- Tách!
Tôi muốn định hình và lưu lại trong trái tim khung cảnh này mãi mãi.
- Cô làm gì vậy?
- Không có gì.
Tôi thu tay lại, không thể nói với tiểu hòa thượng rằng tôi đã nuối tiếc như thế nào khi không mang theo máy ảnh, nên chỉ thở dài than vãn:
- Những viết chân trên cát sẽ nhanh chóng biến mất, hệt như cuộc đời ngắn ngủi của con người vậy.
Tôi ghìm dây cương và nhảy xuống. Quay trái ba vòng phải ba vòng, ngoáy đầu, lắc hông, phải vận động một chút mới được, nếu không gân cốt tôi tê dại mất. Ngước lên thấy Kumalajiba trên lưng lạc đà đang chăm chú nhìn mình, tôi cười:
- Nhưng dù vậy tôi vẫn sẽ kiên trì bước từng bước vững chắc và lạc quan đi đến đích cuối cùng.
Tôi nắm dây cương, dắt lạc đà và rảo bước trên cát, tôi muốn lưu lại dấu ấn của tôi trên sa mạc nghìn năm về trước này. Kumalajiba nở nụ cười tươi tắn, cũng nhảy xuống và học theo tôi. Lát sau, hai chú lạc đà đã được những người hầu cận dắt đi.
Được một đoạn, chúng tôi ngoảnh lại nhìn, đôi hàng dấu chân in trên cát, kéo dài thành hai đường thẳng song song. Tôi nảy ra ý tưởng, liền đề nghị tiểu hòa thượng:
- Cậu hãy đi lên phía trước.
Tiểu hòa thượng hơi băn khoăn, nhưng vẫn ngoan ngoãn tiến lên trước. Tôi theo sau, đặt chân mình lên những dấu chân của Kumalajiba. Cậu ta đi được một đoạn chợt dừng bước, quay người lại. May sao tôi kịp đứng lại và bước sang bên, nếu không chắc sẽ đâm sầm vào cậu ta mất.
- Lẽ ra chúng ta là hai đường thẳng song song, dù đi bao xa cũng không bao giờ gặp nhau, nhưng vì cơ duyên, hai đường song song đã hợp lại thành một.
Tám ngày trước tôi đang ở một nơi cách nơi này hàng nghìn năm thời gian.
- Bởi vậy, duyên số thật kỳ lạ!
- Tôi thì nghĩ, tôi được gặp cô, đó là ý của Phật tổ.
Tôi quay lại và bắt gặp ánh mắt tiểu hòa thượng, đôi mắt trong veo như làn suối, đó là đôi mắt thuần khiết nhất mà tôi từng gặp trong suốt hai mươi ba năm qua. Vừa định đáp lời, tôi bỗng thấy một bóng người từ phía xa đi tới. Lúc người đó lại gần, tôi nhận ra đó là một hòa thượng khất thực, dáng vẻ khổ hạnh, khuôn mặt dính đầy bụi cát, dắt bên mình một con ngựa gầy gò như chủ nhân của nó. Kumalajiba vội vàng bước đến, ni cô xinh đẹp cũng nhảy xuống, ra lệnh cho đoàn người dừng lại. Hai mẹ con chắp tay cung kính chào đón lão hòa thượng.
Họ mang nước và thức ăn đến cho hòa thượng khất thực, vị hòa thượng nhận lấy và đặt vào chiếc túi tả tơi khoác trên lưng, sau đó ba người bắt đầu cuộc chuyện. Lão hòa thượng quan sát Kumalajiba hồi lâu, nói với cậu đôi câu, sắc mặt trầm buồn. Rồi quay sang trao đổi với Jiba, hai người vừa nói chuyện vừa ngắm nhìn Kumalajiba, vẻ mặt của tiểu hòa thượng bỗng trở nên âu sầu.
Một lát, hòa thượng nói lời từ biệt, đi về hướng ngược lại với chúng tôi. Kể từ lúc đó, mẹ con ni cô có vẻ rầu rĩ hơn trước.
Chúng tôi leo lên lưng lạc đà đi tiếp. Tôi lặng lẽ thúc lạc đà đến bên Kumalajiba hỏi chuyện:
- Này tiểu hòa thượng, lão hòa thượng ấy nói gì với cậu thế?
