Lúc này Nam Kinh đã trong tình trạng giới nghiêm toàn thành, tất cả cầu treo trên con hào bảo vệ quanh thành đều được kéo lên. Cờ xí trên tường tung bay phấp phới, những tên lính mặt mũi nghiêm trang, ngựa khỏe đứng đầy đường, chông sắt các thứ cũng đã được chuẩn bị đầy đủ.
Kỳ mưa dầm dai dẳng qua đi, từ ấy đến nay trời không rớt một giọt mưa nào. Mặt trời giữa hè chói chang hừng hực, cái nắng gắt khiến những ai đứng dưới đều hoa mắt chóng mặt.
Trong lều chỉ huy, mọi người đội mũ mặc giáp, tập trung lại để bàn bạc kế hoạch.
Chỉ huy sứ của Võ Xương vệ – Tiền Ninh chắp tay nói: “Bẩm Đại nhân, ti chức cho rằng nên vào thành từ cổng Triều Dương, qua khỏi cổng Triều Dương chính là cổng Đông Hoa của Hoàng thành. Nếu phi ngựa phóng nhanh, chớp mắt là có thể đến nơi. Chỉ cần công chiếm Hoàng thành, bắt giết……”
“Khù khụ.” Phó tổng binh Triệu Nham ho khan vài tiếng.
Tiền Ninh rốt cuộc nhớ ra phe mình dùng danh nghĩa Thanh quân trắc chứ không phải đánh dẹp hôn quân vô đạo, sao có thể nói toạc ra là tới bắt giết Hoàng đế.
Bùi Thận ngồi thẳng ở ghế chủ tọa, liếc nhìn hắn: “Nói tiếp đi.”
Tiền Ninh gượng cười, mở miệng nói tiếp: “Dù sao chỉ cần dùng tốc độ nhanh nhất đột nhập hoàng thành, chém giết gian nịnh, còn lại đều dễ như bỡn.” Giết Hoàng đế rồi, Nam Kinh tự khắc sẽ tan.
“Cách này tương đối ổn.” Du kích tướng quân Lâm Kiến gật đầu đồng tình. Nhưng chưa kịp dứt câu đã bị Yến An đứng cạnh đá một cái.
Lâm Kiến vốn thô lỗ cục mịch, lại thêm thể trạng cao to rắn rỏi, trước giờ luôn là quân tiên phong tấn công. Bỗng dưng bị đá không rõ lý do, hắn trợn trừng hai mắt, há mồm mắng: “Dở hơi à đồ cái cột! Không dưng lại đá ta!”
Mà Yến An dáng vẻ cao gầy, bị bọn quân lính đặt biệt danh là cái cột. Hắn nghe vậy cũng không giận, chỉ xấu hổ bồn chồn ngồi trên ghế, thề trong bụng nếu còn bận tâm tới tên ngốc này thì hắn chính là một cái cột ngốc nghếch!
Chúng thuộc hạ im thin thít như ve sầu mùa đông, Bùi Thận bấy giờ mới mở miệng: “Ở đây đều là huynh đệ, người thân trong nhà, không cần phải dè chừng.”
Nghe y nói vậy, mọi người khẽ thở phào nhẹ nhõm.
Tham tướng Thang Hành Tư nói thẳng: “Đúng là thành từ cổng Triều Dương là tốt nhất. Ngặt nỗi bên ngoài cổng Triều Dương lại là Hiếu lăng.”
Nơi an táng của Thái Tổ và Hoàng Hậu.
Chúng tướng lập tức chia thành hai phe. Một bên cho rằng tốc độ mới là quan trọng, tốt nhất nên vào thành từ cổng Triều Dương. Bên kia lại cho rằng không nên quấy nhiễu giấc ngàn thu của Thái Tổ.
Đám người phút chốc ầm ĩ loạn cào cào.
“Mấy người còn thua cả lão Lâm ta đây nữa! Đã theo cái nghiệp đánh cược tánh mạng này, lại còn muốn giấu giấu giếm giếm hay sao?!”
“Không ổn chút nào. Tuy nói là đánh giặc, nhưng chúng ta lấy cớ Thanh quân trắc, do đó không thể vào thành từ Hiếu lăng được.”
“Đánh thì lo đánh đi, Hiếu lăng liên quan quái gì tới chúng ta!”
Trong tiếng ồn ào cãi vã, Bùi Thận cau mày. Y đã tự xưng là trung thần, ắt không thể dẫn binh ngang qua Hiếu lăng.
Chiến tranh không đơn giản chỉ là chiến tranh, mà đằng sau đó còn liên quan đến vấn đề chính trị nữa.
Nghĩ đến đây, Bùi Thận mở miệng: “Bỏ qua cổng Triều Dương, tiếp tục bàn bạc thêm.”
Chủ soái đã ra quyết định, mọi người cũng không dám trái ý, chỉ quay qua nhìn nhau, lần nữa lập ra chiến lược khác.
