫn không quá đề cao, mấy huynh đệ dần dần cũng mất đi sự tôn trọng với hắn. Ban đầu ta cũng học theo người khác, ném hết mọi việc của mình cho hắn, nhưng hắn lại chẳng bao giờ có lấy một lời oán trách.”
Nói tới chuyện cũ, Tô Tử Thuần có vẻ bình thản lạ thường.
“Mấy huynh đệ khác đều chỉ học hai ba năm đã không chịu nổi cuộc sống bần hàn đơn điệu nên toàn bỏ dở giữa chừng, chung quy rằng thế giới bên ngoài quá lớn và phồn hoa. Nên cuối cùng bên cạnh sư phụ chỉ còn mỗi hai người là ta và Vương Trác, hắn vì gia cảnh nên không thể quay về, còn ta không trở về được là do… mâu thuẫn với người trong nhà.”
Đến đây ta không khỏi có hơi khó hiểu, nghe Tô Tử Thuần nói sao mà giống như đang tẩy trắng cho Vương Trác? Nếu tính cách Vương Trác thực sự chẳng màng tranh giành cùng thời cuộc, vậy thì cớ gì lại dính dáng tới sự việc lần này?
“Tô tiên sinh nói chuyện liên quan đến dịch bệnh đi.” Ta cắt ngang dòng hồi tưởng của hắn ta.
Tô Tử Thuần như không nghe thấy, miệng vẫn nói: “Bình thường ta hay tự chuốc tai họa, có thể cho rầy la nhiều nên sư phụ gần gũi với ta nhất. Ông ấy không có con, về sau gần như coi ta là con trai mà dạy bảo.”
Nghe những câu không đầu không đuôi của hắn ta, mày ta cau chặt, nhưng vẫn chịu đựng và kiên nhẫn tiếp tục lắng nghe.
Từ từ, nét vô định trong đôi mắt Tô Tử Thuần dần ngưng tụ lại, hắn ta nói: “Sau rồi sư phụ qua đời vì thử thuốc, y quán lẽ ra phải để đại sư huynh là Vương Trác kế thừa, ngươi có biết tại sao lại rơi vào tay ta không?”
Ta trầm ngâm một lúc, hỏi: “Có liên quan tới nguyên nhân cái chết của sư phụ ngài ư?”
Tô Tử Thuần khẽ nhếch miệng, dường như khó có thể tin, hắn ta cất tiếng: “Làm sao ngươi biết?”
“Đoán thôi.” Ta thật thà trả lời.
Nhìn ta dửng dưng như thế, Tô Tử Thuần hít sâu một hơi nói tiếp: “Đúng vậy, sư phụ luôn thích tự lấy mình ra thử thuốc, chúng ta khuyên can đủ đường cũng chả chịu nghe. Ngày ông ấy lâm chung, thứ thuốc thử kia… Phải, chính tay Vương Trác đã bưng tới. Đây vốn là việc của ta, khi ấy còn trẻ ham chơi, bào chế dược liệu xong như yêu cầu của sư phụ thì thành thói đẩy luôn cho Vương Trác, vô tình cho hắn một cơ hội.”
Bàn tay đặt trên bàn của Tô Tử Thuần đã cuộn chặt lại, mu bàn tay chằng chịt gân xanh, như thể hễ nhắc đến chuyện này là khiến lửa giận của hắn ta phụt cháy bừng bừng: “Sư phụ chết bất đắc kỳ tử, ta muốn kiểm tra bã thuốc cặn, nhưng Vương Trác bảo là đổ hết rồi, khổ nỗi không có chứng cứ, thế rồi ta bèn mưu tính giành lấy y quán trong tay hắn, dù sao dựa vào gia thế của ta mà nói, thì quá dễ dàng.”
“Ngày qua ngày ta theo dõi hắn sít sao, muốn tìm ra chút dấu vết còn sót lại. Vậy nhưng ròng rã chục năm hắn vẫn đeo trên mặt chiếc mặt nạ ôn hòa điềm đạm, chưa từng bị lộ tẩy. Ta vốn tin tưởng hắn hoàn toàn, tin rằng cái chết của sư phụ là ngoài ý muốn, định bụng trả y quán về cho hắn, thậm chí bắt đầu lần nữa gọi hắn một tiếng “sư huynh"… Nhưng hắn chẳng nói tiếng nào đã được châu quan tiến cử, một bước lên mây.”
Đây chính là chân tướng của lời đồn “Vương Trác ngày xưa bị sư đệ chèn ép”.
