“Con đừng nghĩ linh tinh. Bọn họ làm vậy chủ yếu là để bảo vệ con. Lúc con lên năm, mẹ con từng nhìn thấy cảnh con bị người ta đuổi giết thông qua Tinh cầu Tiên tri, từ đó bà ấy bị ám ảnh và có phần bảo hộ quá mức.”
Trông thấy ánh mắt sợ hãi của tôi, lão thêm vào. “Thật ra Tiên tri không phải thứ tuyệt đối, không hoàn toàn chính xác. Chỉ cần chút thay đổi ở hành vi hiện tại cũng có thể dẫn đến kết quả khác trong tương lai. Nếu điều tiên đoán là bất biến thì thuật Tiên tri coi như vô dụng. Sở dĩ người ta cần đến nó là để biết trước chuyện chưa xảy ra và xem xét điều chỉnh hành động để đạt được mục đích mong muốn. Nó giống như mê cung với hàng vạn lối đi khác nhau, mỗi con đường dẫn tới một đích đến riêng biệt, hoặc có khi chính là cái đích ban đầu.”
Kì thực tôi không quá tin tưởng vào thuật Tiên tri, vốn dĩ cho rằng nó rất mơ hồ, về sau trải qua nhiều lần kiểm chứng mới nhận thấy nó là lĩnh vực vi diệu tới nhường nào.
Trong tủ thuốc có vài loại dược liệu gần hết nên tôi cùng Thu Thủy ra ngoài mua thêm. Sói Tuyết tí tởn làm cái đuôi xù bám theo chúng tôi, hẳn là nó đã phát ngán với khoảng không gian chật hẹp đi từ căn phòng nọ sang căn phòng kia. Cái không khí náo nhiệt nơi phố phường tuy ồn ào nhưng khiến lòng người phấn chấn. Trên đường đi, chúng tôi tiện thể ghé qua các sạp hàng mua mấy thứ đồ hay ho. Đang lúc ngang qua tiệm bánh ngọt, từ xa bỗng vọng lại tiếng phụ nữ khóc nức nở. Chúng tôi lần theo hướng âm thanh phát ra, tìm đến ngôi nhà lớn với cổng mái vòm cuốn đầy dây leo nằm sâu trong con ngõ. Người phụ nữ đang đứng bên cửa mất bình tĩnh kéo tay người đàn ông, giọng nói đứt đoạn.
“Y sư, cứu con ta… Xin hãy cứu nó… Hết bao nhiêu tiền cũng được. Chỉ cần…”
“Xin lỗi.” Người đàn ông nóng nảy ngắt lời. “Con trai ngươi chết rồi. Người chết không thể sống lại.” Ông ta vừa nói vừa dùng sức rút tay lại, rảo bước thật nhanh về phía cổng rồi biến mất.
Thu Thủy vỗ vai tôi. “Đi! Chúng ta vào xem thế nào.”
Người phụ nữ vẫn thẫn thờ đứng trước thềm nhà. Mái tóc dài hơi rối của bà xõa tung như những ngọn cỏ khô héo. Bà giương đôi mắt đỏ hoe nhìn chúng tôi nghi hoặc.
“Các người là ai?”
“Ta là y sư.” Thu Thủy điềm đạm trả lời.
“Y sư?” Bà ta máy móc lặp lại, chợt tỉnh ngộ. “Ngươi thật là y sư sao? Mau! Mau vào xem con trai ta. Xin ngươi cứu nó!”
Chúng tôi lẳng lặng theo bà bước vào căn phòng cuối nhà. Trong không khí không ngập tràn mùi thuốc như tôi tưởng tượng. Trên chiếc giường đơn có một thanh niên trẻ đang nằm, hai mắt khép hờ và làn da không quá nhợt nhạt nhưng đã mất đi độ ấm. Hắn nằm trong tư thế tay chân duỗi thẳng, vẻ mặt yên bình tựa hồ đang chìm trong mộng đẹp.
Thu Thủy ngồi xuống chiếc ghế bên giường, thuần thục bắt mạch và kiểm tra một số vị trí trọng yếu trên đầu. Tôi đứng cạnh người phụ nữ giữa không gian lặng ngắt như tờ, bị lây cả sự căng thẳng của bà. Trông thấy Thu Thủy cau mày, khuôn mặt bà ta dường như tái thêm vài phần.