“Vậy hay là vào thành từ cổng Chính Dương, sau đó đánh vào cổng Hồng Vũ của Hoàng thành, hoặc là cổng Trường An phía đông, phía tây.”
“Không ổn không ổn, muốn vào cổng Chính Dương, trước hết phải qua cầu Trung Hòa hoặc cầu Thông Tế, nhưng lúc này tất cả các cây cầu bắt qua hào nước bảo vệ thành đều bị hủy đi rồi.”
“Vậy thì đi hướng hồ Hậu ở phía đông bắc.” (2)
“Nếu đi hướng hồ, Đại Lý Tự, Hình Bộ, Đô Sát Viện đều tập trung đằng đó, hoàn toàn không có cách nào tập kích ban đêm được. Chẳng thà bơi qua hào nước cho xong.”
Mười bảy, mười tám người đề ra khoảng chừng bảy, tám ý kiến, đều trong phạm vi xoay quanh Hoàng thành.
“Đi cổng Kim Xuyên.” Bùi Thận nhìn bản đồ, bình tĩnh ném ra một câu.
Chúng tướng hai mặt nhìn nhau, cảm thấy thật là vớ vẩn.
Cách này lúc đầu mọi người cũng từng đề xuất, nhưng cổng Kim Xuyên nằm phía tây, Hoàng thành lại ở phía đông, do vậy khoảng cách cũng là xa nhất, gần như phải băng qua toàn bộ thành Nam Kinh. Vì vậy có thể nói vào Hoàng thành từ cổng Kim Xuyên là bất lợi nhất.
Huống hồ qua cổng Kim Xuyên chính là doanh trại quân đội, cũng là nơi cất trữ lương thực của mười vạn đại quân. Nếu chọn đi cổng Kim Xuyên, tương đương với việc đối đầu với mười vạn đại quân này.
Khác nào chui đầu vào rọ.
Chỉ là Bùi Thận lăn lộn chốn sa trường đã lâu, chiến công xuất chúng, không phải kẻ chỉ huy vớ vẩn tầm phào. Y đã nhắc đến, mọi người cũng không dám bỏ qua.
Im lặng suy tư trong chốc lát, Triệu Nham mở miệng nói: “Chính ra mà nói trong mười vạn đại quân kia, có hơn một nửa là bộ hạ cũ của Quốc công gia và đại nhân, còn lại là tân binh chiêu mộ lâm thời từ các vệ sở, địa phương quanh Nam Kinh. Nếu bàn về sức chiến đấu, lính cũ không muốn đánh với đại nhân, lính mới lại không đủ khả năng.”
Chỉ cần khiến lòng quân tan rã, rất nhanh sẽ có thể hạ được Nam Kinh.
“Huống hồ lý do chúng ta cần gấp rút công phá Hoàng thành còn phải kể đến khả năng xuất hiện quân cứu viện cho toán quân này. Hai bên lúc ấy sẽ vây chặt, kẹp chúng ta đứng giữa. Nếu có thể trước hết nắm được mười vạn đại quân, sau đó muốn giằng co bao lâu cũng được.”
Lời này nghe cũng có lý, nhưng mà ——
“Tiền đề là chúng ta có thể đặt chân được vào cổng Kim Xuyên, còn phải nuốt cho trọn mười vạn đại quân!” Tiền Ninh bất mãn nói.
“Sao? Ngươi sợ ư?” Lâm Kiến chế giễu hắn.
Tiền Ninh giận dữ trợn mắt, mắng chửi: “Đồ con chim nhà ngươi, chẳng phải ngươi cũng thế mà không dám nhận?”
Đám người đang định mở miệng khuyên lơn, lại thấy Lâm Kiến cười nhạo một tiếng, đứng lên cất giọng nói: “Đại nhân, ti chức Lâm Kiến tự xin lãnh ba ngàn quân, tấn công cổng Kim Xuyên!”
Chúng tướng thấy hắn xin lệnh, cũng ào ào cùng đứng lên, sợ mình bị bỏ lại phía sau.
Bùi Thận giơ tay ngăn lại, quét mắt nhìn qua đám người một vòng, ai nấy đều yên tĩnh lại.
Bấy giờ y mới nói: “Lệnh phó tổng binh Triệu Nham thống lĩnh chiến cuộc phía đông, lãnh tham tướng Đổng Võ phía đông và Tô Tử Học phía bắc mỗi bên ba ngàn người.”
“Lệnh du kích tướng quân Lâm Kiến lãnh một ngàn lính du kích tiên phong đánh nghi binh ở cổng Chính Dương.”
“Tham tướng phía tây Thang Hành Tư lãnh sáu ngàn quân chiếm xưởng đóng tàu của trạm Long Giang, nhân lúc ban đêm vượt sông, đợi đến giờ Tuất ba khắc thì tấn công cổng Kim Xuyên.”
Chúng tướng ào ào lĩnh mệnh mà đi.
