Vốn cần tới bảy ngày đường, vậy mà đến chiều ngày thứ tư nàng đã vượt qua con sông mây mù dày đặc, không lâu sau thì nhìn thấy cổng lớn màu đỏ tía của Vân mộng cốc.
Thiếp về rồi đây!
Tim nàng đập thình thịch, mồ hôi mồ kê ròng ròng nhưng đang được bao bọc trong niềm vui hạnh phúc.
Đi qua cửa lớn, nàng chỉ cười một cái với người giữ cửa đang há hốc mồm kinh ngạc rồi chẳng thèm xuống ngựa mà chạy thẳng tới Trúc Ngô viện.
Cửa viện đóng chặt.
Nàng mỉm cười. Tính tình của chàng chẳng thay đổi chút nào, vẫn cứ giữ bộ dạng chẳng muốn gặp ai.
Nàng đẩy cửa, chợt phát hiện cửa đã bị khóa, không khỏi nảy sinh chút cảm giác kỳ quái. Nàng đành gõ cửa. Một lúc lâu sau, cửa viện “két” một tiếng được đẩy mở, người mở cửa lại là Triệu Khiêm Hòa. Khuôn mặt Hà Y chợt tái đi.
“Cốc chủ…”, nàng run rẩy hỏi: “Không ở đây?”.
“Sở cô nương!”, Triệu Khiêm Hòa cũng giật nảy mình nói: “Mấy hôm trước bọn tôi vừa phái người đến Thái Nguyên tìm cô, sao hôm nay đã về tới rồi?!”.
“Chưa thấy ai tới tìm tôi cả! Tôi vừa áp tiêu xong, nhận được thư của cốc chủ liền quay về.”
“Thư của cốc chủ? Thư nào, gửi bao giờ? Viết gì thế?”, ông ta sốt ruột đến mức mồ hôi tứa ra ướt đẫm trán, rồi chẳng thèm để ý tới việc nam nữ thụ thụ bất thân, túm tay áo nàng kéo thẳng đến phòng khách. Tạ Đình Vân và Sái Tuyên đang ở đó.
“Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì rồi?”.
“Thư của cốc chủ, bọn tôi nhất định phải xem!”, Triệu Khiêm Hòa nói.
“Đó là thư riêng gửi cho tôi. Rốt cuộc là có chuyện gì?”, Hà Y lạnh lùng nói, vô thức sờ chuỗi hồng đậu đeo trên cổ.
Triệu Khiêm Hòa suy sụp tinh thần cúi gằm đầu xuống.
Tạ Đình Vân bước tới nói: “Triệu tổng quản, Sở cô nương là người trong võ lâm, gan dạ hơn người bình thường nhiều, chúng ta nên nói thật cho cô ấy biết.”
Hà Y lo lắng nhìn ba người, trong lòng biết Mộ Dung Vô Phong có chuyện rồi.
“Sở cô nương, cốc chủ mất tích rồi”, Tạ Đình Vân sầu thảm nói.
“Mất tích!”, Hà Y kinh hãi, “Lúc nào?”.
“Ba ngày trước”, Tạ Đình Vân đau xót nói.
Hai chân của Mộ Dung Vô Phong hoàn toàn bị liệt, đi nửa bước còn khó, không thể có chuyện chàng tự mình đi khỏi được. Huống chi từ trước đến giờ chàng đều không muốn người trong cốc phải lo lắng, bất kể là đi đâu cũng sẽ nói rõ từ trước.
Chàng mất tích, chỉ có một khả năng duy nhất, cũng là việc đã từng xảy ra, chính là bị kẻ khác bắt đi.
“Năm ngày trước người trong phủ cửu gia tới, nói rằng cửu gia lâm bệnh nặng. Cốc chủ nghe thế vội đi ngay trong đêm. Nơi cửu gia ở cách Thần Nông trấn không xa, bọn tôi đã phái hai mươi người đi cùng, hai mươi người này đều là cao thủ trong cốc. Tôi vốn cũng định đi cùng nhưng mấy ngày này thê tử của tôi đang lâm bồn, cốc chủ nhất định bắt tôi phải ở nhà”, ông ta ngừng một chút rồi nói tiếp, “Cốc chủ tới nhà cửu gia, xem bệnh cho lão nhân gia, rồi bốc thuốc, nói là không có gì đáng ngại, tới ngày hôm sau thì quay về. Cốc chủ chính là mất tích trên đường quay về. Cả một đoàn người, từ người đánh xe, tùy tùng cho tới cả ngựa đều trúng loại thuốc mê rất lạ. Đến khi mọi người tỉnh lại thì phát hiện ra cốc chủ đã không còn trên xe nữa.”