Hồi lâu Tô Tử Thuần mới lại bình tĩnh, nói: “Có lẽ hắn giỏi ngụy trang, nên bao nhiêu năm trời ta mới không nhận ra từ lúc bắt đầu cho đến ngày hôm nay hắn luôn khát vọng quyền thế. Có lẽ lúc sư phụ qua đời ta phải bắt hắn tới chỗ quan phủ mới đúng, vậy cũng không thành ra nông nỗi như hiện giờ, để hắn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.”
“Tôi nghe nói từ khi Vương Trác được tiến cử vào hoàng thành tới nay, ngài đã đóng cửa y quán dạo khắp bốn biển, năm nay đột nhiên ngài đến hoàng thành chính là vì Vương Trác?” Ta hết sức tự nhiên khơi gợi chủ đề này.
Tô Tử Thuần do dự chốc lát, nói hơi ngắc ngứ: “Không, không phải, bởi vì ta… Vì ngay từ đầu nghe nói hoàng thành bạo phát dịch bệnh ta đã nghĩ, nếu có thể mượn cơ hội này phát huy y thuật của mình, nói không chừng sẽ được hoàng gia coi trọng, có thể truy cứu lại… chuyện cũ năm xưa.”
Nhìn đôi mắt chợt lóe của Tô Tử Thuần, lòng ta dao động, nhưng cũng không hỏi nhiều nữa, dù sao trọng điểm nằm ở chỗ khác: “Vậy Tô tiên sinh có thu hoạch gì bất ngờ không?”
Nghe vậy, rõ ràng Tô Tử Thuần nhẹ nhàng thở ra, sau đó điều chỉnh tư thế ngồi, nói: “Mới đầu ta làm thầy thuốc chân đất, trà trộn vào các gia đình quan lại dán cáo thị cần chữa bệnh ngay, lại phát hiện căn bệnh họ nhiễm phải…”
Tô Tử Thuần khẽ dừng, nhịp tim ta theo đó cũng ngừng lại trong giây lát, hắn ta mấp máy môi, bảo: “Các triệu chứng giống y đúc với những người bị nhiễm bệnh trong thành Dự Châu năm ngoái.”
“Ngài nói trong thành Dự Châu cũng có người nhiễm bệnh? Tại sao chưa bao giờ nghe ai nhắc tới?” Giọng ta trở nên gấp rút chẳng thể khống chế.
Tô Tử Thuần lắc lắc đầu: “Ta cũng từng được mời đi chẩn đoán bệnh, đó không phải dịch bệnh, chỉ tại có hộ nhà năm người kia ăn trúng thịt thối, dẫn đến nôn mửa và tiêu chảy, kèm theo là cơn sốt hiếm gặp, tuy sẽ lây bệnh nhưng lúc đó người nhiễm ít, không khiến quá nhiều người chú ý. Vì năm ngoái châu quan nói vụ thu hoạch không khả quan mấy, hơn nữa quỹ cứu trợ cứu nạn triều đình phát cho dân không đủ, ai ai cũng phải thắt lưng buộc bụng, nghèo đến nỗi chỉ đành ăn đồ ôi thiu, từ đó gây bệnh cho người.”
Ta đè lồng ngực căng trướng xuống, hỏi: “Đã lây lan thì tại sao ngài nói không phải dịch bệnh.”
Mắt Tô Tử Thuần chợt lóe: “Dù lúc ấy bệnh đã lây cho một vị đại phu, nhưng không giống dịch bệnh là hết thuốc cứu chữa. Qua nửa tháng, trước khi ta nghiên cứu ra thuốc trị liệu, có một hộ nhà, trong đó một vị lớn tuổi đã tự mình khỏi hẳn, người trong thành Dự Châu biết nên không lo sốt vó nữa. Ta cũng do tình cờ tiếp xúc đồng thời với dân hoàng thành và dân Dự Châu mới phát hiện ra manh mối.”
Ta nhìn chằm chằm hắn ta, hỏi: “Người hoàng thành không tới nỗi phải nuốt cả đồ hư thối, ngài chắc chắn cùng một chứng bệnh?”
Dưới cái nhìn trực diện của ta, Tô Tử Thuần cực kỳ kiên định: “Sau khi vào hoàng thành ta đã chẩn bệnh cho người bệnh nơi đây, dựa vào kinh nghiệm theo y hơn mười năm của ta, tuyệt đối là cùng một chứng bệnh.”
Môi ta hơi khô: “Ngài nói bệnh này sẽ tự khỏi hẳn… Tại sao mười mấy người trong hoàng thành lại chết?”
Tô Tử Thuần né tránh ánh mắt của ta, nói: “Ta không biết.”
