Cúi mình đã từ nhiều giờ trên chiếc bàn kính trong kho sách, họ vừa so sánh từng từ trong một bản thảo thánh ca Gréroige với một bản thảo âm nhạc Do Thái, cả hai bản thảo đều có trước thế kỷ XI và được soạn ra từ cùng một văn tự Thánh kinh. Leeland quay sang cha Nil.
- Liệu có phải giai điệu của đạo Do Thái thực sự là nguồn gốc của âm nhạc Giáo hội hay không? Tớ sẽ đi tìm văn tự tiếp theo trong phòng bản thảo Do Thái. Trong khi chờ đợi, cậu nghỉ ngơi đi.
Sáng nay Breczinsky đón họ với vẻ kín đáo quen thuộc. Nhưng viên thủ thư tận dụng một lúc vắng mặt của Leeland đã rỉ tai cha Nil :
- Nếu có thể… tôi muốn nói chuyện với cha một lát hôm nay.
Cánh cửa phòng ông ấy cách có vài mét. Còn lại một mình trước bàn, cha Nil ngần ngừ một lát. Rồi tháo găng tay rồi bước về phía văn phòng của người Ba Lan.
- Mời cha ngồi.
Căn phòng mang hình ảnh người chủ của nó, khắc khổ và buồn rầu. Những cái giá chất đầy sách xếp thẳng hàng, và trên bàn làm việc là một màn hình máy tính.
- Tất cả các bản thảo quý giá của chúng tôi đều được xếp vào một danh mục được các nhà bác học trên toàn thế giới tra cứu. Tôi đang xây dựng một thư viện truyền hình cho phép tra cứu sách qua Internet: cha có thể thấy là giờ đây cũng đã có rất ít người đến đây. Di chuyển để nghiên cứu một văn bản càng ngày càng trở nên vô ích.
“Và ông sẽ ngày càng cô đơn,” cha Nil nghĩ. Một khoảng lặng bao trùm lên họ và dường như Breczinsky không thể phá tan. Cuối cùng, ông cũng nói bằng một giọng ngập ngừng:
- Liệu tôi có thể hỏi mối quan hệ giữa cha và cha Andrei là như thế nào không?
- Tôi đã nói với cha rồi, chúng tôi là những đạo hữu trong một thời gian rất dài.
- Vâng, nhưng… cha có biết về công việc của cha ấy không?
- Chỉ một phần thôi. Tuy nhiên chúng tôi rất thân thiết, hơn nhiều so với mức độ thông thường giữa các thành viên trong một cộng đồng tôn giáo.
- À, cha đã…thân thiết với cha ấy?
Cha Nil không hiểu ông muốn đi đến đâu.
- Đối với tôi, cha Andrei là một người bạn rất thân thiết, chúng tôi không chỉ là đạo hữu trong tôn giáo mà còn là đôi bạn thân. Trong đời, tôi chưa từng chia sẻ nhiều như thế với bất kỳ ai.
- Vâng, Breczinsky thầm thì, dường như với tôi cũng vậy. Ấy thế mà khi cha đến đây, tôi đã nghĩ rằng…rằng cha là một trong những người cộng tác với Hồng y Catzinger! Điều đó làm thay đổi tất cả.
- Điều đó làm thay đổi cái gì, thưa cha?
Người Ba Lan nhắm mắt như đang tìm kiếm tận đáy sâu của con người mình một nguồn sức mạnh bên trong.
- Khi cha Andrei đến Roma, ông ấy đã muốn gặp tôi: chúng tôi trao đổi thư từ với nhau đã lâu mà chưa bao giờ gặp mặt. Khi nghe giọng tôi, ông ấy liền chuyển sang nói tiếng Ba Lan, thứ tiếng ông ấy rất thạo.
- Cha Andrei là người Xlavơ và nói được mười thứ tiếng.
- Tôi đã ngạc nhiên khi biết rằng gia đình Nga của ông ấy quê gốc ở Brest – Litovsk, trong tỉnh thuộc Ba Lan bị sáp nhập vào Liên bang Xô Viết năm 1920 và nằm giáp ranh với các vùng lãnh thổ thuộc quyền quản lý của Đức vào năm 1939. Vẫn luôn thuộc Ba Lan, mảnh đất tội nghiệp này không ngừng gợi lên lòng thèm muốn của người Nga và người Đức. Khi cha mẹ tôi cưới nhau, nó vẫn còn nằm dưới gót giày của người Xô Viết, họ bắt các kiều dân Nga đến sống ở đó.
- Cha sinh ra ở đâu?
