- Cố gắng thêm chút nữa, Peter, chúng đang bám gót chúng ta.
Esquieu de Floyran ôm ngang lưng người đồng hành của mình. Họ đang ở dưới chân một vách núi dốc đứng do những đám đá kết thành, trên đó có những đường mòn quanh co do bầy dê đi lại tạo nên. Thấp thoáng có những cái lỗ màu đen: lối vào các hang động tự nhiên nhô ra phía trên khoảng không.
Từ khi gặp nhau ở Vézelay ba năm trước đây, hai người không rời nhau ra nữa. Hừng hực nhiệt huyết sau khi nghe bài thuyết giáo của Thánh Bernard, họ đã khoác lên người chiếc áo lễ màu trắng có chữ thập đỏ và gia nhập cuộc Thập Tự Chinh lần thứ hai đến Palestine. Ở đó, trong dải Gaza, các Hiệp sĩ rơi vào bẫy của những người Thổ Nhĩ Kỳ thuộc đế chế Seldjoukide. Esquieu muốn thoát khỏi chiến lũy: dẫn đầu một đoàn khoảng mười lăm kỵ sĩ, giữa ban ngày anh vượt ra ngoài hòng đánh lạc hướng, và đương nhiên bị một số quân địch đang vây hãm đuổi theo. Trên đường chạy về phía Đông, những người đồng hành của anh lần lượt gục ngã. Bên cạnh anh chỉ còn lại Peter de Montbrison, người bạn trung thành
Đến bên bờ biển Chết, ngựa của họ quỵ ngã. Hai Hiệp sĩ nhảy qua một bức tường gỗ, và đi vào một vùng đổ nát vẫn còn mang dấu vết của một trận cháy khủng khiếp. Họ chạy qua một hồ chứa nước lớn đào trong đá, rồi đi dọc theo những con kênh dẫn nước tưới đổ về phía vách đá. Đó là lối thoát của họ
Đúng lúc họ ra khỏi vùng được cây che phủ, Peter thét lên một tiếng rồi ngã xuống. Khi người đồng hành của anh cúi xuống, một mũi tên xuyên qua bụng anh, ở chỗ thắt lưng.
- Để mặc tôi, Esquieu, tôi bị thương rồi!
Để mặc anh rơi vào tay chúng ư? Không bao giờ! Chúng ta sẽ trốn trong vách đá này, và sẽ thoát được nhờ bóng đêm. Có một ốc đảo ngay gần đây, ốc đảo Ein Feshka: đó là con đường về phía Tây, con đường thoát. Anh hãy dựa vào tôi, đây không phải là mũi tên đầu tiên anh bị trúng: lên trên kia chúng ta sẽ rút nó ra, và anh sẽ gặp lại nước Pháp cũng như đội quân của anh
Những lời lẽ sục sôi của Thánh Bernard vẫn văng vẳng bên tai anh: “Các kỵ sĩ của Christ dâng hiến cái chết một cách bình yên. Nếu anh ta chết, là tốt cho anh ta, nếu anh ta giết người, đó là vì Christ.”[[37]]. Nhưng lúc này, điều cần nhất là phải thoát khỏi nhóm người Thổ Nhĩ Kỳ điên cuồng
Allahou Akbar! Tiếng hét của chúng ở rất gần rồi. “Peter không thể trụ được nữa. Chúa ơi, hãy cứu chúng con!”
Người nọ dìu người kia, họ lách vào trong vách đá.