Chẳng phải hắn ta không biết, chỉ là không dám nói thôi, “dịch bệnh” không hại chết người, mười mấy người kia tại sao lại chết, không phải nói cũng biết.
Thấy ta vẫn nhìn đăm đăm, Tô Tử Thuần cất tiếng, ngữ khí như quyết đánh đến cùng: “Có nha dịch dưới quyền của một vị châu quan Dư Châu có quan hệ khá tốt với ta. Năm ngoái lúc uống rượu anh ta uống quá chén, khóc lóc sám hối nói ngôi làng bị lũ nhấn chìm kia là nơi đầu tiên xuất hiện ca bệnh, chính vì lúc ấy châu quan không cho đại phu tới khám chữa nên bọn họ không biết đó… không phải dịch.”
Trong không khí dường như có thứ gì đó cuộn trào, hắn ta nói có mấy câu mà ta như rơi vào động băng, cả người rét run bần bật.
Không biết đó không phải dịch…
Vậy là, ban đầu châu quan Dự Châu hiểu lầm đây là dịch bệnh, sợ khi truyền nhiễm không kiểm soát được nên đã kết thúc chóng vánh số phận của cả một ngôi làng. Tận tới khi trong thành Dự Châu cũng xuất hiện người mắc chứng bệnh tương tự, chẳng để tên châu quan giở thủ đoạn lần nữa, đại phu đã phát hiện bệnh có thể tự chữa khỏi mà không cần thuốc, thứ cần chính là thời gian.
Ngôi làng đã bị bí mật xử lý, tên châu quan vì tư lợi không mời đại phu cho họ, cũng chả cho họ thời gian và cơ hội chờ bệnh tự khỏi.
Người ở vùng sâu vùng xa bình thường rất hiếm và cũng không được tùy ý ra vào hoàng thành. Nên có một hộ gia đình ở Dự Châu nhiễm bệnh, sau khi khỏi hẳn tất nhiên sẽ không có ai liên tưởng căn bệnh này đến dịch bệnh bùng phát ở hoàng thành, dù sao “những người đó” đã cho người trong hoàng thành tìm một được cái cớ của trận dịch - con cáo non.
Nhưng với người đã trải qua cả hai sự kiện trên, thực sự không hề phát hiện chút nào luôn ư?
“Được.” Ta liếm môi, “Tôi hỏi ngài một câu cuối cùng, việc này Tề vương đi trị thủy có biết không?”
Câu hỏi hẳn rất khó trả lời, cả buổi trời Tô Tử Thuần mới mở miệng: “Tề vương tới Dự Châu, ngày ngày cùng ăn cùng ở với châu quan, đương nhiên là nắm rõ chuyện trong thành như lòng bàn tay.”
Khi ta ra khỏi căn nhà đã là một canh giờ sau. Chưa kịp gọi thì Hồ Nguyên Ly chả biết từ chỗ nào đi ra, cuộc nói chuyện vừa rồi của chúng ta chắc hắn cũng nghe hết, nên sắc mặt mới tệ thế kia.
“Ngài định làm thế nào?” Ta mở lời trước.
Đôi mắt Hồ Nguyên Ly trào ra nét tàn nhẫn, khóe miệng nhếch lên, mỉa mai: “Loại chuyện dơ bẩn khiến người ta căm hờn này, ta phải tự xuất mã thôi.”
Ta giật giật ống tay áo nhăn nhúm của mình, chậm rãi bình ổn tâm trạng, lên tiếng nhắc nhở: “Mặc dù Tô Tử Thuần nói sẽ làm chứng giúp chúng ta, nhưng ngài cũng không được tin hắn hoàn toàn, vẫn nên chuẩn bị cho ổn thỏa. Nô tỳ thấy Tô Tử Thuần với Vương Trác không hẳn chỉ toàn là hận đâu.”
“Tại sao?” Hồ Nguyên Ly vô cùng khó hiểu, “Ta thấy hắn tức giận bất bình lắm cơ mà?”
Ta khẽ cười, nhìn Hồ Nguyên Ly: “Vừa nãy hắn nói mình tới kinh thành là vì muốn cầu công danh lợi lộc, ngài tin à? Một người dạo chơi bốn bể chục năm, sao có thể tự dưng để công danh trói buộc? Đừng quên lúc trước khi chúng ta tới tìm hắn, hắn vẫn do dự chần chừ, chẳng giống người nóng lòng muốn báo thù gì cả.”
Vẻ mặt Hồ Nguyên Ly dần trở nên nghiêm túc, ta thì thả lỏng đôi chút: “Có điều ngài không phải phòng bị hắn quá mức, ngoại trừ lý do này, những điều khác hắn nói hẳn là thật đấy.”
