Lại nhắc tới chuyện Mạnh Tiểu Kinh lên Bắc Kinh phỏng vấn. Cuộc chiến thi cử ở Học viện Hý kịch Trung ương đến là dai dẳng, đầu tiên phải xác nhận danh tính thí sinh tham gia, sau đó phỏng vấn liên tiếp mấy lượt. Mạnh Tiểu Kinh ở Bắc Kinh chờ đợi gần một tháng, cũng không quay về Tây An, như thể đánh một canh bạc, sẵn sàng trả giá hết thảy để đạt được thành công.
Trong một tháng trời Mạnh Tiểu Kinh ở Bắc Kinh, Nhiếp Hủy đi đi về về mấy chuyến, học cũng không xong chỉ lo dõi theo chuyện thi cử của Mạnh Tiểu Kinh.
Khi cô út nằm trong bệnh viện, bà nội Mạnh còn càm ràm không thôi: “Đúng là hết chuyện này đến chuyện khác phải lo, thằng lớn vừa đi thì thằng hai đã lại tới, Kịnh Kịnh đến nhà tao ở, tao còn phải lo liệu tiếp đón nó kìa. Tao phải giặt quần áo, nấu cơm rồi lo liệu chăm nom cho nó nữa, chứ đường xa tới đây thi cử nào có dễ đâu… Dù thế nào tao cũng mong nó thi đỗ lắm chớ!”
Bà nội ấy à, ngoài miệng thì suốt ngày ghét bỏ nhưng thực ra rất quan tâm chịu khó, còn cố gắng tranh thủ thời gian về nhà dọn dẹp phòng nhỏ, giặt ga giường thật sạch sẽ, bởi sợ thằng cháu thứ chê nhà bà lạc hậu quê mùa, không đủ phong cách hiện đại nên còn chú ý đổi đôi vỏ gối thêu hoa mới. Rồi thì còn đặc biệt đun cách thủy một nồi cá, hấp một lồng bánh bao to, đợi Mạnh Tiểu Kinh đến Bắc Kinh ghé ở.
Ấy thế mà, Mạnh Tiểu Kinh đến Bắc Kinh lại chẳng muốn ở nhà bà nội.
Mạnh Tiểu Kinh đưa bạn gái cậu – Nhiếp Hủy đến cổng, dùng giọng điệu thản nhiên thờ ơ chào hỏi ông bà nội vài câu. Nhiếp Hủy cao gầy, da trắng nõn nà, quả đúng là mỹ nữ đẹp như hoa, đứng ở cổng mà tỏa sáng rực rỡ, khiến cho tất cả mọi người trong nhà sáng cả mắt, như thể rồng đến nhà tôm, cảm giác cả ngôi nhà nghèo hèn sang hẳn lên. Mỹ nữ mà ở trong đám người thường, sẽ tự động phát sáng. Lúc đó bà nội Mạnh ngơ ngẩn nhìn, cuộc đời bà chân lấm tay bùn, từ trước tới nay nào đã thấy được người đẹp như vậy. Căn nhà nghèo nàn đơn sơ rách nát, quả thật không xứng với con gái ngọc ngà nhà người ta.
Mạnh Tiểu Kinh và Nhiếp Hủy đứng ở cửa khu nhà, cũng chẳng thèm nói dài dòng, được vài câu là quảy người đi luôn.
Lần gặp này quả thực khiến bà nội Mạnh giận điên. Lúc ấy, có một loại cảm giác thất bại bùng lên, mất hết mặt mũi tự tôn, giống như bị người ta vả một phát thật đau vào mặt!
“Tao đã dọn dẹp thu xếp cẩn thận giường chiếu đâu vào đấy, nấu cơm ngon lành đợi nó, ấy vậy mà hai đứa nó tay không đến, phòng cũng chẳng thèm vào ngó lấy một cái, gọi một câu ông bà rồi quảy đít đi luôn, còn dắt theo cả đứa con gái đó đến chỗ khác ở! Vậy hai đứa nó ở khách sạn chắc?!”
“Nó mới có nhiêu tuổi, hẵng còn chưa lấy nhau mà đã như vậy, đi khách sạn thuê phòng, thế có khác nào phường lưu manh vô lại đâu! Chúng ta là loại người không đứng đắn như vậy sao?”
Thiên kim tiểu thư nhà lãnh đạo tỉnh, lại còn là con gái một. Mạnh Tiểu Kinh quả là có bản lĩnh, làm sao mà nó quen được con bé đó, làm sao mà với được tới kiểu gia đình ấy?
Bà nội Mạnh tức đến nỗi không giữ nổi cái sàng bột ngô, vung một cái rơi đầy đất, tức nghẹn cả lòng, canh cánh không yên. Tâm tình nỗi lòng này của bà Mạnh quả thật cũng dễ hiểu. Bà nội Mạnh là chủ gia đình, chuyện gì trong nhà bà cũng phải quan tâm để mắt. Mặc dù rõ ràng bà không quá yêu thương Mạnh Tiểu Kinh, nhưng dẫu sao bà vẫn coi Tiểu Kinh như cháu của mình. Một đứa cháu lặn lội từ vùng đồi núi hẻo lánh tới đây, lên Bắc Kinh đi thi, thể nào chẳng phải nhờ vả, dựa dẫm vào họ hàng người lớn trong nhà, vậy nên dù vất vả nhưng bà vẫn muốn quan tâm chăm sóc, bảo vệ cho thằng cháu nhà mình, thật lòng muốn giúp Tiểu Kinh. Ấy vậy mà Mạnh Tiểu Kinh chẳng nói chẳng rằng vượt mặt bà. Sau lưng có người giúp đỡ, vênh váo kiêu ngạo, chẳng coi bà nội ra gì, gạt hẳn bà sang bên.
