Căn nhà rất trống, trên tường còn vết đóng đinh treo poster, một cái đệm kê sát góc tường, đầu giường vương vãi mấy lon bia, nửa bao thuốc, một cái gạt tàn thủy tinh đầy đầu lọc sắp tràn cả ra ngoài. Ngoài trời mưa táp gió giật, đập vào khung cửa sổ kính đã nhiều năm, kêu ầm ầm.
Phương Mục nằm ngay trên đệm, đầu gối lên hai cánh tay, ngẩn ngơ nhìn trần nhà loang lổ.
Nhà là của lão Ngũ, hắn đã chuyển ra khỏi đây rất nhiều năm rồi, hắn là người khảng khái, mấy món đồ dùng cũ trong nhà chẳng mang cái gì đi, chỉ để bạn bè họ hàng sang, thích gì thì mang đi. Thế là hôm nay người này sang lôi cái sofa đơn đi, ngày mai lại người kia sang ngắm được cái chạn bát, ngày kia có người làm về nghệ thuật sang tiện tay tháo bức liên họa trên tường, cuối cùng đến cái đèn treo trên trần nhà cũng không tha, sau khi càn quét hết đợt nọ đến đợt kia, nhà chỉ còn một cái đèn bàn đứng đã hỏng bóng gãy cột cùng với một tấm đệm đơn đã cũ đến lòi xốp.
Phương Mục hoàn toàn chẳng có yêu cầu gì với môi trường sống, gã chẳng cảm thấy khổ sở gì, đằng nào thì, gã nghĩ, gã cũng chẳng ở đây lâu.
Ban đầu, cảm xúc của Phương Mục về thằng nhóc là tức giận, còn cái kiểu thấy chết không sờn của Phương Thố lại khiến lửa giận mà gã phải cố gắng kìm xuống bốc lên cao ba trượng, lúc tức quá chỉ muốn đập chết cậu luôn. Nhưng lỡ một ngày thằng nhóc không còn trước mặt mình nữa, Phương Mục lại chui vào lồng vì chút lý trí ít ỏi, gã cảm thấy thật kỳ lạ, trong lòng chỉ xoay đi xoay lại một vấn đề, sao lại thế được? Gã tự hỏi mình không phải người dịu dàng tốt bụng gì, đối xử với Phương Thố cũng chẳng phải tỉ mỉ chu đáo, rốt cuộc là vì sao?
Phương Mục sống ba mươi mấy tuổi đầu, từng có mẹ, chưa từng gặp bố, người bên cạnh đến rồi lại đi, nhưng lại cứ giống một con chó hoang hung dữ, tự mình tàn nhẫn bắt bản thân trưởng thành. Rất nhiều tình cảm, gã chưa từng có, cũng chưa từng hiểu.
Gã thực sự không biết nên phải làm gì với Phương Thố, hoặc là ban đầu đáng lẽ không nên mềm lòng mà ở lại. Gã không nên xuất hiện, đáng lẽ phải cắt đứt hoàn toàn thứ suy nghĩ hoang đường đó của Phương Thố, cậu còn trẻ như thế, rồi sẽ có một ngày vặn lại được.
Gã biết làm vậy thì mất nhân tính quá, nhưng gã còn có cách nào nữa đâu, cũng không thể đánh chết thằng bé được?
Phương Thố kéo lê túi đồ, đi từng bậc lên cầu thang, mỗi lần bước lên là sẽ để lại một dấu chân ướt đẫm. Chiếc áo len trên người hơi ẩm, nước vương trên lông áo, trắng phau một khoảng, tóc mái ướt đẫm bết vào trán, cậu ngẩng đầu nhìn cầu thang tối mờ, bỗng kiệt sức, vẻ lạnh lẽo đờ dại trên mặt nứt toác, cậu quay đi, mặc kệ trên cầu thang toàn là bụi bặm, cậu ngồi xuống, vùi đầu vào hai đầu gối.
Cậu lại nghĩ đến Phương Mục, không cần nhìn ảnh hay người thật, nhắm mắt lại là cậu có thể mường tượng ra dáng vẻ của Phương Mục, mỗi lần cau mày, mỗi lần mỉm cười, thậm chí là lạnh lẽo vô tình, đều hiện rõ từng đường từng nét. Bao nhiêu năm rồi, Phương Mục đã trở thành nỗi niềm cố chấp trong cậu. Một khi phải chịu sự thúc đẩy của bên ngoài, là sẽ nổ tung như một quả bom nguyên tử, không cần biết đâu địch đâu ta. Bồng bột bộc lộ cảm xúc của mình ra trước mặt Phương Mục, cậu cảm thấy vô cùng sảng khoái, cậu chưa từng nghĩ đến hạu quả, không chừa cho mình chút đường lui, đây hoàn toàn không phải tác phong bình thường của Phương Thố.