“Vậy ngươi thấy sao năm nay tự dưng hắn vào hoàng thành?” Hồ Nguyên Ly hỏi ngược lại.
Khóe mắt ta thoáng lướt qua cánh cửa nhà đóng chặt, nói: “Ngài không để ý à? Thời gian hắn vào hoàng thành với thời gian tin tức Vương Trác nhiễm bệnh truyền ra không chênh lệch nhiều lắm.”
“Ý ngươi là…” Mặt Hồ Nguyên Ly như khó lòng tin nổi.
Ta gật nhẹ đầu, chẳng nói câu nào bước đi về Tần vương phủ, Hồ Nguyên Ly hơi ngập ngừng đi theo phía sau ta.
Lúc sắp đến Tần vương phủ hắn mới duỗi tay kéo ta lại, giọng nghi hoặc: “Ta vẫn chưa hỏi ngươi, sao ngươi lại hao tổn tâm sức vào việc này tới vậy?”
Ta không ngẩng đầu mà đáp: “Vì đứa nhỏ bị chúng hại chết, là người duy nhất không coi tôi như nô tài.”
Nhận thấy bàn tay đang nắm lấy cánh tay mình bỗng siết chặt, ta cố phớt lờ đi, ngước lên nhìn Hồ Nguyên Ly nói: “Ngài sẽ bắt kẻ đã hại tiểu điện hạ chứ?”
Đôi mắt Hồ Nguyên Ly như ánh trăng vằng vặc giữa hồ nước, một lúc sau hắn trịnh trọng cất lời: “Ta sẽ khiến kẻ đứng đằng sau phải trả cái giá xứng đáng.”
Phút chốc trái tim ta như được trời quang chiếu rọi, cảm giác thoải mái chưa từng có tràn trề khắp người. Lần đầu tiên trong cuộc đời, ta nhìn thẳng Hồ Nguyên Ly không hề lảng tránh, rồi nở một nụ cười xuất phát từ tận sâu đáy lòng: “Được, nô tỳ tin vương gia.”
Ngờ đâu Hồ Nguyên Ly lại không cười với ta, mắt hắn như khóa lại trên khuôn mặt ta, ánh nhìn của hắn thầm trầm và cứ kéo dài mãi. May là hắn bằng lòng lắng nghe mọi nghi vấn của ta, cũng may nữa là ta đã tra ra được nghi vấn của mình.
Mượn cơ hội này, ta dứt khoát nói ra hết lời trong lòng: “Nếu vương gia suôn sẻ… định tội hung thủ, không thì hãy tra luôn kẻ lúc trước ám sát thái tử phi, nô tỳ luôn thấy e là có liên can đến hung thủ. Nếu đã trị tội, vậy hãy phơi bày tất cả tội danh ra bên ngoài.”
Mắt Hồ Nguyên Ly lóe lên nét kinh ngạc, đợi hồi lâu hắn mới nói: “Được.”
Có lẽ những gì ta nói quá khác thường, nên giọng hắn khi trả lời nghe có hơi khó khăn.
Mấy ngày kế tiếp tâm trạng ta cực kỳ tốt, ở đây nhiều năm như vậy mà chưa bao giờ vui như bây giờ. Trong cuộc đời đầy áp lực mà tầm thường của ta, mọi thứ ta đạt được ở hiện đại là quá dễ dàng, còn chuyện nơi này còn khó hơn cả lên trời.
Thấy bộ điệu phấn chấn như muốn bay lên của ta, Cao Yển nhịn không được chủ động hỏi ta bị làm sao.
Ta đáp đầy hứng khởi: “Mấy ngày nữa vương gia sẽ biết.”
Cao Yển cũng không hỏi nhiều, có điều như bị ta ảnh hưởng, trên môi y lúc nào cũng hiển hiện nụ cười thản nhiên.
Đúng như ta dự đoán, tác phong của Hồ Nguyên Ly rất nhanh chóng và dứt khoát.
Ngày thứ hai, bỗng nhiên có hạ nhân trong Yến vương phủ được phát hiện lên cơn sốt tương tự như triệu chứng của căn bệnh hồi đầu năm. Vì những người từng nhiễm bệnh trong hoàng thành đã khỏi hẳn, nên khi bất ngờ lại xuất hiện một người nhiễm bệnh, toàn bộ Yến vương phủ đều phải giới nghiêm.
Dân chúng hoàng thành cũng bắt đầu để ý đến từng biến động nhỏ của Yến vương phủ, dù hiện giờ có phương thuốc trị liệu dịch bệnh, nhưng vẫn sợ sẽ có “ngộ nhỡ”.