Nhiếp Hủy đến Bắc Kinh, tất nhiên sẽ không ở nhà bà nội, mà sẽ dựa vào quan hệ để ở khách sạn của văn phòng chính phủ hành chính Bắc Kinh, tự mình bỏ tiền, để Mạnh Tiểu Kinh cùng ở.
Chẳng mấy chốc mà tất cả họ hàng, người thân của Mạnh Tiểu Kinh ở Bắc Kinh đều biết cậu quen với đứa con gái có tiền. Ai cũng lời ra tiếng vào, khó tránh những lời bình luận, gièm pha sau lưng.
Khi ấy, Mạnh Tiểu Kinh làm như vậy chẳng khác nào đẩy bản thân vào con đường cùng. Cậu không còn đường lui, nếu lần này lên Bắc Kinh thi Hý kịch Bắc Kinh, lỡ mà thi rớt, gẫy cánh trở về, sau này khỏi cần nghĩ tới chuyện đến đây làm gì nữa, còn mặt mũi đâu mà gặp người thân ở Bắc Kinh?
Về sau nghe nói, năm đó, người đăng ký thi khoa diễn xuất lên tới mấy nghìn người, nhưng số người được tuyển cuối cùng chỉ có bốn mươi người. Những thí sinh năm ấy, có rất nhiều người là thí sinh trường nghệ thuật, có nền tảng vững chắc. Cứ dựa theo số lượng trường nghệ thuật trong các tỉnh tính toán, mỗi tỉnh có 3 trường nghệ thuật, mỗi năm mỗi trường có 20 thí sinh tốt nghiệp, vậy là toàn quốc 30 tỉnh có 1800 thí sinh tốt nghiệp. Đây là còn chưa kể những trường vũ đạo, ca nhạc, tất cả những thí sinh này đều đã trải qua 3 năm học tập chuyên nghiệp, những người tốt nghiệp đều là trai tài gái sắc. Ai mà chẳng muốn được vào trường Hý kịch Trung ương Bắc Kinh, một bước lên trời, vươn tới giấc mộng minh tinh? Thế nhưng, cánh cửa càng cao, thì người muốn chen lên càng đông, số lượng người tài cho thấy rõ ràng một sự thật đó là cung nhiều hơn cầu, sư thì đông mà cháo thì ít.
Quận Đông Thành, ngõ nhỏ hoa bông nở, cổng trường đông nghẹt người chờ đợi để nhìn bảng danh sách thí sinh. Họ đều là những người đang mắc kẹt giữa ngã rẽ cuộc đời, trên khuôn mặt ai cũng đều hiện rõ khát khao mãnh liệt, mong chờ tha thiết vận may sẽ đến với mình. Đầu ngõ nhỏ, trong khách sạn, nhà trọ đều là người, đi đi lại lại trên đường giơ bảng chào mời khách. Còn có mấy người đang tản ra phát mấy tờ quảng cáo lớp đào tạo trước khi thi, phí học đắt đỏ, phụ huynh học sinh đổ xô chen nhau coi.
Rất nhiều người vấp phải trắc trở, thế rồi người ngã xuống kẻ tiếp bước, tre già măng mọc.
Trong điện thoại, Mạnh Tiểu Bắc hỏi Nhiếp Hủy, thế rốt cuộc thi thế nào? Khoa diễn xuất mà Mạnh Tiểu Kinh thi có số thí sinh đăng ký đông nhất, còn cạnh tranh khốc liệt hơn cả Học viện Mỹ thuật Trung ương, mỗi năm tỉ lệ trúng tuyển chưa tới 1%. Trong vòng thi đầu tiên, danh sách thí sinh lên tới bốn ngàn, xếp hàng tiến vào trường thi, mỗi người chỉ có 6 phút chớp nhoáng bộc lộ tài năng, giành lấy cơ hội. Hai ngày sau người bị loại quá nửa, chỉ còn lại một ngàn người, tiến vào vòng thi thứ hai.
Vòng thi đầu tiên là đọc diễn cảm tự chọn và biểu diễn ngẫu hứng. Có vào được hay không chỉ căn cứ vào quyết định của ban giám khảo trong mấy phút ngắn ngủi đó, tất cả đều dựa vào ấn tượng đầu tiên.
Có vô số thí sinh đã khát khao ước mơ nhiều năm trời, vật vã cày bừa không biết bao nhiêu lớp đào tạo, đeo số thứ tự thí sinh trên người còn chưa được tới một tiếng đồng hồ, vừa mới tiến vào vòng thi trong chớp mắt đã bị loại bay. Có một cô bé ngồi xổm ở hành lang khóc to, có chết cũng nhất quyết không chịu đi, khăng khăng muốn giám khảo cho mình thêm cơ hội. Mấy giám khảo hiểu sâu biết rộng, kinh nghiệm dày dặn, chỉ từ cái nhìn đầu tiên, nhìn mặt một cái, thí sinh vừa cất giọng, qua vẻ ngoài, cách ăn nói cùng khí chất thần thái, đã biết ngay có tương lai, tố chất nghệ thuật hay không. Mắt nhìn người của giám khảo vô cùng sắc sảo, gần như chính xác, hoàn toàn chẳng cần xác nhận lại làm gì.