“Ta rất tiếc.” Thu Thủy cẩn thận liếc qua người phụ nữ, nói giọng rành mạch. “Con trai bà quả thực đã chết, vô phương cứu chữa.”
“Không thể nào.” Đôi môi bà run rẩy. “Mới hôm qua nó còn khỏe mạnh cùng đám bạn vào rừng. Tại sao tất cả những người khác đều không việc gì mà chỉ mình nó thành ra thế này? Tại sao… ông trời bất công như thế?”
Tiếng nói nghẹn lại trong cổ họng. Người phụ nữ lảo đảo tiến về phía con mình, ngồi sụp xuống. Thu Thủy đưa mắt nhìn tôi ra hiệu. Chúng tôi an ủi bà mấy câu rồi khẽ khàng rời đi, nhưng có lẽ chẳng âm thanh nào lọt vào tai bà hiện giờ.
“Hắn thật sự đã chết sao?” Tôi dừng bước chân. Ngõ nhỏ vắng tanh không một bóng người. “Thật kì lạ! Thoạt nhìn chỉ như người bình thường đang ngủ.”
Thu Thủy không vội trả lời mà thận trọng nhìn trước ngó sau, kế tiếp tạo kết giới bao quanh chúng tôi để đảm bảo người khác không nghe lén rồi mới nói. “Hắn không trúng độc, không bị thương, ngay cả vết máu chảy cũng chẳng thấy. Thế nhưng hắn đã chết vì không còn linh hồn.”
“Cái gì?” Tôi kinh hãi. “Sao tự dưng lại mất linh hồn?”
Giọng nàng trở nên nghiêm nghị. “Ta đoán là tà thuật. Chỉ loại phép thuật tàn độc ấy mới có thể rút đi linh hồn mà không để lại bất kì vết tích nào.”
“Tà thuật chẳng phải từ lâu đã bị cấm sao?” Tôi nhíu mày.
“Bị cấm không có nghĩa là biến mất, bằng cách này hay cách khác, vẫn có nhiều kẻ ngấm ngầm lưu truyền và tu luyện. Chúng bỏ qua mọi giá trị đạo đức để đạt được sức mạnh một cách nhanh chóng, đồng thời che đậy đủ khôn khéo để khỏi bị tống giam. Đó là những kẻ tham vọng bào mòn nhân tâm.”
“Chờ đã, sử dụng tà thuật cũng coi như là hành vi nguy hiểm. Nếu đơn thuần chỉ muốn giết người thì hẳn nên dùng phép thuật thông thường.”
“Đúng vậy. Rất có khả năng cướp linh hồn mới là mục đích thật sự của tên sát nhân. Có một loại pháp khí tên gọi Tam Giác Hồn, chuyên dùng để lưu giữ những linh hồn vừa rời bỏ cơ thể, chính cha ta đã sử dụng nó để bảo vệ linh hồn mẹ ta khỏi tan biến.”
Tôi nghiêng đầu suy nghĩ. Trong trí óc hiện lên hình ảnh chàng thanh niên nằm bất động không chút thương tổn, chợt lóe lên hi vọng. “Cơ thể người kia hoàn toàn nguyên vẹn. Nếu tìm lại được linh hồn bị đánh cắp thì có cơ may cứu sống không?” Lão Trần từng nhắc đến một loại phép thuật gọi là Di hồn nhập thể mà chính bản thân tôi đã nghiệm qua. Nó cho phép tách riêng rẽ linh hồn và thể xác rồi sau đó nhập lại.