Hà Y thở ra một hơi khí lạnh: “Là Đường môn?”.
Tạ Đình Vân gật đầu, nói: “Không sai. Trên giang hồ, kẻ thù của Vân Mộng Cốc không nhiều, nhưng Đường môn lúc nào cũng như hổ đói gằm ghè chúng ta. Nhất là năm nay cốc chủ còn ra một cuốn Vân Mộng nghiệm án loại thuyết, bên trong có một chương chuyên nói về độc dược của các đại môn phái và phương pháp giải độc”.
Hà Y thở dài một tiếng, hỏi: “Thân thể chàng đã không được khỏe… mà cũng viết sách?”.
Tạ Đình Vân cười khổ nói: “Cốc chủ học thức uyên bác, lại thông minh cần cù hơn người, sách của người trước giờ bán chạy khắp thiên hạ, là thứ những người hành nghề y phải đọc. Từ xưa đến nay người luôn căm ghét nhân sĩ trên giang hồ vì thù oán nhất thời mà dùng độc hại đến người vô tội. Cho nên trong cuốn sách kia, người đã công bố một vài loại độc dược phổ biến và cách giải. Với nhiều loại độc dược kỳ lạ hiếm gặp của Đường môn, tuy người biết cách giải, nhưng cũng chiếu cố tới thể diện của Đường gia nên không hề đem viết vào trong sách. Nhưng kể cả như thế, việc này vẫn chọc giận tới Đường môn. Lúc cốc chủ tới gặp cô nương, dọc đường bọn tôi đều hết sức cảnh giác. Chỉ là sau khi quay về, cốc chủ cả ngày đều rất vui vẻ, phân phó bọn tôi chuẩn bị lo liệu… lo liệu… hôn sự. Bọn tôi cũng vui tới mức hồ đồ cho nên mới mất cảnh giác”.
Mặt Hà Y hơi đỏ lên, than rằng: “Nếu đúng là Đường môn, tôi nghĩ ông có đi cũng chẳng có cách gì. Thư của chàng viết từ một tháng trước, lúc ấy tôi còn đang áp tiêu bên ngoài, xem ra không có liên quan gì tới việc này”.
Triệu Khiêm Hòa nói: “Chúng tôi vẫn luôn đợi cô nương quay về”.
Hà Y nói: “Theo các vị thấy, rốt cuộc bọn chúng muốn làm gì chàng? Đổi lấy một món tiền lớn chăng?”.
Triệu Khiêm Hòa thở dài một tiếng: “Nếu như việc này có thể dùng tiền giải quyết, thì sớm đã giải quyết xong rồi. Nếu như có thể đổi cốc chủ về, kể cả là đem bán Vân Mộng cốc cũng chẳng thành vấn đề”.
Sái Tuyên nói: “Bây giờ tiên sinh đang nằm trong tay bọn chúng, chúng ta không thể hành động tùy tiện”.
Hà Y run giọng nói: “Bọn chúng… bọn chúng có hành hạ chàng không?”.
Ba người kia đột nhiên cùng im lặng, cúi gằm đầu xuống.
Tim Hà Y chùng hẳn xuống: “Bọn chúng dọa là sẽ hại chàng, đúng không?”.
Ngập ngừng hồi lâu, Tạ Đình Vân mới ngẩng đầu, mặt mày đau xót, nói từng chữ một: “Có thể bọn chúng đã hại cốc chủ rồi”.
“Ông nói sao?”, Hà Y run bắn người, gần như không đứng nổi nữa.
“Sở cô nương, cô không sao chứ?”.
Hà Y bình tĩnh lại, nói: “Không sao. Gan của tôi không nhỏ. Bất kể đã có chuyện gì, xin các vị nhất định phải nói cho tôi biết chân tướng”.
Tạ Đình Vân sa sầm mặt mày, nói: “Được. Sở cô nương xin đi cùng tôi”.
Bốn người lặng lẽ ra khỏi cửa viện rồi rẽ trái, đi trên một hành lang khác. Đi cũng không xa bỗng thấy một cánh cửa nhỏ màu lục. Hà Y không quen thuộc lắm với địa hình Vân Mộng cốc, những nơi từng biết tới, đa phần cũng chỉ trong Ngô Trúc viện. Cánh cửa nhỏ này nàng chưa từng thấy qua.