- Trong một làng nhỏ gần Brest – Litovsk. Dân Ba Lan bản địa bị chính quyền Xô Viết đối xử rất hà khắc, họ khinh bỉ chúng tôi, một dân tộc bị chinh phục, hơn nữa lại còn theo Công giáo. Rồi bọn phát xít kéo đến, sau khi Hitler xâm chiếm Liên bang Xô Viết. Gia đình cha Andrei sống cạnh gia đình tôi, hai nhà chỉ cách nhau một hàng rào sơ sài. Họ đã bảo vệ cha mẹ tội nghiệp của tôi khỏi nỗi kinh hoàng hoành hành trong vùng biên giới này thời kỳ trước chiến tranh. Tóm lại, dưới chế độ phát xít, lúc đầu họ nuôi chúng tôi, sau đó che giấu chúng tôi. Không có họ, không có lòng hào hiệp được thể hiện hàng ngày và sự giúp đỡ quả cảm của họ, cha mẹ tôi hẳn đã không sống sót được và tôi có lẽ đã không ra đời. Trước khi mất, mẹ tôi đã bắt tôi thề không bao giờ được quên họ, con cháu họ và người thân của họ. Cha là bạn thân, là anh em của cha Andrei à? Những người anh em của cha ấy cũng là anh em của tôi, máu của tôi thuộc về họ. Tôi có thể giúp gì cho cha không ?
Cha Nil sững sờ và nhận ra rằng người Ba Lan đã dốc hết những tâm sự ông ấy có thể nói hôm nay. Trong hầm ngầm này ở thành phố Roma, những trận gió lớn của Lịch sử và của chiến tranh đã ngẫu nhiên đưa họ lại với nhau.
- Trước khi chết, cha Andrei đã viết lại trên một mảnh giấy nhỏ những điều ông ấy nuốn nói với tôi khi trở về. Tôi đã cố hiểu thông điệp của ông ấy và đang tiếp tục đi trên con đường của ông ấy đã mở ra trước tôi. Tôi khó có thể tự thuyết phục mình rằng cái chết của ông ấy không phải là ngẫu nhiên. Tôi chưa thể biết có phải người ta đã giết ông ấy thật không, nhưng tôi có cảm giác sau khi chết, ông ấy đã ủy nhiệm lại cho tôi cuộc tìm kiếm của mình, giống như mệnh lệnh về một nhiệm vụ mà người đã khuất để lại. Cha có hiểu điều đó không ?
- Tôi càng hiểu hơn vì ông ấy đã từng tâm sự với tôi những điều mà ông ấy có lẽ đã không nói với ai khác, kể cả cha. Chúng tôi đã phát hiện ra có chung một quá khứ, một tình cảm gần gũi phát sinh trong những hoàn cảnh đặc biệt đau buồn. Trong văn phòng này, bóng ma những con người vô cùng thân thiết của chúng tôi đã thức dậy, khắp người đầy máu và bùn. Một cú sốc đối với ông ấy cũng như với tôi. Chính điều này đã thúc đẩy tôi, hai ngày sau đó, làm giúp cha Andrei điều mà… mà lẽ ra tôi không bao giờ nên làm. Không bao giờ.
“Nil, cậu bé của tôi, nhẹ nhàng thôi, thật nhẹ nhàng với ông ấy. Hãy xua đuổi những bóng ma”.
- Ngay lúc này, tôi có một vấn đề cần giải quyết: tìm lại hai tài liệu tham khảo mà cha Andrei đã để lại, hai mã số Dewey ít nhiều đầy đủ về Giáo phụ. Nếu không tìm được trên Internet, tôi sẽ nhờ cha giúp đỡ. Cho đến giờ, tôi chưa dám nhờ đến ai: càng tiến xa thêm thì điều tôi phát hiện ra càng có vẻ nguy hiểm.
- Còn hơn là cha nghĩ nữa kia – Breczinsky đứng dậy, có ý kết thúc cuộc nói chuyện. Tôi nhắc lại với cha: bạn thân, anh em của cha Andrei là anh em của tôi. Nhưng cha phải hết sức cẩn thận: những điều đã nói ra giữa những bức tường này phải tuyệt đối chỉ riêng chúng ta biết với nhau thôi.
Cha Nil gật đầu và quay lại phòng làm việc. Leeland đã trở lại bàn, và bắt đầu trải một bản thảo dưới ngọn đèn. Ông liếc mắt nhìn bạn mình rồi cúi xuống, không nói một lời, tiếp tục chỉnh bản thảo, mặt tối sầm.