“Không được.” Thu Thủy vươn tay đón chiếc lá vàng vừa rụng xuống, xỉn màu, héo úa. “Trong y học có một liệu pháp chữa bệnh đặc biệt, tên gọi Di hồn nhập thể. Người ta sẽ tách linh hồn ra khỏi thân xác rồi đưa vào Tam Giác Hồn để bảo vệ, còn thân thể được chữa trị theo chu trình băng nhằm phục hồi các thương tổn. Nghe qua có vẻ đơn giản nhưng trên thực tế các y sư rất hiếm sử dụng, bởi nó chẳng mấy khả thi. Thứ nhất, chu trình băng là quá trình chữa lành cực kì phức tạp. Việc điều trị cho cơ thể “chết” hiển nhiên khó khăn hơn nhiều so với cơ thể sống thông thường, đa phần không thể chữa khỏi hoàn toàn các vết thương hay tiêu trừ hết mầm bệnh. Đây cũng là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hạn chế thứ hai: linh hồn không dung nhập được vào cơ thể ban đầu. Việc tách hồn khỏi xác là điều không quá khó để thực hiện, nhưng đưa nó trở lại sau quá trình trị liệu thì gần như bất khả thi. Vì thân thể chưa hết bệnh hoàn toàn nên chẳng thể cùng linh hồn hợp nhất, cũng giống như việc tổn thương quá nặng khiến con người chết đi, hồn lìa khỏi xác. Trừ phi cả thể xác và linh hồn đều khỏe mạnh thì tỷ lệ thành công cao hơn. Mà tình trạng sức khỏe tốt thì người ta chẳng có lý do gì để mạo hiểm làm thuật này. Nhưng điều trọng yếu của bất cứ phương thức Di hồn nhập thể nào, chính là một phần hồn nằm lại cơ thể.”
“Một phần hồn?” Tôi sửng sốt.
“Đúng thế.” Thu Thủy nghiêm túc gật đầu. “Hãy tưởng tượng nó giống như một mốc đánh dấu, một điểm kết nối, hay một vật trung gian để đưa linh hồn hòa nhập với cơ thể ban đầu. Thiếu nó là mất đi toàn bộ liên kết.”
“Ta hiểu rồi. Tức là người kia không có phần hồn nằm lại cơ thể, nên dù có tìm được linh hồn cũng không cách nào đưa chúng hòa làm một.”
Thu Thủy thở dài. “Chỉ tội cho mẹ hắn, phải đón nhận cái chết không rõ nguyên do của con trai, cũng chẳng thể điều tra khi không hề có dấu hiệu hay chứng cứ. Thật quá đỗi oan ức.”
“Thế giới vốn dĩ không công bằng.” Tôi lắc đầu. “Nhưng thật ra công bằng cũng chỉ là một khái niệm tương đối mà thôi.”
Thu Thủy vung tay hóa giải kết giới. Chúng tôi tiếp tục đi hết con ngõ ra tới đường lớn, vừa đi nàng vừa kể. “Khi mẹ ta mang thai, cha ta đã lường trước kết cục của bà ấy. Vậy nên linh hồn vừa thoát ra ông đã kịp thời giữ lại và tách một phần hồn đặt trong cơ thể. Hàng trăm năm qua ông không ngừng tìm kiếm dược liệu, hao tâm tổn sức điều dưỡng một thân xác đã chết, cho đến tận bây giờ, việc quan trọng nhất là đưa linh hồn trở lại thì chưa có cách nào vẹn toàn.”
Cố tình làm trái quy luật tự nhiên là phải chấp nhận đánh đổi, tôi nhủ thầm, có khi cái giá đắt tới không ngờ.
Thu Thủy đưa tôi đến khu chế dược nằm ở ngoại thành. Nơi này thuộc sở hữu của một gia tộc giàu có, chuyên sơ chế và phân phối dược liệu trên khắp vương quốc. Tuy nhiên, tiền tài của họ chủ yếu đến từ việc luyện thuốc và bán thành phẩm. Không chỉ riêng quốc gia này mà còn ở hầu hết các nơi khác, hai ngành nghề hấp dẫn nhất là chế tạo vũ khí và luyện dược, đa phần rơi vào tay một số gia tộc lớn nhất định, giúp họ trở nên giàu có chẳng thua kém gì tầng lớp quý tộc. Những loại hàng hóa đặc thù ấy không thể dùng phép thuật biến ra mà phải mua bằng tiền.
Việc sản xuất chúng đòi hỏi rất nhiều yếu tố, bao gồm: kỹ thuật tinh tế và tài năng của người làm, khoản vốn lớn cho nguyên liệu cùng với những công thức bí mật chỉ lưu hành nội bộ gia đình. Phần lớn y sư chữa bệnh nhưng không thể luyện thuốc. Trường hợp hội tụ cả hai năng lực như thần y Việt Thanh tương đối hiếm. Thường những người có tài như thế sẽ được các gia tộc lôi kéo, thông qua một vài cách thức ví như hôn nhân để trở thành người trong gia tộc, nhờ đó họ giảm bớt đối thủ tiềm năng và tiếp tục đứng vững trên thương trường. Quả nhiên, độc quyền đi liền với lợi nhuận.