Nếu khi đó cậu còn sót lại một chút lý trí, cậu sẽ biết rằng, với cách làm hại địch một ngàn hại mình tám trăm như thế, cậu không thể lay động được Phương Mục. Nhưng nếu chuyện gì cũng có thể suy nghĩ bằng lý trí, làm sao mà thành yêu sâu đậm cho được?
“Con thế này, có khác gì muốn ép chú con đi không?”
Lời lão Ngũ nói bỗng như chậu nước đá, kéo cậu ra khỏi trạng thái hủy hoại bản thân nóng rẫy cực độ. Phương Mục nói được là làm được, sau bữa cơm hôm đó, gã thu xếp vài bộ quần áo, xách cái ba lô xanh quân đội, đi xuống dưới nhà, bước ra khỏi sân, đi về phía chiếc xe đậu bên ngoài. Mấy tháng trước, cũng ba lô đó, cũng cảnh tượng đó, gã xuất hiện trước mặt Phương Thố, bây giờ, gã sắp đi rồi.
Suy nghĩ này khiến cậu đuổi theo ra như điên dại, siết chặt lấy cánh tay Phương Mục, cậu siết rất chặt, gần như muốn chuột rút, trong mắt đong đầy ý hận và cầu xin dữ dội. Nhưng Phương Mục chỉ lặng lẽ nhìn cậu, lạnh lùng và cứng rắn giơ tay lên, kéo tay cậu ra, rồi lên xe mà chẳng ngoảnh đầu lại, bỏ đi thật nhanh.
Cậu cảm thấy kiệt sức từ cột sống cho đến xương chân, kiệt sức như đang cận kề cái chết. Cậu tưởng mình trưởng thành rồi, có thể nắm giữ số mệnh của mình rồi, đến giờ cậu mới phát hiện ra, trước Phương Mục, cậu vẫn chẳng thể làm gì nổi.
Cậu đi từ dưới lầu lên trên lầu như hồn ma vất vưởng, mở cửa phòng Phương Mục, nhìn căn phòng trống rỗng, cậu cảm nhận thấy thứ áp lực tối tăm ngột ngạt, thứ áp lực này, cậu đã cảm nhận rất rõ trong ba năm Phương Mục bỏ đi.
Cậu nằm ngủ thiếp đi trên chiếc giường của Phương Mục, khi tỉnh lại thì trời đã tối sụp, cậu bật hết tất cả đèn có thể bật được trong nhà lên, như đang xua đuổi sự cô đơn và sợ hãi trong lòng. Phương Mục thực sự có tình cảm với cậu, gã để căn nhà lại cho cậu, sắp xếp cuộc sống hiện tại và sau này cho cậu, cân nhắc tất cả những tình huống cậu có thể gặp phải, như ba năm trước. Nhưng tình cảm ấy, sự chu đáo tỉ mỉ ấy, không phải thứ mà Phương Thố muốn.
Lòng cậu nảy sinh ý hận không thể khống chế nổi, ý hận đầy ác độc, những cảm xúc tiêu cực đó như dây leo độc, quấn chặt lấy trái tim của cậu.
Phương Thố lại đứng dậy, đi từng bước lên lầu. Cậu mong con đường này mãi mãi không có điểm cuối, cuối cùng cậu vẫn đứng trước cửa căn chung cư của lão Ngũ, nhìn cánh cửa đóng chặt, cậu biết Phương Mục đang ở bên trong, nhưng cậu giơ tay lên rồi mãi vẫn chẳng gõ được, cứ lặp đi lặp lại như vậy ba lần, cuối cùng cậu cúi đầu.
Cửa bỗng mở ra, Phương Mục đứng sau cánh cửa, nhìn cậu thiếu niên đứng như cọc gỗ, mặt lạnh tanh, chẳng nói năng gì.
Phương Thố nhìn Phương Mục cứng lạnh như đá, hé miệng, rồi lại ngậm lại, cậu siết chặt quai túi đồ, nhìn mũi chân ướt đẫm của mình, nói: “Cháu xin vào ký túc của trường rồi, hôm nay sẽ chuyển sang đó.”
Phương Mục vẫn không lên tiếng, cậu trai ngẩng đầu lên, nói: “Chú Phương Mục, chú về nhà đi.” Cậu ngập ngừng, không chờ được Phương Mục lên tiếng, cậu quay đầu đi, nhìn vào một điểm nào đó trên cầu thang, lại chờ thêm một lúc rồi nói: “Cháu đi đây.”
Cậu xách hành lý, quay lưng đi xuống lầu, phía sau vọng lại tiếng đóng cửa, trái tim cậu cũng lạnh đi theo tiếng sầm đó, một giây sau, túi đồ trong tay bị cầm lấy, cậu ngạc nhiên ngoái lại, chỉ nhìn thấy bóng lưng gầy cao lớn của Phương Mục.