Trước Mạnh Tiểu Kinh là bốn tờ giấy với danh sách thí sinh dài dằng dặc, cậu nằm trong số những thí sinh ở sau, số thứ tự tầm 2000. Lúc đó ấy à, ban giám khảo đã ngáp ngắn ngáp dài, uống trà gục đầu, chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng cho xong để đi ăn tối.
Trong vòng thi đọc diễn cảm, đa phần thí sinh trước Mạnh Tiểu Kinh đều thích chọn mấy thể loại tình cảm mãnh liệt dữ dội khiến người khác muốn rơi lệ, giọng nói hùng hồn, giương cao truyền bá chủ nghĩa yêu nước hoặc dân tộc tự lập tự cường, ca ngợi tình thân tình yêu, hy vọng sẽ khiến ban giám khảo xúc động. Một ngày nghe hơn một ngàn người đọc diễn cảm, ban giám khảo đã ngấy tận cổ, trên đài một nhóm cô cậu đọc đến là tình cảm thiết tha, mắt rưng rưng nước, ấy vậy mà mặt mấy vị ban giám khảo vẫn trơ ra chẳng đổi sắc, có người đảo mắt lườm thí sinh, có người xoay bút, coi xong đám thí sinh khóc lóc đọc hết lời thoại, tàn nhẫn gạch toẹt, đánh trượt… Tiết mục đọc diễn cảm mà Mạnh Tiểu Kinh lựa chọn, cũng không mới mẻ gì, chẳng phải của tác giả nổi tiếng lừng danh nào, mà chỉ là một kịch bản ngắn cực sống động của rạp hát bọn họ, hình như có tên là “Nhị Hắc lấy vợ”, kể về một đôi nam nữ trẻ tuổi, vừa thương vừa giận, vừa ghét vừa yêu nhau ở ruộng ngô tâm tình yêu đương, cãi lộn ầm ĩ, nảy sinh hiểu lầm cuối cùng cũng đến với nhau, động phòng, là vở hài kịch dân gian.
Cậu vừa mở miệng: “Ngày hôm đó, trên triền núi, Nhị Hắc lại gặp được cô nàng mình thương, Thúy Hoa mặc áo khoác hoa xách giỏ trứng quay lại đi đến trước mặt chàng.” Một vị giám khảo đang uống trà vừa nghe phun phì ra một cái, bay cả ra lá trà, cả hàng giám khảo đồng loạt ngẩng đầu nhìn!
Mạnh Tiểu Kinh chọn câu chuyện tình yêu hài hước, mang đậm hương vị quê nhà xưa cũ, ngôn ngữ chất phác hóm hỉnh nhưng vô cùng lay động lòng người, lúc đó giám khảo bị cậu chọc cho bật cười, khóe môi cong cong.
Hơn nữa, bản thân Mạnh Tiểu Kinh cực kỳ tuấn tú, chẳng hề nhiễm một chút khí chất quê mùa gì của mấy chàng thanh niên nông thôn.
Cậu đẹp trai ngời ngời, sáng sủa đẹp đẽ, không phải kiểu đẹp ẻo lả yếu đuối, cực phù hợp với thẩm mỹ về nam giới của giới giải trí năm đó.
Cuộc thi đầu tiên, quan trọng nhất chính là ngoại hình, ngoại hình mà không được yêu thích là đã bị đánh trượt luôn khỏi nói nhiều. Một anh chàng đẹp trai sáng sủa có thể nhẹ nhàng dễ dàng diễn được tiết mục quê hương cây nhà lá vườn quả là vô cùng đặc sắc, khiến ban giám khảo tấm tắc không thôi, nhớ mãi khó quên, đúng là hương quê giản đơn mới chính là thanh nhã phong cách.
Tiết mục thứ hai là biểu diễn, Mạnh Tiểu Kinh ngẫu hứng diễn một câu chuyện Thiểm Bắc, còn tự mình gõ thẻ tre (161) kể chuyện, cực kỳ hài hước. Đây chính kỹ thuật cậu học được từ thầy mình khi diễn vở kịch nói ở Tây An.
161. Nguyên gốc là 快板 / kuàibǎn/ là một hình thức kể chuyện bằng miệng của Trung Quốc, vừa gõ thẻ tre vừa kể chuyện. Các bạn có thể xem video thêm ở đây.
Bên dưới khán đài có một vị giám khảo hiểu được tiếng Thiểm Tây, không ngừng dịch lại cho mọi người xung quanh, bừng bừng khí thế, vô cùng hưng phấn, cả đám người đều cảm thấy rất mới mẻ, quả là có tài. Chỉ như vậy, Mạnh Tiểu Kinh đã diệt sạch thiên quân vạn mã, vượt qua vòng một ngon lành.
Trong điện thoại Mạnh Tiểu Bắc nói: “Mạnh Tiểu Kinh đúng là quá dữ, tớ thấy đợt thi lần này vô cùng có hy vọng!”