Đầu giờ Tuất, Bùi Thận đầu đội mũ tỏa tử, thân khoác giáp da màu đồng, eo đeo đai lưng da trâu, tay cầm thương dài, tung người phi lên ngựa, dẫn theo sáu ngàn binh mã tiến thẳng về cổng Kim Xuyên.
Thang Hành Tư tính tình cẩn thận, thấy thế cũng không khỏi sầu lo: “Đại nhân chỉ cần trấn giữ tại lều chỉ huy là được rồi, cần gì phải đích thân tới đây?”
Bùi Thận giải thích: “Lần này có ba vạn lính là quân tinh nhuệ. Trận Kim Xuyên này vô cùng quan trọng. Nếu có thể thành công, chỉ cần một lần là đủ.”
Thang Hành Tư cân nhắc một phen, khó hiểu nói: “Hôm nay đánh không được thì ngày mai lại đánh tiếp. Dù sao trừ mười vạn quân của Nam Kinh, ngoài kia đều là người của chúng ta mà.”
Bùi Thận lắc đầu: “Bỏ lỡ hôm nay thì sẽ không bao giờ có thời cơ tốt như vậy nữa.”
Thời cơ? Hôm nay là ngày gì đặc biệt hay sao? Thang Hành Tư càng thêm không hiểu ra sao, đang muốn hỏi lại, đã thấy Bùi Thận đã giục ngựa phi nhanh về phía trước.
Bóng đêm đen kịt, đội ngũ sáu ngàn người nương ánh trăng lờ mờ, lặng lẽ hành quân.
Đến khi cách địa điểm hẹn trước còn mười dặm, Bùi Thận ghìm cương ngựa, nói: “Thang tướng quân, hãy hành động theo chiếu quân lệnh.”
Thang Hành Tư gật đầu, ngay lập tức dẫn một ngàn quân, ngựa bọc móng, người ngậm đũa, không tiếng động tiến sát đến phía ngoài cổng Kim Xuyên.
Bùi Thận dẫn năm ngàn người làm quân cứu viện và đánh cản phía sau, đứng đó trông theo toán ngàn người rời đi.
Thang Hành Tư bôn ba đi theo Bùi Thận từ Sơn Tây, từng đánh Hồ Lỗ ở Đại Đồng, đánh Oa ở Chiết Giang, lại dẹp loạn ở Tứ Xuyên, diệt cướp ở Hồ Quảng. Hắn từng đánh qua rất nhiều trận đánh ác liệt, lần thảm khốc nhất là lần quyết chiến với giặc Oa ở Hải Lâm vệ, rốt cuộc chỉ còn mười mấy huynh đệ sống sót.
Trước khi đến đây, Thang Hành Tư đã chuẩn bị đâu ra đấy. Thành Nam Kinh rất cao, phòng thủ đạt mức hoàn mỹ. Những tòa thành kiên cố thế này, một ngàn người trong tay hắn muốn công phá chẳng khác nằm mơ giữa ban ngày. Cho nên đại nhân bảo hắn công thành, chắc hẳn chỉ để thử rồi lấy kinh nghiệm chuẩn bị cho đại quân phía sau.
Nhưng hắn không ngờ trận chiến dịch tấn công Nam Kinh cuối cùng lại chấm dứt theo cách này.
Giờ Tuất ba khắc, ánh trăng trải khắp, lóng lánh như nước. Thang Hành Tư dẫn quân đi tới trước cổng Kim Xuyên, chỉ thấy trên thành cờ xí tung bay phấp phới nhưng chẳng hề mảy may có chút động tĩnh nào.
Thang Hành Tư có nhiều kinh nghiệm chốn sa trường, theo bản năng cảm thấy có điều không ổn. Ngay lúc hắn đang định phái một tiểu kỳ tiến tới dò xét, lại thấy nơi cổng thành tối om bỗng vang lên tiếng kẽo kẹt.
Hắn biết, đó là tiếng của tay quay phía sau cửa.
Sau đó, cổng thành hé ra một khe hở hẹp. Rồi từ từ, khe hở ấy càng lúc càng lớn, càng lúc càng lớn……
Thang Hành Tư nghẹn họng nhìn trân trối, đầu kêu ong ong, lờ mờ nhớ lại lời Bùi Thận nói “Thời cơ hôm nay không thể bỏ lỡ”.
Ngay sau đó, Thang Hành Tư cất cao cây chùy, rống to:” Cổng thành đã mở! Theo ta xông lên ——”
Đội ngũ ngàn người có một trăm người là kỵ binh, số còn lại là bộ binh. Vó ngựa phi nhanh tạo nên âm thanh ầm ầm như tiếng sấm rền vang, chen lẫn tiếng bước chân chạy của bộ binh, tiếng gào thét, xông thẳng vào doanh trại đằng sau cổng Kim Xuyên.
Bùi Thận đóng quân cách đó mười dặm, nhẩm tính thời gian, chừng gần nửa khắc sau, y dẫn năm ngàn người còn lại giục ngựa lao đi.