Sau khi nhận được đủ sự quan tâm của các phương, Hồ Nguyên Ly mới tra ra nguyên nhân làm cho hạ nhân trong phủ bị bệnh. Thị vệ nhiễm bệnh đó mấy ngày trước từng nhận lệnh đi đuổi dân chạy nạn loanh quanh ngoài thành, chỉ vì Hồ Nguyên Ly thấy đám người áo quần tả tơi ấy trông chướng mắt. Trong lúc xua đuổi, thị vệ đã xảy ra chút mâu thuẫn với một nạn dân, không cẩn thận bị làm trầy xước da.
Người của Yến vương phủ vậy mà lại bị nạn dân đả thương, hơn nữa người này cũng có khả năng bị nhiễm bệnh, Hồ Nguyên Ly giận dữ phát lệnh dốc sức truy lùng.
Chẳng tới một ngày đã bắt được nạn dân kia, thái y kiểm tra thì quả nhiên gã có bị nhiễm. Tuy nhiên lúc gã cầu xin tha thứ đã bảo mình đến từ vùng khác, vì không bước vào thành, không nhận ra thị vệ của Yến vương phủ, bấy giờ mới chán sống mà ra tay với thị vệ.
Người chưa bao giờ vào hoàng thành, tất nhiên không có cơ hội tiếp xúc với mấy nhà quan to hiển đạt từng nhiễm bệnh trong hoàng thành, vì vậy việc gã bị nhiễm bệnh có hơi kỳ lạ.
Nhưng gã dân chạy nạn kia sống chết gì cũng không chịu nói căn nguyên lây nhiễm, nên sau khi gã khỏi hẳn, Hồ Nguyên Ly mới đưa gã tới trước điện. Đứng trước mặt thiên tử, rốt cuộc gã cũng mở miệng.
Trên Kim Loan điện, gã nạn dân khóc hết nước mắt nước mũi, lời nói ra khiến vài quan viên có mặt tại hiện trường kinh hãi không thôi.
Gã tự xưng là người của ngôi làng bị lũ Dự Châu nhấn chìm, tất cả những người khác trong làng đều đã chết, chỉ có gã ly biệt quê hương, kéo dài hơi tàn tiếp tục sống. Căn bệnh mà gã mắc phải thậm chí còn dính dáng tới một bí mật - cái gọi là dịch bệnh, vốn ban đầu là từ ngôi làng ở Dự Châu mà ra.
Lúc trước, sau khi châu quan Dự Châu phát hiện, vì phòng ngừa tin tức bị lộ nên đã không kiểm tra ngay lập tức mà âm thầm hạ lệnh phong tỏa, khiến cả những người chẳng hề nhiễm bệnh cũng không may mắn thoát khỏi.
Một số người trên Kim Loan điện nảy ra nghi ngờ với thân phận của gã dân chạy nạn này, dù sao người của ngôi làng chìm ngập trong cơn lũ Dự Châu đã bị thác lũ cuốn trôi chả tìm thấy xác. Vả lại, một người bị nhiễm bệnh làm sao có thể sống lâu như thế mà chưa chết.
Có điều gã nạn dân chẳng chút lăn tăn khai ra gia phải ba đời của mình, cùng với tên tuổi hàng xóm, đều không có gì khác so với hộ tịch đăng ký chỗ quan phủ.
Khi hoàng đế còn chưa kịp phát biểu ý kiến, gã nạn dân lại nói ra một bí mật cực kỳ sốc…
Lũ lụt Dự Châu không phải thiên tai, mà là có bàn tay người tác động. Sau khi châu quan hạ lệnh phong tỏa ngôi làng, dịch bệnh bùng phát tới mức cơ bản không thể kiểm soát, bọn họ cứ nghĩ sẽ chờ đại phu do châu quan đứa đến, nào ngờ cuối cùng chào đón họ lại mà một trận hồng thủy.
Mãi sau lúc gã nạn dân tìm được đường sống trong chỗ chết mới hay tin khi đó có kỳ sát hạch châu quan, sau lũ lụt, tên quan kia không chỉ không bị giáng chức mà còn được triều đình cấp cho một số tiền cứu trợ thiên tai.
Vì châu quan Dự Châu nghe nói căn bệnh này là bệnh truyền nhiễm nên không muốn chữa trị cho bọn họ, chỉ mong mau mau giải quyết để không ảnh hưởng đến kỳ khảo hạch của mình, đại phu cũng chả mời nốt, đúng là coi mạng người như cỏ rác.
(còn tiếp)