Nhiếp Hủy không kìm được sự kích động đắc chí, song cũng vô cùng lo lắng sốt ruột, giống như chính cô mới là người đi thi: “Vòng thi thứ hai còn những một nghìn người nữa cơ, mà loại những 700 người, chỉ còn lại 300 người cuối cùng thôi, hai ngày nay cậu ấy ở trên trường, cùng những thí sinh khác chuẩn bị tiểu phẩm biểu diễn, bận cuống bận cuồng! Hơn nữa bởi vì là cùng người khác biểu diễn, nên còn phải phụ thuộc vào người khác nữa, dẫu Mạnh Tiểu Kinh nhà chúng ta có diễn tốt đi nữa, cũng làm sao đỡ cho nổi một đám ‘đồng đội như heo’ đâu cơ chứ!…”
Vòng thi thứ hai chắc chắn không thể lại diễn kịch nói Thiểm Tây, đây là cuộc thi tuyển vào Học viện Hý kịch Trung ương chọn người tài chứ đâu phải tiểu phẩm chào xuân buổi tối. Vòng thi thứ hai kiểm tra kỹ năng diễn xuất cơ bản, 6-7 thí sinh, bao gồm cả nam cả nữ phân vào một nhóm, tự biên tự diễn, hoàn thành tiểu phẩm.
Mạnh Tiểu Bắc hỏi: “Thế đề thi là gì vậy, đã quyết chưa?”
Nhiếp Hủy đáp: “Quyết rồi, suốt cả ngày thảo luận tiểu phẩm đó, tranh cãi ầm ĩ cả lên. Đề thi là diễn cảnh ‘Động đất Đường Sơn’…”
Lúc này, Mạnh Tiểu Kinh từ phòng tắm đi ra, cởi trần, chỉ mặc quần ngủ bông, tóc ướt sũng tí tách nhỏ nước, dùng khăn to quấn tóc lại. Mạnh Tiểu Kinh đánh mắt hỏi: “Gọi điện thoại cho ai đấy?”
Nhiếp Hủy theo bản năng che ống nghe, khẽ nói: “À, là… À, là như này…”
Nhiếp Hủy kể lể: “Tớ gọi điện cho Mạnh Tiểu Bắc, cậu ấy đang ở Bắc Kinh, vẫn còn chưa đi, tớ kể cho cậu ấy chuyện cậu thi.”
Mạnh Tiểu Kinh ngẩn ra, vẻ mặt hơi không tự nhiên: “Cậu gọi cho anh ấy làm cái gì?!”
Nhiếp Hủy cười: “Sao?… Mạnh Tiểu Bắc là anh cậu mà? Không được nói à?”
Mạnh Tiểu Kinh cau mày: “Tớ đã thi đậu đâu, hẵng còn chưa ra đâu vào với đâu!… Tớ không muốn nói này nói nọ với người nhà, chưa thi đậu đã vênh vang khoe khoang, để người ta cười vào mặt cho.”
Nhiếp Hủy nói: “Tớ cũng biết cậu phải chịu áp lực lớn, tớ muốn giúp cậu! Mạnh Tiểu Bắc quan trọng lắm đó, tớ muốn hỏi với chủ đề động đất Đường Sơn cậu ấy thấy thế nào, có linh cảm gì, biết đâu có thể giúp cậu nghĩ ra ý tưởng hay ho gì!”
Mạnh Tiểu Kinh tròng áo sơ mi vào người, đầu rối bù xù, ánh mắt hiện lên sự bực bội khó chịu: “Cậu hỏi anh ấy làm cái gì?!… Tớ cũng chẳng cần mấy ý tưởng của anh ấy.”
Nhiếp Hủy hỏi: “Cậu xích mích với anh cậu à?”
Mạnh Tiểu Bắc trề môi: “Không, tớ thật sự không có mâu thuẫn gì với anh ấy.”
“Từ nhỏ đã chẳng gần nhau, còn chưa tới giai đoạn dậy thì – cái tuổi dễ phát sinh xung đột mâu thuẫn nhất thì đã chẳng ở bên nhau rồi. Ai sống cuộc sống của người đó, có gặp mặt cũng chỉ biết gật đầu chớ chẳng biết nói chi, tớ có xích mích gì được với anh ấy cơ chứ?”
Vẻ mặt Mạnh Tiểu Kinh bình tĩnh, nhưng ẩn sâu trong từng chữ từng chữ lại thấm đẫm nỗi đau đớn xót xa nào đó, khiến Nhiếp Hủy vừa nghe vừa dấy lên nỗi đau lòng, thương cảm cho bạn trai mình.
Quả thật áp lực tinh thần của Mạnh Tiểu Kinh quá lớn, độ khó cuộc thi này còn khó hơn cả cuộc thi của Mạnh Tiểu Bắc. Cậu nghe nói Mạnh Tiểu Bắc thi rất tốt, cậu không muốn mình thi rớt, không muốn phí hoài cả một năm này, không muốn để bao nhiêu cố gắng, ước mơ khát vọng của cậu tan tành mây khói, đổ sống đổ biển, sau này còn đâu mặt mũi mà ngẩng đầu nhìn người nhà. Cậu càng không muốn bị người ta móc mỉa cậu quen được người có tiền, quen con gái nhà giàu bởi tham vọng bất chấp lên được Bắc Kinh. Tự tôn của đàn ông khiến cậu cắn răng không muốn mở mồm xin sự giúp đỡ của người nhà, bởi cậu thua bởi 999 thí sinh kia cũng chẳng khác nào thua Mạnh Tiểu Bắc, trong lòng hai anh em vẫn còn tâm lý cạnh tranh cao thấp.