Mười dặm đường, tuấn mã phóng một chớp mắt đã đến. Lúc Bùi Thận tới cổng Kim Xuyên, trông thấy cổng thành mở rộng, bên trong vang lên những tiếng chém giết, liền nhận định đây không phải quân canh gác cố tình gài bẫy dụ người của y bước vào. Bấy giờ y mới rút đao, lạnh lùng nói: “Chúng tướng sĩ nghe lệnh, theo ta xông lên ——”
Năm ngàn người chia ra thành những đội trăm người, vào thành từng đợt một.
Khử những tên lính gác đã phát giác tình hình, kỵ binh phi ngựa nước đại làm rối loạn hiện trường, khiến quân canh gác la hét không dứt. Bộ binh hô to “Thành Nam Kinh thất thủ, ai quỳ xuống sẽ không giết”……
Trong đêm tối, sáu ngàn địch mười vạn, nhìn như không thể nào xảy ra, lại bởi vì mười vạn binh mã không phải quân tinh nhuệ, thêm chi đột nhiên không kịp đề phòng, tinh thần quân lính không đủ mạnh, cộng với khung cảnh hỗn loạn thất thanh… Tính riêng số quân chịu đầu hàng đã lên đến bốn, năm vạn. Trong đó số chém giết nhầm lẫn nhau, dẫm đạp lên nhau có đến mấy ngàn người, ngoài ra phải kể đến những kẻ nhân buổi ban đêm bỏ chạy, tử vong…Khắp nơi đều là cảnh chân rời tay cụt.
Trận chiến này mãi đến bình minh mới hoàn toàn kết thúc.
Bùi Thận đứng trong lều chỉ huy, chiếc bàn dài trước mặt bày ra hai cái đầu người. Một cái là của Tổng binh Nam Kinh Bành Hầu, một cái thuộc về Thái giám giám quân Lương Tuấn.
Tại lúc Bùi Thận đang cúi đầu xác nhận bề ngoài của hai người này, Thang Hành Tư cả người đầy máu khô sền sệt cất bước vào lều. Hắn nhếch mép định cười, lại thấy không vui vẻ gì mấy, đành giận dỗi nói: “Đại nhân, trận này đánh chẳng vui gì.”
Bùi Thận ném cây đao dài trong tay xuống, cầm đầu người bỏ vào tráp: “Thắng luôn là tốt.”
Thành Nam Kinh kiên cố, có đại đội binh lính đóng quân thường trực trong thành, lại thêm trữ lượng lương thực lớn. Những thành trì thế này chỉ có thể công phá từ bên trong.
“Đại nhân, vậy rốt cuộc là ai đã mở cổng thành?” Lòng Thang Hành Tư ngứa ngáy như có mèo cào.
“Tất nhiên là ta đây.”
Xa xa bên ngoài lều vang lên tiếng một ai đó, xen lẫn chút gì hài hước. Thang Hành Tư quay người nhìn lại, thấy có người thư sinh áo xanh vén rèm bước vào trong.
Thang Hành Tư nắm chặt thương dài trong tay, cảnh giác hỏi: “Đây là vị nào?”
Người tới cười nói: “Cai trạm của trạm Long Giang, Nam Kinh – Lý Trọng Hằng.”
Thang Hành Tư chợt hiểu rõ. Trạm Long Giang nằm cách cổng Kim Xuyên của Nam Kinh chỉ mười lăm dặm. Người này nếu là cai trạm, ắt sẽ thường lui tới với tướng canh gác cổng Kim Xuyên, năm này qua tháng nọ liền trở nên thân thiết hơn.
Chắc hẳn nghe tin Bùi Thận đem quân tấn công, tất cả nhân thủ trong trạm Long Giang thuận theo đó mà tránh vào thành Nam Kinh, rồi Lý Trọng Hằng khuyên tướng canh gác mở cổng thành. Tướng gác thành kia có lẽ là có ca trực vào đêm nay, thảo nào đại nhân nói thời cơ này không thể bỏ lỡ.
“Được rồi.” Bùi Thận ngắt ngang cuộc trò chuyện giữa hai người, mở miệng nói: “Trọng Hằng, huynh nhanh chóng tìm An Thái tiên sinh, kiểm kê tù binh, gạo thóc, hàng hóa…”
Lý Trọng Hằng nghe vậy bĩu môi, nhủ bụng Bùi Thủ Tuân đúng là ngày càng tẻ nhạt, chẳng bù cho cái hồi dẫn nữ quyến tới trạm Long Giang bảy năm trước.
Thấy hắn rời khỏi, Bùi Thận mới hỏi: “Đã triệu tập những người còn lại chưa?”
Thang Hành Tư ghi công đầu, bấy giờ cả người nhẹ nhàng khoan khoái, không ngại chia sẻ bớt chút công lao cho huynh đệ nhà mình, bèn cười nói: “Đã phái người báo tin cho Triệu tướng quân, Tiền tướng quân vào thành từ cổng Kim Xuyên. Giờ này chắc có lẽ đã đến.”