Gã xách túi đồ của Phương Thố, đi về phía trước mà chẳng nói năng gì, tim Phương Thố như bị một bàn tay bóp chặt, vừa xót lại vừa đau. Cậu đi theo sau Phương Mục, như hồi còn bé, theo sau lưng gã, khi ấy, cậu cảm thấy Phương Mục thật là cao lớn, cậu phải nghển cổ lên mới có thể nhìn thấy gã. Bây giờ, không cần nghển cổ lên nữa, thậm chí cậu chỉ thấp hơn gã có nửa cái đầu, nhưng khoảng cách đó hình như chẳng bao giờ thay đổi, vẫn xa xôi như thế.
Phương Mục vứt túi đồ vào xe, đưa Phương Thố đến trường.
Bầu không khí trong xe nặng trĩu, chẳng ai nói năng gì, Phương Thố nhìn sườn mặt Phương Mục ánh lại trên kính xe, phác lại bằng ánh mắt dịu dàng.
Gã đưa cậu đến ký túc của trường, ký túc của trường là phòng bốn người, vì xin muộn nên chỉ có thể ở ghép với sinh viên khoa khác. Khi họ đến nơi, trong ký túc đã có người đắp chăn bông ngủ rồi, nghe thấy tiếng động bèn thò cái đầu rối bù ra, liếc một cái rồi lại nằm xuống như chẳng liên quan gì.
Có người từ bên ngoài về, thấy người trong phòng thì ngẩn ra rồi cười hềnh hệch, “Chào cậu chào cậu, cậu là Phương Thố bên khoa công trình thổ mộc chuyển sang hôm nay phải không, tôi, Trương Vĩ, khoa thể dục, có gì cần giúp thì cứ nói nhé.”
Phương Thố mỉm cười, “Chào cậu.”
Ánh mắt Trương Vĩ quay sang Phương Mục, bảo Phương Thố, “Đây là anh trai cậu hả, tôi thấy hai người giống nhau ghê ấy.”
Phương Thố sững ra, giải thích, “Không phải… là… chú tôi.” Thực ra chỉ xét hai người từ mặt mũi thôi đã chẳng giống gì rồi, nhưng con trai đều quen mô phỏng hành vi biểu cảm của đàn ông trưởng thành có vai trò quan trọng xuất hiện trong cuộc đời mình, lâu dần, như có quan hệ huyết thống thần kỳ thật, nói theo lời lão Ngũ thì là “người như nào nuôi ra trẻ như thế”. Hồi trước Phương Thố nghe vậy chỉ vui thầm, như một đứa trẻ con dễ dàng thỏa mãn.
Trương Vĩ ngẩn ra, cười ha ha, nhiệt tình nói với Phương Mục: “Chú ngồi đi ạ.”
Phương Mục không ngồi, đặt túi đồ của Phương Thố xuống rồi đi luôn. Phương Thố đứng trên hành lang ngoài, nhìn bóng hình Phương Mục lao vào màn mưa, cuối cùng biến mất tăm, chỉ còn lại màn mưa trắng xóa, màu trắng ấy, ánh vào mắt cậu, khiến mắt cậu đau nhói.
Phương Mục ngồi trong xe, châm một điếu thuốc, đáng lẽ Phương Mục phải vui khi thấy kết quả này, hai người xa nhau rồi, sẽ kiểm soát được mối quan hệ trong cự ly an toàn, hơn nữa với độ tuổi này của thằng bé, đáng lẽ nên qua lại với người cùng tuổi, vương sức sống mà đám trẻ nên có, không nên sống cô độc như thế, mỏng manh như thế.
Gã búng tàn thuốc ra ngoài cửa sổ, khởi động xe, về nhà.
Gã mua một suất cơm sườn ở quán cơm mé đối diện, về nhà, để cơm xuống dưới mái hiên rồi gọi Bánh Ú đang nhắm mắt nằm dưới hiên, “Lại đây, ăn cơm.”
Không biết có phải con cẩu sắp thành tinh này cũng cảm nhận được nỗi buồn chia ly hay không, nó luôn cực kỳ trung thành với đồ ăn lại uể oải, lười biếng chống người dậy rồi chậm chạp đi đến, cúi đầu ngửi một cái rồi lại nằm vật ra bất động.
Phương Mục nhướng mày, chửi, “Mẹ kiếp, con súc sinh này sống sang hơn người rồi đấy, lại còn kén cá chọn canh, có tin tao đấm mày không?”
Bánh Ú lật mí mắt, tỏ vẻ “bố mày lười để ý đến mày”, cao quý lạnh lùng đi về ổ của mình, nằm xuống.
Phương Mục bị chó chê, “…”
Sau đó lại thấy mình đúng là chán quá hóa rồ rồi, đi chấp nhặt với con súc sinh làm gì, gã kéo ống quần, ngồi xuống bậc cửa, lần thuốc lá ra châm cho mình một điếu. Vì là mùa mưa nên sắc trời tối mịt, trong nhà lại càng tối, thứ mùi cô đơn lan tỏa không thể khống chế, Phương Mục bỗng cảm thấy lòng mình trống rỗng, cứ vẩn vơ.