“Nơi đây gọi là ‘Băng thất’, là nơi cốc chủ từng tới nhưng nhất định là chưa từng nhắc tới với cô nương”, Triệu Khiêm Hòa nói.
Cửa phòng mở ra, bên trong là một bờ dốc thoai thoải, một bên là bậc thang, song song với bậc thang là một đường dốc trơn phẳng, hai bên đều có tay vịn và lan can, lại buộc lụa trắng, hiển nhiên là để Mộ Dung Vô Phong chuyên dùng.
Bốn người xuống đáy dốc, lại có một cánh cửa, cạnh cửa có một tủ áo, mỗi người đều từ trong ngăn tủ của mình lấy ra một tấm áo da rồi khoác vào. Sái Tuyên lấy từ một ngăn trong đó ra một tấm áo lông chồn tuyền một màu trắng đưa cho Hà Y, nói: “Đây là của cốc chủ, xin cô nương mặc vào, bên trong rất lạnh”.
Mặc xong áo, mở cánh cửa đó ra, một luồng hơi lạnh buốt phả thẳng vào mặt.
“Có ba nam nhân chúng tôi ở bên cạnh, hy vọng cô nương không cần sợ. Nơi đây chuyên dùng để các đại phu giải phẫu, nghiên cứu các chứng bệnh. Bên trong lưu trữ không ít thi thể vô danh. Thường thì cốc chủ hễ đến đây là ở liền một mạch mấy canh giờ. Chứng phong thấp của ngài không khỏi nổi mà còn càng ngày càng nặng cũng có liên quan tới chuyện này.”
Hà Y chợt hiểu vì sao Mộ Dung Vô Phong có bệnh ưa sạch rồi.
Lúc mở cánh cửa cuối cùng ra, bên trong là một khoảng không gian rộng và cũng rất sáng sủa, bốn bức tường xung quanh đều thắp những ngọn nến lớn.
Trong căn phòng lạnh lẽo buốt xương đặt khá nhiều bàn đá, có vài cái để trống.
Người là người chết. Nam có, nữ có.
Mọi người đi vòng qua bàn đá tới một gian phòng khác nhỏ hơn, trên cái bàn đá giữa phòng có đặt một hộp gấm hình chữ nhật. Như Hà Y thấy, nó giống như hộp chứa đàn mà những người phú quý thường dùng.
Ba người đồng loạt quay qua nhìn Hà Y, thần sắc cực kỳ nặng nề, không ai nói gì.
Tựa như cảm thấy mình sắp phải nghe một tin cực kỳ tồi tệ, Hà Y không tự chủ được, lùi lại dựa lưng vào tường.
“Lão Tạ, ông nói đi”, Triệu Khiêm Hòa thở dài, cuối cùng cũng mở miệng.
“Xin lỗi, tôi biết đây là một tin rất tồi tệ, có điều cô nương không thể không biết.”
Hà Y nhìn ông ta, nói: “Nói đi”.
“Bọn chúng đã chặt một chân của cốc chủ, bỏ vào cái hộp này gửi tới đây”, Tạ Đình Văn nhìn nàng chằm chằm không chớp mắt, rồi đưa tay ra phòng trường hợp nàng đột nhiên ngất đi.
Thân hình Hà Y lay động, nói: “Mở hộp ra, để tôi xem xem”.
Trong hộp quả nhiên có một cái chân, một cái chân gần như hoàn chỉnh.
Nếu là một cánh tay, có thể Hà Y sẽ không nhận ra ngay lập tức, nhưng chân của Mộ Dung Vô Phong vốn không giống người thường.
Tạ Đình Vân hít thật sâu, nói: “Từ nhỏ hai chân của cốc chủ đã tàn phế, tuy người sớm đã quen với sự bất tiện ấy nhưng đối với sự tàn phế của mình, từ trước đến giờ người đều rất kiêng kị. Người tuyệt đối không dễ dàng để người khác chạm vào người mình”.
Triệu Khiêm Hòa nói: “Cho nên ở trong cốc, những người từng nhìn thấy đôi chân của cốc chủ cũng chỉ có mấy người chúng tôi đây mà thôi”.
Sái Tuyên nói: “Người cuối cùng nhìn thấy đôi chân của cốc chủ khi người còn ở trong cốc là tôi, đó là hơn một năm trước. Có điều tôi nhớ rất rõ, chân của người không hề có những vết sẹo lớn như thế. Cho nên cái chân này… liệu có phải là giả không?