Bùi Thận ra lệnh: “Đi đưa tin cho Triệu Phó tổng binh, bảo hắn giam tù binh tại chỗ, tuyển chọn cẩn thận vài người để theo ta vào cung yết kiến Bệ hạ.”
Thang Hành Tư không phải đồ ngốc, vừa nghe tuyển chọn cẩn thận liền hiểu ý là cứ từ từ mà chọn.
Quả nhiên, Triệu Nham chọn tới chọn lui ước chừng hết nửa canh giờ, sau đó mới đến bẩm với Bùi Thận.
Lúc này đã là đầu giờ Mẹo, sắc trời tờ mờ sáng. Bùi Thận dẫn quân ra đường, trông thấy mấy sạp hàng rong trên đường đang bày bán.
Bùi Thận biết một số bá tánh hay tin thành đã thất thủ nên trốn trong nhà, số còn lại chưa hề hay biết, cho nên vẫn ra mở sạp bày bán như mọi ngày.
Mấy ngàn binh lính người đầy máu me bước ra ngoài phố khiến những người bán hàng rong sợ tái mặt run chân, luống cuống tay chân dọn sạp định trốn. Có vài người thậm chí bỏ cả sạp chỉ lo cướp đường mà chạy.
Bùi Thận quay người nhảy xuống ngựa, bước mấy bước đến sạp bánh nướng. Chủ quán run run quỳ rạp xuống đất, dập đầu liên tục: “Quân gia tha mạng! Quân gia tha mạng!”
Bùi Thận lấy trong tay áo ra hai lượng bạc, hỏi: “Xin hỏi lão có bao nhiêu cái bánh nướng? Một cái mấy văn tiền?”
“Cho không quân gia đấy! Cho không quân gia!” Chủ quán nào dám thu tiền y, loạng choạng liên tục lui về sau.
Bùi Thận lắc đầu: “Lão ơi, ta là Ngụy Quốc công thế tử Bùi Thận, chỉ giết Hồ Lỗ giặc Oa, không giết bá tánh đồng bào.” Nói rồi, y đặt hai lượng bạc xuống: “Ta thấy chỗ lão có chừng mấy trăm cái bánh nướng, ta muốn mua tất, hai lượng có đủ chăng?”
“Đủ, đủ rồi.” Chủ quán trông thấy những vết máu đọng lại giữa những mảnh giáp trên người y, gương mặt tuấn tú cùng ngữ điệu ôn hòa, lại thêm sức hấp dẫn từ hai lượng bạc, cuối cùng gan dạ thò tay cầm lấy bạc.
“Lão ơi, doanh trại của ta vẫn còn mấy vạn nhân mã chưa có gì ăn. Mong lão gấp rút phái gã sai vặt giao bánh đến doanh trại gần cổng Kim Xuyên, có được không?”
Nắm được hai lượng bạc trong tay, lá gan của chủ quán cũng lớn hơn một chút, không còn sợ hãi e dè như ban nãy, nghe thế liền gật đầu.
Bùi Thận cũng chẳng bận tâm người này cầm tiền rồi có giao bánh hay không. Cho dù người này không đi, bá tánh quanh đây thấy vậy, cũng sẽ biết quân của Bùi gia không dẫm đạp đồng bào, như thế là đủ rồi.
Bùi Thận lại nhảy lên ngựa, tiếp tục tiến về phía trước.
Nếu y muốn đi từ cổng Kim Xuyên đến Hoàng thành, cần phải ngang qua lầu canh gác, Quốc Tử Giám, phố Thái Bình …… Hầu như sẽ đi gần hết toàn bộ Nam Kinh.
Bùi Thận vừa đi vừa chi tiền mua thức ăn, bảo họ giao thẳng về doanh trại. Nếu Thẩm Lan có mặt tại đây, nhất định có thể nhận ra được ý đồ chính trị của y.
Sau đó, thậm chí có những người to gan tò mò tìm tới dò xét, còn có hai đứa nhóc để truồng theo đuôi đại đội để xem cho đã mắt, rồi lại bị cha mẹ túm về đánh cho một trận.
Bùi Thận nhìn thấy hai đứa trẻ kia, liền biết ngày mai tin Ngụy Quốc công thế tử Bùi Thận đánh vào Nam Kinh lại không mảy may động đến bá tánh sẽ từ đây lan ra khắp hang cùng ngõ hẻm.
Lòng dân ở Nam Kinh sẽ yên ổn trở lại.
Khóe miệng Bùi Thận hơi nhếch lên, tâm trạng cũng thư thái hơn. Đây chính là lợi thế thứ hai khi vào thành từ cổng Kim Xuyên, dễ dàng lấy được lòng dân.
“Đại nhân, đã đến HHHHHoàng thành.” Đám người Tiền Ninh theo sau Bùi Thận, đồng thanh chắp tay nói.
Lâm Kiến đã chờ không nổi nữa, khom lưng nói: “Đại nhân, mạt tướng nguyện lên trước tiên phong.”