Kumalajiba suy nghĩ một lát rồi đáp:
- Thầy nói, mẹ phải ở bên cạnh và bảo vệ tôi. Ngày sau tôi sẽ thành công trong việc chấn hưng và phát triển Phật pháp, siêu độ vô số chúng sinh, công đức lớn lao không kém Upagupta.
- Upagupta là ai?
- Là vị cao tăng nổi tiếng, thủy tổ của phái Thiền Tông Ấn Độ.
- Đại sư thật đáng nể, ngài ấy thấy được cả tương lai sáng lạn của cậu. Tôi cũng tin như vậy, chắc chắn cậu sẽ trở thành một vị cao tăng được nhiều người sùng kính.
Niềm tin đó là thật, với trí tuệ siêu phàm như hiện nay, Kumalajiba chắc chắn sẽ nổi danh trong thiên hạ. Có điều với lượng kiến thức ít ỏi về Tây vực, tôi không đoán ra được cậu là nhân vật nổi tiếng nào. Nghe tôi tán dương mà Kumalajiba không hề tỏ ra vui sướng chút nào.
Tôi có cảm giác, lão hòa thượng kia không chỉ nói với cậu bấy nhiêu.
- Sao thế, sao cậu không nói gì?
Tiểu hòa thượng dõi mắt về phía hàng dương xa xa, vẻ mặt uể oải in đậm trên sắc mặt.
- Đại sư còn nói, nếu không tuân thủ giới luật một cách nghiêm khắc, rồi đây tôi sẽ chỉ là một pháp sư thông minh sáng láng không hơn không kém.
- Không tuân thủ giới luật? Làm gì có chuyện đó!
Ngón tay tiểu hòa thượng nắm chặt dây cương đến tím tái, đầu cúi thấp, thanh âm nhẹ bẫng:
- Đại sư nói, nếu trước năm ba mươi lăm tuổi…
Tiểu hòa thượng ngập ngừng, hai má bỗng chốc ửng đỏ, ánh mắt chấp chới nỗi sợ hãi mơ hồ. Nhưng chỉ một thoáng qua đi, vẻ bình thản trở lại trên khuôn mặt.
- Trước năm ba mươi lăm tuổi làm sao?
Biểu cảm của Kumalajiba cho tôi biết có điều gì đó rất nghiêm trọng.
Tiểu hòa thượng trầm ngâm hồi lâu, thả lỏng dây cương, từ tốn đáp:
- Tôi không biết diễn đạt như thế nào bằng tiếng Hán.
Câu trả lời chỉ khiến tôi càng thêm tò mò.
Tiểu hòa thượng đột ngột vung dây cương, thúc lạc đà chạy lên phía trước, giữ một khoảng cách với tôi. Thân hình mảnh khảnh, lớp áo choàng bay bay trong gió, ánh nắng chếch nghiêng, cắt xuống nền cát một bóng hình sẩm đỏ, cô liêu. Tôi băn khoăn không biết có phải mình đã làm gì sai hay không?
Cách đó không xa là một khu rừng nhỏ. Người mặc chiếc áo nâu sòng của giới tu hành đã dừng lại, ngoảnh đầu ngóng đợi, chờ tôi bắt kịp, rồi cùng tôi thong dong tiến về phía trước.
Thoáng chút áy náy trên nét mặt, hòa thượng hắng giọng, quay sang hỏi tôi:
- Ngải Tình, vì sao cô gọi Bhikkhu[4] là lão hòa thượng còn gọi tôi là tiểu hòa thượng?
Tôi biết cậu ta muốn chuyển đề tài. Thì bởi vì tôi không hiểu tiếng Phạn chứ sao. Bhikkhu nghĩa là gì? Mà tên cậu ta cũng rất khó nhớ, gọi là tiểu hòa thượng thì có sao đâu.
Tôi hỏi ngược lại Kumalajiba:
- Trong tiếng Phạn có tôn xưng dành riêng để gọi nhà sư không, có từ nào phát âm giống “hòa thượng” không?
Cậu ta lắc đầu:
- Trong tiếng Phạn hình như không có, nhưng ở Điền Quốc, người ta gọi các đại sư truyền giới là Khosha, tên gọi này nghe có vẻ giống từ “hòa thượng”.