Thu Thủy là khách quen nên được dẫn vào kho dược liệu để tự do lựa chọn, còn tôi vật vờ đợi bên ngoài. Quang cảnh ở đây rất đẹp. Thảm cỏ xanh mơn mởn phủ lên khu đất rộng sắc màu hoang dại. Những loài hoa khác nhau được trồng thành cụm bao quanh ngôi nhà. Gần đó có con sông vắt qua, dòng nước trong nhuộm màu cây lá, bên trên lác đác mấy chiếc lá vàng lềnh bềnh như những con thuyền bé xíu. Phía kia sông là cánh rừng rộng lớn. Nó rậm rạp và có vẻ âm trầm hơn rừng thủy trúc tôi từng ở.
Đang mải mê chiêm ngưỡng cảnh sắc, chợt bóng người thình lình đứng cạnh khiến tôi giật mình. Người đàn ông mặc trang phục giống hệt người tiếp đón Thu Thủy vừa nãy, có lẽ cũng là người nơi đây. Tuy nhiên, ánh mắt ẩn chứa điều gì đó bất thường khiến tôi không thoải mái.
Hắn mở miệng trước khi tôi kịp lên tiếng. “Chủ nhân ta đang chờ ngươi. Hãy theo ta đến gặp ngài.”
Tôi ngỡ ngàng. “Chủ nhân ngươi là ai?”
Hắn đáp lập lờ. “Gặp rồi sẽ biết.” Sau đó quay người đi trước dẫn đường. Tôi chần chừ nhìn về phía kho thuốc, thấy Thu Thủy vẫn chưa có dấu hiệu đi ra, bản tính tò mò trỗi dậy thôi thúc đôi chân rảo bước theo kẻ lạ mặt. Xác định phương hướng hắn đang tiến đến, tôi nghi hoặc hỏi. “Chủ nhân ngươi đang ở trong rừng?”
Thật quái đản! Tôi nghĩ thầm. Theo lẽ thường việc gặp mặt nên diễn ra trong phòng khách với tách trà nghi ngút khói, đằng này phải vào tận rừng sâu heo hút, càng đi càng thấy mùi mờ ám.
Tên kia không trả lời mà vẫn di chuyển đều đều. Tôi theo phản xạ tăng tốc để đuổi kịp hắn. Cho dù đang là ban ngày mặt trời và chói lọi trên đỉnh đầu, nắng xuyên qua các tán lá rậm rạp chỉ còn là chùm sáng nhỏ đan xen bóng râm chồng chất. Tôi thấy lành lạnh, không phải do nhiệt độ mà bởi cảm giác bất an mơ hồ, rốt cuộc dứt khoát dừng lại. Sói Tuyết đứng bên cạnh dáo dác ngó xunh quanh. Các bóng đằng trước chầm chậm xoay người. Mắt tôi mở lớn, khuôn mặt người đàn ông đã được thay thế bằng mặt nạ đen in hình đầu lâu xương chéo trắng hếu. Trang phục của hắn cũng đổi thành bộ đồ đen thui với chiếc áo choàng có mũ trùm kín đầu, đuôi dài chấm đất. Kiềm chế nỗi bất an mỗi lúc một dâng cao, tôi cố giữ giọng điệu bình tĩnh.
“Ngươi theo dõi ta?”
Trên cả quãng đường tới khu chế dược, tôi đã cảm giác là lạ, tựa như có ánh mắt đang theo dõi mình. Khi hỏi Thu Thủy, nàng lắc đầu bảo chẳng thấy gì, thậm chí còn trêu đùa. “Phải chăng có linh hồn vất vưởng nào đấy bị sắc đẹp của ngươi quyến rũ nên một mực bám theo.”
Nghe nàng phủ nhận, tôi cũng không nghĩ thêm, cho rằng mấy thông tin vừa tiếp nhận xoay quanh phép Di hồn nhập thể khiến mình đâm ra hoang tưởng. Hiển nhiên, vừa chứng kiến cái chết của người khác, cảm xúc vẫn chưa thể ổn định. Hiện giờ tôi mới tính đến khả năng kẻ bịt mặt vẫn ngầm bám theo mình từ lúc ấy, có thể hắn dùng phép Tàng hình nên Thu Thủy không nhận ra.