Bùi Thận ngắm nhìn Hoàng thành nguy nga trước mặt, lắc đầu: “Xuống ngựa!”
Mọi người bất đắc dĩ nghe lời xuống ngựa, Bùi Thận thong thả bước vào hoàng cung.
Quả nhiên, tin thành Nam Kinh thất thủ, mười vạn đại quân bị bắt khiến ai nấy kinh hồn táng đởm. Cấm quân trong thành sớm đã cởi giáp trốn chạy, có vài kẻ còn cố vơ vét chút tiền của, lại cũng có những người trung thành chạy ra sau đình để bảo vệ bệ hạ.
Toàn bộ hoàng cung, tính từ cổng Hồng Vũ trở vào toàn là cảnh cấm quân, cung nữ, thái giám la hét thất thanh, bỏ chạy tán loạn, chen lấn thành một đám đông lộn xộn.
Bùi Thận chưa hề biến sắc, phái ra một ngàn lính vây kín nha môn sáu bộ cùng Ngũ Quân Đô Đốc Phủ nằm hai bên lối vào.
Ngay sau đó, y điều Tiền Ninh dẫn nhóm hai ngàn người vừa hô “Quỳ xuống không giết”, vừa gấp rút chia binh tới canh gác sách vở trong Văn Uyên Các cùng mười hai kho của Nội vụ phủ.
Kế đó, Bùi Thận dẫn hai ngàn quân còn lại vòng qua ba cung điện lớn, đi thẳng về tòa đình phía bắc.
Mới vừa vào Phụng Tiên Điện, liền thấy bảy tám tên tiểu thái giám nâng một thi thể mặc Miện phục, đầu đội quan gắn chuỗi ngọc tiến lại gần.
Bùi Thận nhủ bụng đây chính là lợi thế thứ ba khi chọn vào thành từ cổng Kim Xuyên. Nơi này cách xa Hoàng thành, cho nên việc đến chậm cũng rất bình thường. Đám người Thạch Kinh Luân sẽ ra tay trước khi Bùi Thận đến nơi.
Nếu y mà đến sớm quá, Hoàng đế vẫn chưa chết, y lấy lý do Thanh quân trắc tới nơi lại gặp Hoàng đế, chẳng lẽ rút đao chém chết một tên thái giám sau đó rút quân?
Bùi Thận cúi đầu, xem xét kỹ càng khuôn mặt của thi thể kia một lúc, rốt cuộc xác nhận người này đúng là Mân Vương.
“Bùi, Bùi tướng quân.” Tiểu thái giám dẫn đầu run rẩy quỳ xuống đất, dập đầu trước mặt Bùi Thận đùng đùng đùng, sau đó khóc lớn: “Bệ hạ bị thái giám cầm bút Hồng Đạt ném vào sông Ngọc Đái mà chết đuối, Hồng Đạt cũng sợ tội mà tự sát rồi.”
Bùi Thận hơi ngẩn ra. Thạch Kinh Luân bị người khác chiếm mất thời cơ? Y tò mò mở miệng hỏi: “Ngươi tên là gì?”
Tiểu thái giám dẫn đầu mới mười mấy tuổi, rúm ró đáp: “Tiểu nhân họ Dư, nhận thái giám chưởng ấn Dư đại đang làm ông nuôi.”
Bùi Thận gật đầu, thì ra là thế. Dù sao cũng là thái giám chưởng ấn, là người thân cận nhất bên cạnh hoàng đế. Thạch Kinh Luân có nhanh mấy nữa cũng đâu bì kịp Dư đại đang.
Dư đại đang này là chỗ dựa của Dư Tông, cũng là một người thông minh. Mân Vương cùng Hồng Đạt chắc hẳn đều bị hắn giết, rồi đổ tội giết Hoàng đế lên đầu Hồng Đạt. Bằng cách này, Bùi Thận không cần gánh cái danh sát hại chủ cũ, Dư đại đang lại có thể cho y nợ một mối ân tình.
Không chỉ có thế, Bùi Thận nếu lấy cớ Thanh quân trắc, dù sao cũng phải có ai sắm vai gian nịnh để y chém chứ. Y vốn định bụng chọn hai tên đại đang thân cận cạnh Hoàng đế, nhưng bây giờ Dư đại đang đã chủ động chọn Hồng Đạt thay y, thế là giữ lại được tánh mạng của mình.
Dư đại đang tự biết mình là thần tử thuộc triều đại cũ, chắc chắn không cách nào tiếp tục đảm đương những chức vụ quan trọng, bèn nhân đó đẩy cháu trai ra làm quen với Bùi Thận.
Bùi Thận chỉ chốc lát đã ngẫm xong toan tính của Dư đại đang, tiếp đó thở dài nói: “Ta vốn là đến Thanh quân trắc, nhưng dọc đường phải trấn an bá tánh mà không kịp vào cung, khiến bệ hạ bị kẻ gian nịnh mưu hại.”