Thú vị quá, thì ra từ “hòa thượng” được dịch từ ngôn ngữ của Điền Quốc.
- Nhưng hòa thượng là các đại sư truyền giới có trên mười năm thọ đại giới, thông tỏ đại luật đủ tư cách để xuống tóc và thọ giới cho người khác. Tôi nào đã đến được cảnh giới đó, không xứng với tôn xưng hòa thượng. Vả lại, tôi cũng chưa thọ đại giới, cô cứ gọi tôi là Sramanera đi.
Lại là tiếng Phạn. Thấy tôi ngơ ngác, cậu ta vội giải thích: Sramanera chỉ những người mới xuất gia tuổi từ bảy đến hai mươi, đã thọ thập giới, nhưng chưa thọ đại giới. Sau khi thọ đại giới, họ sẽ được gọi là Bhikkhu, nghĩa là khất sĩ, khất sĩ là những người cầu Phật pháp nơi Phật tổ và khất thực chốn nhân gian.
Tôi hiểu rồi, chả trách những âm đọc này rất quen tai.Sramanera là Sa di, Bhikkhu là Tỷ khâu, cả hai đều là âm dịch. Thì ra nhà sư cũng được phân chia giới bậc khi gọi tên. Nhưng ở Trung Quốc, người ta gọi sư cụ là lão hòa thượng, gọi chú tiểu là tiểu hòa thượng, thậm chí những em bé còi cọc không chịu lớn người ta cũng gọi là hòa thượng. Chẳng ngờ, từ “hòa thượng” lại có ý nghĩa tôn quý như vậy.
Tôi cười thích thú, chàng trai thiên tài, tính tình trầm lặng này đã trau dồi cho tôi không ít kiến thức về Phật giáo. Vì vậy, dù hơn cậu ta khá nhiều tuổi, nhưng sự trưởng thành của cậu ta khiến tôi có cảm giác chúng tôi là những người đồng niên. Và cũng nhờ cậu, hành trình gian nan của tôi ngày càng có thêm nhiều niềm vui.
Như thường lệ, sau khi kết thúc giờ học buổi tối, tôi ngồi ghi chép bên đống lửa. Mặc dù đèn dầu trong lều trại cũng đủ sáng, nhưng tôi thích không gian khoáng đạt bên ngoài hơn. Ngắm nhìn bầu trời đầy sao giữa sa mạc hoang vu luôn khiến tôi được đắm chìm trong những cảm xúc mơ hồ trong không gian thuộc về quá khứ miên viễn này. Gió đêm nay như đổi tính, êm ái ru qua, chòng ghẹo những đốm lửa hồng bập bùng, tí tách. Nhắm mắt lại, hít một hơi thật sâu, tâm hồn trở nên thanh tịnh và lắng đọng tựa khung cảnh này.
- Tối nào cũng thấy cô ghi chép, cô ghi gì vậy?
Tiếng Hán của Kumalajiba vẫn hơi gượng gạo. Nhưng trong tám ngày qua, vốn từ vựng của cậu đã phong phú hơn rất nhiều.
- Có gì đâu, tôi đang viết thư.
Định che đi, nhưng tôi nghĩ cậu ta đọc được cũng không hiểu, nên cứ để mở cuốn sổ tay.
- Tôi đọc mà không hiểu.
Lòng hiếu kỳ của tuổi trẻ thật mãnh liệt. Tiểu hòa thượng nở nụ cười háo hức:
- Vốn tiếng Hán của tôi chưa nhiều, nhưng tôi sẽ chăm chỉ, để có thể đọc được những gì cô viết.
Chưa chắc đâu. Tôi viết bằng chữ giản thể kia mà! Tôi chỉ tay sang bên cạnh:
- Có muốn ngồi xuống không?
Tiểu hòa thượng do dự một lát rồi ngồi xuống, nhưng cố ý giữ khoảng cách với tôi, đôi tay khẳng khiu đưa về phía trước sưởi ấm.
- Vì sao cậu muốn học tiếng Hán?