Nói xong, ba người cùng quay sang nhìn thẳng vào Hà Y. Mọi người đều biết, mấy tháng trước Mộ Dung Vô Phong đã đi Thái Nguyên.
Hà Y nhắm mắt lại, nhẹ nhàng sờ vào cái chân lạnh giá, dường như nó vẫn đang nằm trên người Mộ Dung Vô Phong, run rẩy nói: “Trên chân chàng đúng là có vết sẹo này. Tôi còn từng hỏi chàng”.
Sái Tuyên vẫn chưa bỏ cuộc, lại nói: “Sẹo cũng có thể làm giả”.
Hà Y nói: “Móng chân cũng là do tôi cắt. Tôi có thủ pháp dùng dao của riêng mình”.
Tạ Đình Vân tuyệt vọng nói: “Nói như vậy, đây… khẳng định là chân của cốc chủ”.
Hà Y gật đầu.
Gốc của chân có dùng một mảnh vải lụa che lại. Hà Y căn bản không dám đưa mắt nhìn về hướng đó, càng không dám mở tấm vải ra xem kỹ. Nàng cảm thấy bản thân mình đã tới ranh giới của sự suy sụp.
Ba người kia lặng lẽ nhìn khuôn mặt nàng tái nhợt đi, mồ hôi lạnh túa ra đầy đầu, ngực phập phồng gấp gáp.
Qua một lúc lâu, nàng mới từ từ định thần lại hỏi: “Vết thương ấy, Sái đại phu, ông có nhìn ra vết thương ấy gây ra thế nào không?”.
“Dùng đao. Một đao chặt đứt.”
Nàng cắn chặt môi tới sắp bật máu, sau đó lại hỏi tiếp một câu:
“Sau khi chịu một đao này, thân thể chàng còn có thể chịu đựng nổi không?”.
Sái Tuyên nói: “Vết thương như thế này, cho dù là người thường, nếu không được chữa trị kịp thời thì khả năng sống sót là rất thấp, huống chi thân thể tiên sinh vốn thiếu máu, lại còn những bệnh khác nữa”.
Hà Y nói: “Nhưng đây là Đường môn. Nếu Đường môn không muốn để một người chết, nhất định sẽ có cách, đúng không?”.
Người trên giang hồ đều biết, Đường môn luôn thích kết thân với các đại y gia, độc dược vốn cũng thuộc về y học. Những cao thủ điều chế độc trong Đường môn toàn bộ đều tinh thông y thuật.
Sái Tuyên nói: “Đương nhiên. Nếu bọn họ muốn tiên sinh chết, kỳ thực không cần phí công phí sức đến vậy, làm thế này có lẽ là mang hàm ý uy hiếp”.
Hà Y nói: “Vô Phong chàng… chàng rất ít nói với tôi về chuyện Đường môn. Thực lực của Vân Mộng cốc so với Đường môn rốt cuộc ra sao?”.
Tạ Đình Vân nói: “Cốc chủ từ trước tới nay không có ý đưa Vân Mộng cốc gia nhập bất cứ kệ phái nào trên võ lâm cả, người chỉ luôn muốn biến nơi đây thành một y cốc theo đúng nghĩa. Hơn nữa nhân khẩu trong cốc hoặc là đại phu tay trói gà không chặt và gia quyến của họ, hoặc là các gia nhân cũ. Mấy năm gần đây tuy thu thập không ít nhân thủ nhưng cốc chủ… cốc chủ chung quy vẫn không muốn vì việc ấy mà chiêu binh mãi mã, gióng trống khua chiêng. Cho nên nói tóm lại, chúng ta tài lực hơn Đường môn, nhưng về võ lực thì kém xa. Đây cũng là lý do mấy năm nay chúng ta không tùy tiện va chạm với bọn họ”.
Hà Y đóng cái hộp lại, nói: “Bây giờ chúng ta phải bàn bạc xem nên làm thế nào”.
Ba người kia nghe thấy đều thầm kinh ngạc.
Nữ nhân này quả nhiên không tầm thường! Trong lúc nguy cấp như thế mà nàng vẫn cực kỳ bình tĩnh, còn có thể bàn bạc.
Tạ Đình Vân nói: “Chúng ta không thể tùy tiện hành động. Đường môn chỉ đưa đến một chân của cốc chủ, cũng không hề nêu điều kiện gì, rõ ràng bọn chúng không định trả cốc chủ lại cho chúng ta”.