Dứt lời, mấy kẻ lõi đời sau lưng vội chạy lên khuyên lơn, người này nói đại nhân đã gắng hết sức rồi, người kia lại bảo nào ngờ gian nịnh lại hung bạo như vậy ……
Bùi Thận lại hùa theo tỏ ra sầu khổ một phen, rồi hạ lệnh: “Ngươi đã là cháu của Dư đại đang, thế thì hãy dẫn đường cho binh lính đi.” Dứt lời, y bảo Lâm Kiến dẫn một ngàn người đi theo hắn.
“Vâng vâng vâng!” Tiểu thái giám biết mình giữ lại một mạng, nín khóc dập đầu liên tục rồi khom lưng theo sau Lâm Kiến dẹp loạn trong cung.
Lúc này trong tay Bùi Thận chỉ còn một ngàn người cuối cùng. Y phái hai trăm lính tìm một căn phòng dọn xác Hoàng đế vào rồi che lại đợi xử lý sau.
Thấy chuyện quan trọng nhất đã kết thúc, lòng Bùi Thận hơi thư thái hơn. Y dẫn binh quay lại Văn Uyên Các ở phía nam Văn Hoa Điện, thấy bên ngoài có lính đứng gác, bèn đẩy cửa bước vào trong.
Nơi đây là nơi cất trữ những sách vở, thư tịch trong cung. Trong Các có tổng cộng hơn mười phòng, phía tây có một phòng là nơi làm việc của các đại thần Nội Các.
Đẩy cửa ra, thấy ba vị Các lão ngồi ngay ngắn sau bàn, một người vuốt râu, một người cầm bút ngồi im, mực sắp nhỏ cả ra giấy, người còn lại thì ngồi ngẩn ngơ.
Bùi Thận ôn tồn chắp tay thi lễ: “Tào các lão, Lý các lão, Triệu các lão.”
Triệu Tuyên tính nóng như lửa, vừa thấy Bùi Thận tiến vào đã đứng bật dậy, chỉ vào mũi Bùi Thận mắng nhiếc: “Loạn thần tặc tử! Người người khinh thường!” Mắng một câu thấy chưa đủ, ông lại lạnh lùng nói: “Bùi gia các ngươi nhận ơn thánh lâu nay, lại dám làm ra những trò chiếm đoạt ngai vàng thế này. Thủy tác dũng giả, kỳ vô hậu hồ?!” (3)
Bùi Thận cũng không thấy bực, những người xương cứng như Triệu Tuyên kiểu gì chẳng có.
Y chỉ mỉm cười: “Triệu các lão hôm nay mắng ta là loạn thần tặc tử. Lúc phụ thân ta chưa từng phạm sai lầm nào, lại phải quỳ gối trên xe chở tù, bảy ngày không miếng cơm ngụm nước một đường quỳ tới Hồ Quảng, Triệu các lão chắc là đồng tình với hành vi qua cầu rút ván, vong ân phụ nghĩa của triều đình. Lúc ta bị thiến hoạn ép quỳ chỉ để đổi xe tù cho cha, Triệu các lão có lẽ cũng ủng hộ hoạn quan tàn hại trung lương.”
Hai người Tào, Lý nhất thời im lặng. Triệu Tuyên giận run người, đỏ mặt tía tai nắm chặt hai đấm định nhào lên đánh người.
Ông chẳng qua chỉ là một lão già gầy yếu, Bùi Thận lại là tướng lĩnh dày dặn kinh nghiệm sa trường. Y chẳng buồn bận tâm, nhàn nhạt nói: “Ta thì tính là loạn thần tặc tử gì chứ? Loạn thần tặc tử ở đâu lại bị đích thân hoàng đế ép phải tạo phản?”
Cơn oán giận Triệu Tuyên bỗng hơi nguội lại, ông đau buồn mắng: “Chỉ hận bệ hạ không sớm nghe lời ta!”
Bùi Thận lắc đầu: “Muộn rồi, bệ hạ đã băng hà.”
Ba vị lão thần lảo đảo đứng không vững. Dù biết Bùi Thận đã đến đây nghĩa là bệ hạ đã qua đời, nhưng nghe thấy tin xác thực rốt cuộc khiến họ không khỏi khiếp sợ.
Triệu Tuyên cũng không biết đang khóc hay cười, chỉ lẩm bẩm: “Bệ hạ, bệ hạ.” Dứt lời, ông gào khóc thật lớn, lao đầu đâm vào trụ tự vẫn.
Hai vị Các lão Tào, Lý thấy vậy, đồng thời nhắm mắt lại. Dù sao cũng là chỗ đồng liêu, hai người hơi có chút không đành lòng.
Bùi Thận thở dài: “Khi ta đến nơi, bệ hạ đã bị Hồng Đạt giết hại.”
Bệ hạ vô đạo, sớm đánh mất lòng trung thành của bầy tôi. Nhưng dù gì cũng là bậc vua cha, hai người nghe lời này, chỉ dư lại đầy bụng thẫn thờ.