“Ngươi muốn gì?” Thái độ im lặng của hắn khiến tôi hơi bực bội. Ngay giây tiếp theo hắn dùng hành động đáp trả. Tôi hoảng hốt né qua một bên, vừa hay tránh được tia sáng bắn tới. Trong tay hắn xuất hiện sợi xích sắt màu đồng với quả cầu gai gắn ở đuôi. Hắn dùng thứ pháp khí này trực tiếp tấn công tôi, mục đích đã quá rõ ràng.
“Tại sao muốn giết ta?” Tôi vừa né tránh vừa quát lớn. “Ngươi là ai? Ta có thù oán gì với ngươi mà mới gặp đã giết?”
Đáp lại tôi chỉ là ánh mắt sắc lạnh như lưỡi dao. Tôi kinh ngạc thấy mình hôm nay đặc biệt nhạy bén, giác quan thứ sáu cơ hồ phát huy tiềm lực tích trữ suốt mấy chục năm qua. Nó giúp tôi phán đoán chính xác hướng tấn công của tên kia để kịp thời tránh đi, nhưng cũng chỉ được mấy lần đầu, bởi tốc độ của người bình thường không thể sánh kịp tốc độ của tia sáng phép thuật, cho dù đã biết trước đích đến của nó.
Tôi thậm chí không có chút thời gian hở để xoay người bỏ chạy. Khi tôi ngã xuống để tránh một đòn tấn công, tia sáng khác đã lao đến tựa mũi tên tử thần. Sói Tuyết kịp thời biến ra tấm chắn sáng cản lại. Động vật không có năng lực tạo lập kết giới như con người. Các tia sáng bị tấm khiên bảo vệ vô hình của Sói Tuyết làm cho tiêu biến, cái sau tiếp nối cái trước dồn dập. Tên sát thủ vẫn giữ vẻ ung dung như đang chơi trò mèo vờn chuột, có lẽ hắn đã nhận ra tôi không có phép thuật, sớm hay muộn cũng phải buông tay chịu chết. Tôi thử dùng bùa Dịch chuyển để chạy trốn như lần trước, nhưng vô dụng. Ngay lập tức tôi nhận ra, kết giới hắn thiết lập khiến lá bùa bị hạn chế và tôi cũng chẳng cách nào thoát khỏi khu vực này.
Qua khoảng thời gian ngắn, tấm chắn sáng Sói Tuyết tạo ra đã trở nên vô cùng yếu ớt, linh lực của nó bị tiêu hao nhanh chóng. Hiển nhiên nó mới chỉ là con sói chưa trưởng thành và thời gian tu luyện chưa nhiều. Khoảnh khắc tấm chắn sáng bị phá vỡ, tôi cố sức đẩy nó sang một bên trong sự tuyệt vọng chấp nhận số mệnh. Mục tiêu của tên sát nhân là tôi, hi vọng hắn có thể buông tha cho Sói Tuyết chạy trốn. Điều mẹ tôi tiên tri nay đã trở thành sự thật. Chưa bao giờ tôi khát khao linh lực đến thế. Tôi hận sự vô dụng của bản thân, hận cái cảm giác bất lực một chiêu cũng chẳng thể chống đỡ.
Đột nhiên trong tích tắc ngắn ngủi, một nguồn năng lượng từ đâu xuất hiện chạy loạn khắp cơ thể như núi lửa chực phun trào. Nó hóa thành kết giới bảo vệ tôi khỏi sự tấn công kế tiếp. Ngay sau đấy, chân tay tôi bủn rủn ngã vật xuống đất tựa hồ đã trút ra tất cả sức lực cuối cùng. Mắt tôi vẫn trừng lớn. Khuôn mặt dưới lớp mặt nạ đang nhếch môi cười đắc thắng, chậm rãi nhấm nháp vị khoái trá trước động tác giẫy giụa cuối cùng của con mồi.