Họ dừng lại bên lối vào một hang đá, và Esquieu đưa mắt liếc nhìn xuống phía dưới: những kẻ đuổi theo hình như đã để mất dấu họ, và đang bàn bạc với nhau. Từ nơi họ đứng, anh có thể nhìn thấy không chỉ những đống đổ nát cháy đen họ vừa đi qua, mà cả vịnh nhỏ thuộc biển Chết đang ánh lên dưới mặt trời buổi sáng
Bên phải anh, Peter đang tựa mình vào vách đá, tái mét
- Anh phải nằm xuống, và tôi sẽ rút mũi tên ra. Lại đây, chúng ta phải lách vào lỗ hổng này, rồi chờ đến đêm
Lối vào hẹp đến nỗi họ phải đưa chân vào trước. Esquieu đỡ người đồng hành đang rên rỉ, người đầy máu. Kỳ lạ là bên trong hang khá sáng. Anh đặt người bị thương nằm xuống bên trái lối vào, đầu gối lên một thứ giống như là cái bát bằng đất nung nhô lên trên cát. Rồi bằng một động tác dứt khoát, anh rút mũi tên ra: Peter thét lên một tiếng và bất tỉnh
“Mũi tên đã xuyên từ bên này sang bên kia bụng, máu chảy nhiều quá: anh ấy hỏng rồi”
Anh nhỏ nốt những giọt nước cuối cùng trong mình vào môi người hấp hối. Rồi xem xét thung lũng phía dưới: bọn người Thổ vẫn ở đó, phải chờ đến lúc chúng đi khỏi. Nhưng có lẽ Peter sẽ chết trước lúc đó
Là người có học thức uyên bác, Esquieu đã tiếp nhận trên đất của mình một tu viện của các tu sĩ da trắng thuộc dòng tu mới do Thánh Bernard khởi lập. Anh dành thời gian rỗi để đọc các bản thảo tập hợp trong phòng viết của họ, và đã nghiên cứu y thuật của Gallien trong văn bản tiếng Hy Lạp: Peter vẫn đang chảy máu, máu tụ lại dưới thân thể anh thành một vũng sẫm màu. Có lẽ anh chỉ còn sống được khoảng một giờ nữa, hoặc ít hơn thế
Anh bối rối đưa mắt nhìn xuống nền đất trong hang. Dọc theo vách bên trái, những chiếc bát bằng đất nung nhô lên khỏi cát. Anh ngẫu nhiên nhấc chiếc thứ ba từ cửa vào lên: đó là một chiếc vại bằng đất, vẫn còn nguyên vẹn. Bên trong, anh nhìn thấy có cuộn vải dày được phủ dầu. Sát thành vại có một cuộn nhỏ hơn được xếp riêng ra. Anh nhấc nó ra không chút khó khăn. Đó là một mảnh giấy da còn tốt, được buộc lại chỉ bằng một sợi dây lanh mà anh dễ dàng tháo ra
Anh liếc nhìn Peter: anh này đang nằm bất động và thở một cách khó nhọc, gương mặt đã mang màu xỉn của những xác chết. “Bạn tội nghiệp của tôi… chết trên một vùng đất xa lạ thế này!”
Anh giở mảnh giấy da ra. Chữ viết trên đó là tiếng Hy Lạp, vẫn còn rất rõ ràng. Một lối viết thanh lịch, và anh dễ dàng nhận ra các từ ngữ: ngôn ngữ của các tông đồ
Anh lại gần lối ra, rồi bắt đầu đọc. Mắt anh mở to, và tay anh bắt đầu run nhè nhẹ
“Ta, môn đồ cưng của Jessus, tông đồ thứ mười ba, gửi đến tất cả các Giáo hội…” Tác giả nói rằng vào buổi tối diễn ra bữa ăn cuối cùng trong căn phòng lớn, họ không phải có mười hai, mà là mười ba tông đồ, và rằng tông đồ thứ mười ba chính là ông ta. Bằng những từ ngữ trang trọng, ông ta phản đối việc thần thánh hóa Jesus xứ Nazareth. Và khẳng định rằng Jesus không sống lại, mà sau khi chết đã được chuyển đến một nấm mồ, nấm mồ đó nằm ở…
- Peter, nhìn này! Một bức thư của tông đồ ở thời Jesus, bức thư của một trong số các tông đồ của Người…. Peter!