Một lát sau, điện thoại trong khách sạn lại vang lên.
Lần này là Mạnh Tiểu Bắc chủ động gọi tới, thật sự làm cho Mạnh Tiểu Kinh bất ngờ.
Tối đó, Mạnh Tiểu Bắc mở loa ngoài điện thoại nhà Kỳ Lượng, một đám người vây quanh điện thoại bàn luận sôi nổi, suy nghĩ coi nên diễn ra răng.
Mạnh Tiểu Kinh than thở: “Cái nhóm này đúng là tạp nham, có hai người là đồng hương thì chiếm luôn vai nam nữ chính rồi, cướp phân cảnh, cướp cả sự chú ý ống kính, em một mình một thân, lời kịch cũng đếch tranh được, diễn nhóm thì chỉ có coi ai nổi bật nhất, ai nói nhiều nhất, bởi vậy nên em thấy… vòng thi thứ hai này em không có khả năng gì rồi.”
Mạnh Tiểu Bắc gắt: “Mạnh Tiểu Kinh, còn chưa thi mày đã bi quan vậy hả? Trong cuộc sống một người muốn gây sự chú ý, không quan trọng ở chỗ nói nhiều hay không, tao á, chỉ một câu nói thôi cũng có thể làm rung động cả khán đài!”
Mạnh Tiểu Bắc giơ ngón tay cái, vênh váo chỉ vào người bên cạnh: “Như cha nhỏ tao này, Thiếu Đường, mày thấy thường ngày cha nuôi tao nói nhiều không? Bình thường cha nuôi tao á, ở bất kỳ trường hợp hoàn cảnh nào, đối mặt với bất kỳ ai, chỉ vừa mới ngồi xuống một cái thôi là á, mày thấy khí chất tỏa ra có đủ dữ dằn không, có thể trấn áp đè chết cả đám người đó không?!”
“Nói thừa.” Mạnh Tiểu Kinh chẳng ngại ngần đốp lại: “Mạnh Tiểu Bắc, anh đúng là si dại hết thuốc chữa rồi, em sao mà có thể so với cha nuôi anh được?!”
Nhiếp Hủy nói: “Năm đó chúng tớ không trải qua động đất Đường Sơn, cái hồi đó tớ mới có bảy tuổi, Tây An chẳng bị ảnh hưởng gì sất, không có kinh nghiệm thực tiễn thì diễn thế nào được?”
Mạnh Tiểu Kinh nói: “Thật ra tớ có trải qua, chẳng qua… hồi đó quá nhỏ, hoàn toàn chẳng có chút ấn tượng nào, hơn nữa nhà ở Bắc Kinh cũng không bị sụp đổ, không có người nào chết hết.”
Mạnh Tiểu Bắc: “Kể ra tao với Thiếu Đường cũng trải qua vụ này đó, mặc dầu hồi đó hai chúng tao ở Tây Câu.”
Thiếu Đường ở bên cạnh, giọng nói vững vàng trầm ổn, bình luận: “Ban giám khảo đưa cho các cháu đề thi này, thực ra không quan trọng ở việc các cháu đã trải qua hay chưa. Chuyện diễn xuất, giả như giao cho cháu diễn vai kháng chiến chống Nhật, địa chủ quân phiệt, hay đóng bọn kẻ trộm lưu manh, kẻ tù tội trong ngục giam, chẳng lẽ các cháu cũng phải trải qua rồi thì mới diễn được hay sao? Cái mà ban giám khảo muốn kiểm tra các cháu chính là trí tưởng tượng, năng lực bắt chước, mô phỏng lại cảnh tượng của các cháu, đúng không?”
Mạnh Tiểu Kinh: “Chú Thiếu Đường, chú nói quá đúng.”
Hạ Thiếu Đường nói: “Vậy để chú kể cho cháu nghe, năm đó cháu với cha cháu về Bắc Kinh, gặp đúng trận động đất đó. Lúc ấy, những người ở lại Tây Câu như bọn chú hoàn toàn không có tin tức gì, không biết cha mẹ người thân ở Bắc Kinh còn sống hay đã chết. Những ngày tháng khốn khổ ấy, bọn chú đã chịu đựng, trải qua như nào cháu biết không.”
“Trong đài phát thanh, bọn chú nghe tin Đường Sơn bị san bằng, giống như địa ngục nhân gian, một nấm mồ khổng lồ, chỉ còn là đống đổ nát chôn vùi mấy chục vạn sinh mệnh, trong thành phố ma quỷ ấy chỉ còn lại tiếng khóc than rợp trời… Lúc ấy, công nhân trong nhà máy nổi loạn, mọi người vây quanh văn phòng công đoàn nhà máy, tay người nào người nấy cầm gậy gộc, kìm thép, đàn ông thét vang, phụ nữ khóc rên, lúc ấy tất cả đều muốn mở xưởng để lái hàng trăm chiếc xe tải, chở mấy nghìn người cùng nhau về Bắc Kinh đào bới, moi người.”