- Người Hán có rất nhiều điểm ưu việt, y dược, nhạc luật, lịch pháp, kỹ nghệ đều vượt xa người Khâu Từ. Trong nhà tôi có rất nhiều kinh văn tiếng Hán, tôi muốn nghiên cứu những thư tịch đó.
Cậu ta lúc nào cũng ham học hỏi. Ngập ngừng giây lát, tôi quyết định hỏi:
- Cậu còn trẻ như vậy, vì sao lại xuất gia?
Tôi biết câu hỏi có chút mạo phạm, nhưng cậu ta chẳng hề tỏ ra phật ý, ánh mắt đăm chiêu không rời ngọn lửa:
- Tôi đi tu năm bảy tuổi, nay đã được sáu năm và tôi chưa từng suy nghĩ về vấn đề này cho tới mấy ngày gần đây…
- Khoan đã!
Ra hiệu cho cậu ta ngừng lại, rồi ra vẻ nghiêm trọng, tôi hỏi:
- Năm nay cậu bao nhiêu tuổi?
- Mười ba.
Vậy mà tôi cứ đinh ninh cậu ta ít nhất cũng mười lăm, mười sáu tuổi. Dáng người cao lớn, khuôn mặt lại luôn giữ vẻ đĩnh đạc, trầm tĩnh của lứa tuổi trưởng thành. Trời ơi, vậy là cậu ta bắt đầu học tiếng Hán từ năm tám tuổi chứ không phải mười một. Sau năm năm, vẫn có thể giao tiếp, rốt cuộc, cậu ta có bao nhiêu tế bào não kia chứ!
- Ngải Tình, vì tôi cao lớn nên rất nhiều người tưởng tôi đã mười sáu tuổi.
Cậu ta cười thẹn thùng.
- Cô đừng chê tôi ít tuổi, tôi hứa sẽ nỗ lực học thật giỏi tiếng Hán!
- Sao tôi lại chê cậu, cậu là ân nhân cứu mạng của tôi mà.
Tôi giả bộ không hề gì, nhưng trong lòng hơi buồn bực. Lẽ nào tôi hơn cậu ta những mười tuổi? Không đúng không đúng, dù sao, cậu ta cũng nhiều hơn tôi hai nghìn tuổi. Đâu là tuổi tác tương đối và đâu là tuổi tác tuyệt đối của hai chúng tôi? Càng nghĩ càng mơ hồ, tôi không nghĩ nữa. Tôi chuyển chủ đề:
- Cậu đã nghĩ ra chưa, vì sao lại xuất gia?
Cậu ta mở miệng định nói rồi lại lắc đầu. Đôi mắt vẫn đăm chiêu ủ dột:
- Tôi vẫn chưa thể diễn đạt trọn vẹn bằng tiếng Hán. Khi nào trình độ Hán ngữ của tôi đủ để thấu suốt đạo lý này, tôi sẽ nói cho cô hay.
Có thể nói cậu ta phải chịu đựng một điều gì đó. Tôi không dám bàn luận về Phật pháp, nhưng tôi rất muốn động viên cậu ta. Ngước nhìn nền trời xanh thẫm được dát bạc bởi ngàn vạn vì tinh tú, tôi khảng khái bày tỏ suy nghĩ của một người đến từ thế kỷ XXI:
- Nơi tôi sống có một vĩ nhân, ông chia nhu cầu của con người ra làm năm cấp bậc. Cơ bản nhất là nhu cầu sinh lý, gồm những việc như đi lại, ăn ở. Khi đã thỏa mãn nhu cầu này thì con người sẽ nảy sinh nhu cầu được an toàn. Người ta muốn sự sống và tài sản của mình được đảm bảo. Sau khi nhu cầu này cũng được thỏa mãn tương đối, thì con người nảy sinh nhu cầu tình cảm: tình thân, tình yêu, tình bạn. Sau đó mới đến nhu cầu được tôn trọng: bao gồm lòng tự tôn và sự kính trọng của người khác.
Đó là bốn loại nhu cầu trong lí luận của Maslow. Quay sang bên và bắt gặp đôi mắt lấp lánh đang nhìn mình, tôi chậm rãi nói tiếp:
- Nhưng đó chưa phải là nhu cầu cao nhất. Con người chỉ cảm nhận được niềm vui tột độ khi lí tưởng được thực hiện, ấy là khi năng lực của họ được phát huy đến mức tối đa vì họ có thể làm được mọi việc tương ứng với khả năng vốn có của mình.