Đầu của anh bạn đã khẽ lệch ra khỏi chiếc bắt bằng đất úp trên chiếc vại đầu tiên trong hang. Bạn anh đã chết
Một giờ sau, Esquieu đưa ra quyết định: thân thể Peter sẽ ở lại đây để chờ đến thời điểm phục sinh cuối cùng. Nhưng bức thư này của một tông đồ của Jesus, bức thư mà anh chưa từng được nghe nói đến, anh phải tiết lộ nó với thế giới Cơ Đốc. Mang mảnh giấy da này theo là quá mạo hiểm: bị thời gian làm cho chai cứng, có thể nó sẽ nhanh chóng bị vỡ vụn ra. Và liệu tối nay anh có thoát khỏi tay đám người Hồi Giáo không? Anh có sống sót để đến được Gaza an toàn không? Bản gốc của bức thư sẽ ở lại hang đá này, nhưng anh sẽ chép ra một bản. Ngay lập tức
Anh kính cẩn lật xác bạn, cởi áo choàng và xé một mảnh lớn từ áo sơ mi của bạn. Rồi anh cẩn thận gọt một mẩu gỗ, đặt mảnh vải lên một phiến đá phẳng. Nhúng ngòi bút tự tạo vào vũng máu đang thấm đỏ nền đất. Và bắt đầu chép lại bức thư của tông đồ, như anh vẫn thường nhìn thấy mọi người làm trong phòng viết của tu viện
Mặt trời lặn sau vách đá Qumran. Esquieu đứng dậy: bức thư của tông đồ thứ mười ba giờ đã được chép lại bằng máu trên áo sơ mi của Peter. Anh cuộn mảnh giấy da, buộc lại bằng sợi dây lanh và cẩn thận đặt lại vào chiếc vại thứ ba – cố gắng để nó không chạm vào cuốn vải phủ dầu. Đậy lại nắp vại, cẩn thận gập bản sao vừa hoàn thành rồi luồn vào thắt lưng
Từ cửa hang, anh đưa mắt nhìn xuống dưới: bọn người Thổ đã giảm xuống chỉ còn một nửa. chỉ có một mình, có lẽ anh sẽ thoát được chúng. Anh phải chờ đến đêm, và chạy qua khu đồn điền của Ein Fesskha. Có lẽ anh sẽ thành công.
Hai tháng sau, một chếc thuyền buồm có đóng dấu chữ thập đỏ vượt qua lạch cảng Saint-Jean-d’Acre, và hướng mũi về phía Tây. Đứng trên mũi thuyền, một kỵ sĩ dòng Đền mặc áo choàng trắng đưa mắt nhìn lần cuối về phía đất nước của Christ
Anh bỏ lại phía sau thi thể người bạn tốt nhất. Trong một cái hang nhô ra phía trên Qumran có chứa hàng chục chiếc vại đựng đầy những cuộn vải lạ lùng. Ngay khi có thể, anh phải quay lại đó. Để lấy lại mảnh giấy da trong chiếc vại thứ ba, ở bên trái lối vào, và mang nó về Pháp, với tất cả sự cẩn trọng xứng đáng với một tài liệu thiêng liêng như vậy
Cái chết của Peter hẳn sẽ không vô ích: bản sao một bức thư của tông đồ mà chưa bao giờ có ai nghe nói đến, anh sẽ trao lại cho Giáo chủ của dòng Đền, Robert de Craon. Nội dung của nó có thể sẽ làm thay đổi bộ mặt thế giới. Và sẽ chứng tỏ với mọi người rằng các Hiệp sĩ dòng Đền đã đúng khi bác bỏ Christ, nhưng lại say mê Jesus
Khi đến Paris, Esquieu de Flyran yêu cầu được gặp riêng Robert de Craon. Trước mặt ông, anh rút từ thắt lưng ra một cuộn vải phủ đầy chữ màu hạt dẻ sẫm, và đưa nó cho Giáo chủ dòng Đền. người thứ hai giữ chức vị này
Không nói một lời, Giáo chủ trải tấm vải ra. Vẫn im lặng, ông đọc văn bản được viết lại rất rõ ràng. Ông nghiêm khắc bắt Esquieu phải thề giữ bí mật, trên máu của người anh em và cũng là bạn của anh, và để anh ra về chỉ với một cái gật đầu
Robert de Craon ở một mình cả tối và đêm trước mặt bàn trên đó có mảnh vải phủ đầy máu một người anh em của ông. Vết máu tạo nên những dòng chữ không thể tin nổi, những dòng chữ có khả năng gây đảo lộn nhất mà ông từng đọc
Ngày hôm sau, vẻ mặt nghiêm trang, ông cho gửi đến các Hiệp sĩ dòng Đền trên khắp châu Âu một lệnh triệu tập bất thường. Không ai trong số các anh em thuộc hội đồng thầy tu, quan án hoặc trưởng tu viện, từ những người được lấy tên đặt cho các pháo đài nổi tiếng cho đến những quân lộc nhỏ nhất, được vắng mặt trong cuộc họp toàn thể này
Không một ai.