Bùi Thận vẫy tay bảo lính gác bên ngoài khiêng Triệu các lão ra ngoài chôn cất, lúc này mới mở miệng nói với hai người còn lại: “Hôm nay ta vội vàng đến, có ba việc muốn nhờ hai vị làm thay.”
Hai người Tào, Lý có lẽ đã bàn trước với nhau, bấy giờ chỉ lẳng lặng nghe, không đồng ý, cũng không phản kháng.
Bùi Thận phảng như không hề nhìn thấy sự chống đối của hai người, tiếp tục mở miệng nói: “Thứ nhất, phụ thân ta sau khi đăng cơ, chắc chắn sẽ xóa bỏ toàn bộ Khoáng Giám Thuế Sứ trên cả hai kinh mười ba tỉnh. Kẻ làm nhiều việc ác chém ngay tại chỗ, lấy đầu tuần tự mang đến các phủ để bá tánh thiên hạ nhìn xem.”
Hai người nghĩ thầm đây là điều tất nhiên, lấy lòng dân chúng mà thôi.
“Thứ hai, mời hai vị ghi tin này lên công báo, một năm sau triều đình sẽ mở ân khoa, lấy thêm ba trăm tiến sĩ để lấp vào những vị trí quan chức còn trống.”
Tào các lão khẽ nhíu mày, đây là muốn thu nạp sự ủng hộ của giới học trò trong thiên hạ.
Bùi Thận bình thản nói tiếp: “Thứ ba, ta muốn hai vị triệu tập quan chức của sáu bộ ở Nam Kinh, đứng trước nha môn công khai phát lương bổng đang bị giam, trước hết cứ phát một tháng lương đã.”
Lý các lão biết đây là muốn thu nạp sự ủng hộ của giới quan lại. Bản thân ông tuy không thiếu tiền, nhưng cũng rất quan tâm đời sống của cấp dưới, liền không nhịn được nói: “Bạc Thái Thương phải dùng để nuôi quân và cứu trợ, lấy đâu ra tiền chứ?”
Tào Thanh khẽ thở dài, lòng dạ Lý Khiêm rốt cuộc vẫn còn nóng nảy lắm, mới bấy nhiêu đã không chịu nổi.
Bùi Thận ấm giọng đáp: “Trong mười hai kho của Bệ hạ chắc chắn sẽ có tiền, ngoài ra còn có tài sản bị tịch thu của thiến hoạn, ít nhất cũng được mấy vạn lượng.” Đây đã là nói giảm nói tránh rồi, chứ bắt tay vào xét nhà thật, có khi phải thu được tới mấy chục vạn lượng.
“Không biết ý hai vị Các lão ra sao?”
Tào Thanh cùng Lý Khiêm đồng thời im lặng.
Thủ đoạn của Bùi Thận cực kỳ đanh đá chua ngoa. Chỉ với ba việc này, lòng của bá tánh và giới trí thức đều nằm trong tay y. Quan lại cầm tiền của y thì phải làm việc cống hiến cho y, trong tay y lại còn nắm số lớn binh mã.
Thiên hạ này e rằng thật sự sẽ đổi người họ Bùi lên ngồi.
Tào các lão chợt thấy vô cùng hâm mộ. Nếu gia tộc ông cũng có con cháu xuất chúng thế này, đúng là có chết cũng yên lòng nhắm mắt.
Ông thở dài đáp: “Lão thần ba ngày nữa sẽ từ quan.” Ông lùi lại liền có thể giữ được danh tiếng cho Tào gia, rồi lại bảo con cháu trong nhà tham dự kỳ ân khoa năm sau.
Lý các lão trẻ tuổi hơn, lại vừa lên Các lão chưa được mấy năm, thật tình không nỡ rời đi. Ông đứng đó, vẻ mặt rối rắm phân vân.
Bùi Thận liếc mắt nhìn hai người, rồi mỉm cười nói: “Quốc triều vừa lập, vạn vật đổi mới, ắt cần những người lão luyện thành thạo cống hiến cho triều đình.” Dứt lời, y lại khuyên thêm ít câu.
Tào các lão chối từ không chịu, kiên quyết rời đi. Lý các lão lại thuận thang trèo xuống, hẹn với Bùi Thận muốn bước lên vị trí Thủ phụ. (4)
Bùi Thận thấy hai người đã đồng ý, cười nói: “Ta sẽ thỉnh phụ thân gia phong Lý các lão làm Thái bảo của Thái Tử, đứng vào hàng tam công.” Ngàn vàng mua bộ xương khô, đây xem như thời kỳ chuyển giao, những việc này sẽ làm yên lòng nhóm quan lại của triều đại cũ.
Lý các lão nghe vậy, cười đến căng cả rãnh nhăn trên mặt.
Binh quyền trong tay, sĩ dân quy thuận, quan lại phục tùng. Trận chiến Nam Kinh này xem như đã mở ra một khởi đầu tốt đẹp.