Đôi mắt xúc động ngước nhìn tôi, giọng nói như nghẹn lại:
- Lí tưởng?
Tôi gật đầu quyết liệt và bổ sung thêm:
- Lí tưởng là thứ mà cậu sẽ theo đuổi suốt đời, là mục tiêu phấn đấu của cuộc đời cậu.
Tiểu hòa thượng trầm tư hồi lâu, rồi hướng đôi mắt hút hồn vào tôi:
- Ngải Tình, cô có lý tưởng chứ?
- Tất nhiên rồi!
Tôi đằng hắng dọn giọng, rồi tiếp:
- Muốn biết lí tưởng của tôi là gì không?
Quả là cậu ta rất hiếu kỳ, ánh mắt háo hức thôi thúc tôi. Tôi đứng lên, giơ tay về phía bầu trời bao la, cất cao giọng:
- Tôi muốn được trải nghiệm lịch sử, tôi muốn viết một cuốn sách sử lưu danh thiên cổ giống như “Sử ký” của Tư Mã Thiên.
Tôi dõng dạc bộc bạch ước mơ bấy lâu nay của mình. Nếu ở thế kỷ XXI mà nói như vậy, hẳn nhiều người sẽ giễu cười tôi. Nhưng đứng trước tiểu hòa thượng hồn hậu này, tôi chẳng có gì phải e dè. Chợt nhận ra cậu ta cứ len lén nhìn tôi, tôi mỉm cười:
- Mơ ước quá xa vời, đúng không?
Cậu ta cũng đứng lên, gật đầu rất quyết liệt, thanh âm tuy không cao, nhưng dứt khoát:
- Cô sẽ làm được!
Đôi mắt trong sáng của tiểu hòa thượng khiến tôi cảm động hết sức. Không ngờ lời động viên của cậu thiếu niên này lại khiến tôi vui sướng đến thế. Tâm trạng trở nên vô cùng thoải mái, dễ chịu. Tôi dang rộng cánh tay, tưởng tượng mình là chim ưng, vỗ cánh bay xung quanh đống lửa, lúc đến trước mặt tiểu hòa thượng, tôi dừng lại thở hổn hển, cười tươi:
- Cậu hãy suy nghĩ xem lí tưởng của cậu là gì đi. Sống trên đời phải có lí tưởng thì cuộc sống mới có ý nghĩa.
- Ngải Tình, tôi vẫn chưa hiểu hết những điều cô nói. Nhưng thấy cô vui vẻ vì có lí tưởng như vậy, tôi rất cảm động! Tôi cũng muốn được giống như cô, đặt ra mục tiêu phấn đấu cho cuộc đời mình.
Ánh lửa bập bùng phản chiếu khuôn mặt như tạc tượng của tiểu hòa thượng, gió nhẹ thổi đến, cuốn lên cao những tàn lửa li ti, trên trời ngàn vì sao đua nhau lấp lánh, dướt đất bóng lửa lập lòe nhảy múa và nụ cười ấm áp của chàng trai trẻ bên cạnh, phút chốc, thời gian như ngưng đọng, thêm một cảnh tượng tuyệt đẹp nữa tôi muốn lưu giữ trong tim.
Trở về lán trại, xoay mình hết bên này sang bên kia tôi vẫn không sao dỗ được nỗi hưng phấn khi nãy xẹp xuống để nhường chỗ cho giấc ngủ. Nỗi nhớ nhà hằng đêm đã đi đâu mất. Cứ nghĩ đến câu nói: “Cô sẽ làm được” trong lòng lại dâng trào một niềm vui khôn tả. Tôi khe khẽ tự nhủ: Ngải Tình, cậu sẽ làm được!
Lúc chuẩn bị thiếp đi tôi chợt nhớ ra “Sử ký” của Tư Mã Thiên phải đến tận thời Hán mới xuất hiện, vậy là tôi đã làm lộ kiệt tác của Thái Sử Công. Tôi thật bất cẩn. Cầu mong sao cậu ta không để tâm đến và cầu mong sao cậu ta đừng đi khắp nơi tìm kiếm cuốn sách này.