“Hồi đó bộ đội các chú phải đội mũ sắt, cầm súng, ngày đêm phải canh giữ duy trì trật tự nhà máy, ngăn chặn công nhân bạo động, ánh sáng từ hơn trăm bóng đèn hắt lên báng súng chói lòa. Mẹ cháu và anh cháu cũng đứng trong đám người ấy, lúc đó quả thật hoàn toàn không biết hai cha con cháu còn có thể trở về hay không.”
Thiếu Đường hút thuốc, giọng nói bình tĩnh, nhớ lại sóng gió gian khổ mà bọn họ đã trải qua hơn mười năm trước.
Ở đầu dây bên kia, Mạnh Tiểu Kinh rơi vào trầm mặc, nghiêm túc cẩn thận lắng nghe.
“Lãnh đạo nhà máy nói, mọi người có nhìn thấy vợ Mạnh Kiến Dân không, vợ con Mạnh Kiến Dân hẵng còn đang ở Tây Câu cơ mà! Mạnh Kiến Dân nhất định sẽ quay trở về, chúng ta chờ đợi hai cha con Mạnh Kiến Dân về! Có người nhụt chí nản lòng nói… nói cha cháu ở Bắc Kinh cũng bị chôn rồi, hai người sẽ không về được!… Tiểu Bắc, lúc ấy bây đáp trả ra sao?”
Thiếu Đường quay đầu nhìn Mạnh Tiểu Bắc.
“Con?”, Mạnh Tiểu Bắc nhún vai: “Con quên tiệt rồi.”
Trong điện thoại, Mạnh Tiểu Kinh nôn nóng hỏi: “Lúc đó Mạnh Tiểu Bắc nói gì ạ?”
Thiếu Đường đáp: “Lúc ấy, Mạnh Tiểu Bắc không khóc, cũng không quậy phá, cũng chẳng hề rơi lấy một giọt nước mắt, trên mặt bừng lên sự căm phẫn, ngoan cường.”
“Trước những người lớn tuổi, bậc cha chú, bây đã rống lên ‘Cha mày mới bị chôn ấy! Con mẹ mày, ai nói cha bố không về được, cha bố nhất định sẽ quay về! Bố đ*t cha mày!!!…’, Tiểu Bắc, hình như là bây đã gầm lên như vậy nhỉ?”
Mọi người ở hai bên đầu điện thoại đều bật cười. Mạnh Tiểu Bắc đập chân cười to, nói: “Đúng là vào lúc quan trọng ông đây vẫn ngầu nhất!”
Kỳ Lượng phán: “Mạnh Tiểu Bắc, mày đúng là cái loại người từ nhỏ đã như con cua đi ngang, chẳng ai dám chọc giận mày!”
Thiếu Đường cười kể: “Lúc đó Tiểu Bắc cực kỳ kiên cường, không hề để Mạnh Kiến Dân mất mặt. Tiểu Bắc còn mạnh mẽ dữ dội hơn cả mẹ cháu và chú, chú ở trong đám người nhìn thấy mẹ cháu len lén lau nước mắt.”
Kỳ Lượng cũng nhớ lại: “Lúc đó cả nhà chúng cháu đều ở nhà máy số 2, cháu nhớ không rõ lắm, chỉ nhớ nửa đêm cha mẹ cháu ôm cháu chạy ra ngoài, tất cả mọi người trong tòa nhà đều lao ra, có người chạy xuống lầu bị xô đẩy chen ngã. Cháu nhớ rõ lúc đó Kỳ Kiến Đông cời trần, bụng bia to, mặc quần xà lỏn lếch thếch, ôm cháu đứng trong đám người…”
“Một tháng ấy gia đình chúng cháu phải ngủ ngoài đường, trong lều, tuy rằng gian khổ vô cùng nhưng khi ấy cha mẹ cháu chưa bỏ nhau, cháu vẫn còn một gia đình hoàn chỉnh.”
Mắt Kỳ Lượng lấp lánh ánh sáng, quay đầu hỏi: “Thầy thì sao, lúc ấy thầy như nào?”
Tiêu Dật nhìn Kỳ Lượng: “Năm đó, thầy ở Bắc Kinh học đại học, cũng gặp phải động đất. Thầy ở tầng 4 trong ký túc, trong phòng có một cậu bạn học nam vội vàng nhảy ra từ cửa sổ, cuối cùng gãy chân. Thầy ôm ga trải giường chạy xuống lầu, choàng ga giường một mình đứng giữa ký túc. Tất cả các bạn học nam khác còn chẳng có lấy ga giường, chỉ mặc mỗi quần lót. Ở lầu bên cạnh, một bạn nữ không có quần áo mặc, thầy bèn cho mượn một nửa ga giường, một mình một nửa cái ga giường đứng đơn độc…”
Tiêu Dật và Kỳ Lượng liếc nhìn nhau, ánh mắt sóng sánh như quyện vào nhau, như vẫn còn muôn điều muốn nói. Dưới bàn, Tiêu Dật lặng lẽ nắm lấy cổ tay Kỳ Lượng, Kỳ Lượng chớp chớp đôi mắt đẹp đẽ: “Hừm, sao em lại không biết thầy sớm hơn cơ chứ? Em đã nhìn trộm ảnh thầy hồi đại học trong tủ đầu giường rồi, năm đó thầy còn trẻ, đẹp trai ơi là đẹp trai.”
Mạnh Tiểu Kinh vẫn luôn yên lặng lắng nghe, một lúc lâu sau nói: “Em biết diễn như thế nào rồi.”