Bỗng có luồng sáng từ trên lao xuống va thẳng vào bụng hắn, đẩy hắn lảo đảo lùi về sau mấy bước. Tà váy xanh phất phơ giữa không trung che khuất tầm nhìn. Tôi ngỡ ngàng thấy quanh mình vừa xuất hiện một bảo quang. Khác với kết giới có thể hóa giải để xâm nhập, bảo quang bắt buộc phải phá vỡ. Nó bền vững hơn nên dĩ nhiên tiêu tốn nhiều linh lực hơn để tạo lập, thường chỉ ở phạm vi quanh người. Nó trong suốt và có màu như bong bóng xà phòng, còn kết giới thì vô hình. Những tia sáng đánh về phía tôi đều bị bảo quang cản lại. Cách đó không xa, hai người đang giao tranh kịch liệt, động tác nhanh như chớp. Thế rồi tên áo đen xoay lưng bỏ chạy. Thoáng thấy cô gái định đuổi theo hắn, tôi thảng thốt gọi lớn. “Lam Hương!”
Nàng khựng lại chốc lát, ngoảnh đầu nhìn tôi, miệng mấp máy không thành tiếng. Tôi đọc khẩu hình dịch ra hai chữ “Xin lỗi.” Bọn họ đều đã biến thành những chấm đen mất hút.
Tôi không hiểu, rõ ràng chính nàng vừa cứu tôi, vì sao phải xin lỗi? Mỗi lần gặp đều ngắn ngủi, vội vã. Chúng tôi lướt qua nhau chớp nhoáng như hai kẻ xa lạ, cho dù sự thực chẳng phải thế. Nàng không che mặt. Tôi liếc mắt đã nhận ra đó là người chỉ tôi cách liên lạc với thần y Việt Thanh. Khi nghe tôi miêu tả, lão Trần liền khẳng định. “Hẳn là Lam Hương.” Cũng giống như lão, nàng từng là học trò của mẹ tôi và sống với gia đình tôi một thời gian. Khi tôi mới được mấy tuổi, nàng đã rời đi vì mâu thuẫn. Đó là chuyện riêng giữa mẹ tôi và nàng mà ngay cả lão Trần cũng không biết cụ thể. Lão chỉ lờ mờ đoán rằng mẹ tôi phản đối chuyện nàng giữ liên lạc với một người, còn nàng lại bỏ đi theo người đó trăm năm qua chưa từng trở về. Nay vô tình gặp mặt, nàng không ngần ngại giúp tôi nhưng cũng chẳng tỏ vẻ gì muốn kết thân. Tâm tư con người thật phức tạp.
Chẳng mấy khi tôi mặc đồ trắng, mặc dù tôi rất thích và cho rằng đó là sắc màu cực kì thuần khiết, tao nhã. Lý do rất đơn giản, tôi sợ bẩn, đã thế còn không có phép thuật tẩy sạch bất cứ lúc nào như người ta, chỉ đành ngắm từ xa trong lòng nhức nhối. Được mỗi hôm nay tôi nổi hứng diện nguyên chiếc váy trắng toát ra ngoài, lăn lộn một vòng biến thành màu cháo lòng. Đuôi váy nham nhở, chỗ thì bị cháy sém, chỗ thì rách tả tơi như bị đàn chuột vây quanh gặm nhấm. Tóc tai rũ rượi, mặt mày lem luốc. Tôi mang theo bộ dạng lếch thếch cố lết ra khỏi rừng. Bảo quang chỉ có hiệu lực trong phạm vi nhất định, khi người tạo lập đã đi xa, nó tự nhiên sẽ biến mất.
Thu Thủy đang đảo mắt khắp nơi tìm người, vừa trông thấy tôi liền cuống quýt chạy tới, lo lắng hỏi. “Đã xảy ra chuyện gì? Sao ngươi biến thành thế này?”
Tôi xua tay. “Không có gì. Bị chó dại đuổi cắn mà thôi.”
“Chó dại?” Nàng nghi hoặc liếc qua Sói Tuyết.
“Không phải nó. Nó là sói.” Giọng tôi thều thào như sắp chết. Chân không chịu nổi sức nặng của cơ thể khuỵu xuống. Trước lúc ngất lịm, tôi cảm giác được Thu Thủy cầm tay mình bắt mạch rồi vui sướng reo lên. “Linh lực! Ngươi không phải người Vô linh. Linh lực của ngươi đã bộc lộ.” Bấy giờ tôi mới mãn nguyện thiếp đi, chẳng còn biết gì nữa.