Mạnh Tiểu Bắc nói: “Nhiều người góp ý thì linh cảm tới mới nhanh ha, Mạnh Tiểu Kinh mày cố lên! Bọn tao ở Tây Câu làm hậu cần, chờ tin tốt của mày!”
Mạnh Tiểu Kinh: “… Cảm ơn nhiều nha.”
Vài ngày sau, Mạnh Tiểu Kinh tham gia vòng thi thứ hai. Yêu cầu của vòng hai so với vòng một cao hơn hẳn, phải đọc diễn cảm tự do, biểu diễn thanh nhạc, cùng với diễn xuất tiểu phẩm nhóm.
Rất nhiều thí sinh biểu diễn tiết mục động đất ở Đường Sơn, vừa lên sân khấu đã gào khóc thê thảm đau đớn, ra sức thể hiện nỗi đau khổ thống thiết khi mất đi người thân. Trong trường thi, tiếng khóc lóc vang lên không ngừng, ầm ầm dữ dội. Rất nhiều người giả bộ nằm ra mặt đất đầy rẫy thi thể, trước mắt là núi xác chết, tóc tai rối tung bù xù nhào lên, hai tay đào bới trong đống thây xác giả, ra sức đào như thể đào vàng, khóc đến đứt ruột đứt gan, không thể kiềm chế. Diễn viên quả thật cũng cần chú ý thời điểm nào nên khóc thì mới khóc.
Một loạt ban giám khảo xoay bút bi, trơ người đơ như phỗng nhìn thí sinh lăn lê bò toài đầy đất khóc lóc.
Mạnh Tiểu Kinh không khóc, tóc hơi rối, khuôn mặt đẹp trai ngời ngời được trang điểm lộ ra vẻ mỏi mệt thâu đêm suốt sáng, bôn ba cực nhọc. Cậu lẻ loi đi trên con đường trong thành phố, tách riêng khỏi đám người kia, vẻ mặt trắng bệch tái nhợt, đôi mắt đẹp đẽ đen nhánh giờ đây mờ mịt trống rỗng, cổ áo sơ mi trắng phanh mở lộ ra bả vai gầy yếu, giống như một cô hồn vất vưởng bay vào trường thi… Một cô hồn đẹp trai.
Mạnh Tiểu Kinh chầm chậm quỳ xuống đất, bờ môi mấp máy, sờ soạng trong lòng đất.
Cậu đột nhiên chạm tới thứ gì đó, hình như là từ trong lòng đất bắt được một bàn tay! Từ trong lòng bàn tay ấy cậu lấy ra được vòng tay thủy tinh, rồi hốt nhiên như thể mãnh liệt vỡ ra điều gì đó, gần như cuồng điên run rẩy túm lấy cổ áo của chính mình, lấy ra vòng cổ ở trước ngực.
Vòng cổ và vòng tay lấp lánh tia sáng y chang nhau.
Mạnh Tiểu Kinh há miệng, cả người lẩy bẩy, ngực co rút dữ dội, cổ họng tắc nghẹn không phát ra âm thanh, bắt lấy bàn tay “tưởng tượng” kia, cúi đầu thật sâu hôn lên môi người đang bị vùi lấp bởi đống phế tích đó… Suốt cả quá trình diễn từ đầu tới cuối, Mạnh Tiểu Kinh không gào khóc, gần như không nói bất cứ một lời kịch nào, cũng chẳng hề rơi lấy một giọt nước mắt.
Trong hàng ghế ban giám khảo, có một giám khảo nữ nhìn tới nỗi đôi mắt như mờ nước, có giám khảo vỗ tay vài cái.
Cứ như vậy, Mạnh Tiểu Kinh vượt qua vòng thi thứ hai, tiến vào danh sách 300 thí sinh cuối cùng.
Trong nhóm cậu, toàn bộ thí sinh tranh đoạt ống kính màn ảnh, gào khóc đau khổ đều bị loại hết.
Nấn ná ở Bắc Kinh hơn nửa tháng trời, Mạnh Tiểu Kinh và Nhiếp Hủy đi dạo rất nhiều nơi mà hai người chưa từng đi trước đây, đến vườn bách thú Bắc Kinh, khu vui chơi điện tử. Nhiếp Hủy nghe nói thắp hương ở cung Ung Hoà rất linh nghiệm, khăng khăng kéo Mạnh Tiểu Kinh đi thắp hương khấn vái.
Lúc Mạnh Tiểu Kinh đến cửa cung Ung Hòa, cậu nói: “Chẳng được gì đâu, tốn công tốn sức lại tốn tiền, chúng ta về đi.”
Nhiếp Hủy trừng cậu: “Cậu đừng có nói lung tung bị Phật tổ nghe thấy! Hiệu nghiệm lắm, tớ giúp cậu cầu!”
Trên cổ Nhiếp Hủy đeo vòng cổ thạch anh. Vòng tay thạch anh trên tay Mạnh Tiểu Kinh chính là chiếc vòng mà cô tết cho cậu.
Nhiếp Hủy mua nhang đỏ, gặp điện gặp Phật là cúi đầu lễ bái, đứng trong hàng ngũ các cô bác tiến về phía trước, quỳ xuống nệm lót vải nhung, thành kính dập đầu thắp hương, trong lòng quẩn đi quẩn lại hai việc, một là ước mơ của Mạnh Tiểu Kinh thành hiện thực, hai là bản thân cô cũng mọi sự như ý.
Hai người còn cùng nhau đi dạo bách hóa Vương Phủ Tỉnh, Nhiếp Hủy mua cho bạn trai một chiếc quần bò rất đắt tiền. Mạnh Tiểu Kinh vừa nhìn nhãn mác đã nhíu mày: “Hai trăm tám mươi đồng một cái quần, đắt quá! Cậu phung phí quá rồi đấy.”
Nhiếp Hủy nhếch miệng, chẳng để ý: “Đẹp là được rồi! Tớ mua đồ không quan tâm giá tiền, cậu nói thật coi có thích không?”
Mạnh Tiểu Kinh nhìn cô: “Tớ thích cậu, nhưng cậu quá ‘quý’.” (162)
162. Ở đây, Mạnh Tiểu Kinh dùng từ “贵” – có thể hiểu là đắt/ quý giá.
…
Ngày diễn ra vòng thi thứ ba, đằng sau mỗi thí sinh bước vào cổng trường Hý kịch Trung ương đều có người thân họ hàng bạn bè vây quanh, cổ vũ động viên. Mạnh Tiểu Kinh và Nhiếp Hủy, hai người mua hai cái bánh mì kẹp thịt ở bên đường, dùng túi nhựa véo, đứng trong gió ăn.
Lúc Mạnh Tiểu Kinh đứng xếp hàng vẫn còn cố quay đầu nhìn.
Nhiếp Hủy mặc áo khoác dài lông cừu, kiểu áo thời thượng đen trắng ca rô, phía dưới đeo tất dệt kim và giày cao cổ, giữa mùa đông đứng ở đầu đường, dáng dấp cao gầy nổi bật, cực kỳ xinh đẹp. Một vị giảng viên, chủ nhiệm lớp nào đó thuộc khoa diễn xuất từ cổng trường đi ra nhìn thấy Nhiếp Hủy từ xa, chăm chú ngắm cô rất lâu.
Vị giảng viên đó lại gần, hỏi: “Cô gái, em đến tham gia vòng thi thứ ba hả?”
Nhiếp Hủy đáp: “Em theo người khác đến ạ.”
Vị giảng viên bừng bừng hứng thú, đăm đăm nhìn Nhiếp Hủy nói: “Trước đây cũng hay gặp chuyện như vầy, thí sinh đăng ký thi thì không đỗ, người đi cùng chó ngáp phải ruồi, được chúng tôi nhắm trúng.”
Nhiếp Hủy nói: “Thầy đừng nói vậy, em vẫn hy vọng bạn trai em có thể thi đậu.”
Vị giảng viên nói: “Tôi thấy em có tố chất làm diễn viên, em có vẻ ngoài vô cùng ăn ảnh. Hay em có muốn vào thử không? Chúng tôi sẽ cho em một cơ hội.”
Nhiếp Hủy hơi sửng sốt, cuối cùng vẫn từ chối: “… Em không thi, em hoàn toàn không có hứng thú gì với nghề diễn viên.”
Nhiếp Hủy đứng giữa trời đông rét mướt, bên con đường mờ mờ tối, xinh đẹp cao ráo, tựa như khung cảnh rực rỡ chói sáng nơi đầu đường. Cô nhíu mày, vẻ mặt hơi buồn bã, nỗi lòng phức tạp cuồn cuộn còn rắm rối xoắn xuýt hơn cả bờ mày. Cô tới đây để chăm lo cho người đi thi là Mạnh Tiểu Kinh, cô đã dõi theo Mạnh Tiểu Kinh trong suốt cả quá trình thi cử này. Nếu Mạnh Tiểu Kinh thật sự thi đỗ đại học, công thành danh toại, sẽ cắm rễ ở Bắc Kinh. Trường nghệ thuật nổi tiếng như vậy, những người từ đây ra đều là những minh tinh lớn, mười người thì tới tám người có thể bước vào giới nghệ thuật. Sau này, Mạnh Tiểu Kinh có thể sẽ không bao giờ về Tây An, có thể sẽ càng ngày càng xa cô… Cô không thể giữ được những bước chân băng băng tiến về phía trước của Mạnh Tiểu Kinh, há có thể giữ được trái tim cậu?
Mạnh Tiểu Kinh nói một câu gì đó với bảo vệ, đột nhiên vòng lại, xuyên qua dòng xe cộ nườm nượp trên con đường nhỏ, điệu bộ cuống quýt vội vàng.
Mạnh Tiểu Kinh sải bước chạy tới, dừng lại nơi ven đường, đột nhiên vươn hai tay ôm mặt Nhiếp Hủy, nghiêng đầu hôn lên. Môi chạm môi, cậu dữ dội hôn mấy giây đồng hồ mới buông ra, nhìn Nhiếp Hủy thật sâu rồi mới quay đầu trở về.
Một mình Nhiếp Hủy lẻ loi đứng trong gió rét, ngẩn ngơ nhìn con ngõ nhỏ hai bên đường. Nơi tận cùng con đường, xe qua xe lại nối tiếp xe, sương giăng mờ mịt tầng tầng lớp lớp, tựa như tiền đồ mơ hồ của hai người họ, trong khoảnh khắc đó, nước mắt cô bất giác rơi xuống.