Sái Tuyên nói: “Bởi vì chỉ có giữ tiên sinh lại Đường môn, tất cả công thức độc dược và bí mật dùng độc của bọn chúng mới được an toàn. Thậm chí bọn chúng có thể ép tiên sinh điều chế, nghiên cứu cho bọn chúng những loại độc dược lợi hại hơn”.
“Những việc ấy liệu chàng có đồng ý không?”, Hà Y hỏi.
“Tuyệt đối không. Cốc chủ ghét cay ghét đắng độc dược, mỗi một học sinh của người, trước khi nhập môn đều phải thề cả đời sẽ không phối chế hay sử dụng bất cứ loại độc dược hại người nào. Thật ra trong cốc có mấy vị đại phu tinh thông giải độc, để họ phối chế một hai loại độc dược không hề khó”.
Triệu Khiêm Hòa nói: “Gần mười năm nay, vì có Vân Mộng cốc mà Đường môn không gượng dậy nổi, địa vị trên giang hồ tụt xuống ngàn trượng. Muốn quật khởi trở lại, việc đầu tiên bọn họ phải làm là đối phó cốc chủ”.
Tạ Đình Vân nói: “Chúng ta không thể dùng sức, chỉ có thể phái người trà trộn vào Đường môn tìm cốc chủ, lén cứu người ra ngoài. Tôi đã chuẩn bị kế sách liên hoàn. Để Triệu, Quách hai vị tổng quản đưa người tới Đường môn bàn điều kiện, đánh lạc hướng bọn chúng; cùng lúc đó tôi sẽ dẫn người đột nhập Đường môn cứu cốc chủ”.
Hà Y lập tức nói: “Người Đường môn thấy trong đám người đàm phán không có ông sẽ lập tức nghi ngờ. Ba người các vị ở ngoài đánh lạc hướng bọn chúng, việc bên trong để tôi lo liệu”.
Tạ Đình Vân cười nói: “Đây chính là lý do bọn tôi một mực muốn chờ cô nương quay về. Vào lúc như thế này, người có thể cứu được cốc chủ e là chỉ có mình cô nương”.
Hà Y nói: “Tôi cần hai trợ thủ, không thể là ông nhưng võ công không được kém ông”.
“Được”.
“Tôi cần một bọc đồ, bên trong có ba món đồ: thứ nhất, tất cả những thứ có thể giúp chàng tạm thời trì hoãn thương thế, bảo vệ tính mạng. Thứ hai, ba bộ y phục thường ngày của chàng. Thứ ba, thuốc giải độc hữu hiệu nhất.”
“Sái đại phu sẽ lập tức chuẩn bị tốt.”
“Tôi muốn hai loại độc dược, một loại dùng để thoa lên vũ khí, một loại dùng để giết người, còn cả thuốc mê lợi hại nhất nữa.”
“Thuốc mê không thành vấn đề. Còn độc dược…”, Sái đại phu do dự nói.
Hà Y nói: “Vô Phong là đại phu, Sở Hà Y tôi không phải. Các vị yên tâm những thứ ấy tôi sẽ dùng nhưng tuyệt đối không để chàng biết”.
“… Vâng.”
“Sau cùng, cũng là quan trọng nhất. Tôi cần một tấm bản đồ của Đường môn. Càng chi tiết càng tốt, bất kể phải bỏ ra bao nhiêu tiền, các vị cũng phải tìm cách kiếm cho được.”
Tạ Đình Vân nói: “Thứ đó bây giờ tôi sẽ có cách.”
Hà Y chằm chằm nhìn ông ta, hỏi: “Ngay bây giờ ông sẽ có cách?”.
Tạ Đình Vân nói: “Sở cô nương có lẽ là vẫn chưa từng gặp thê tử của tôi”.
“Thê Tử của ông.”
“Trước khi gả cho tôi cô ấy gọi là Đường Phi Yên, đứng thứ hai trong Đường gia. Là chị ruột của Đường Tam.”
Hà Y chợt nhớ lại lần đầu tiên giao thủ với Tạ Đình Vân chính là do bị hiểu nhầm là người của Đường môn.
Dung Vũ các.
Tạ Đình Vân dẫn Hà Y đến một gian phòng ngủ ấm áp.
Lúc bước vào phòng, Hà Y nhìn thấy hai cậu bé chưa tới mười tuổi đang chạy loạn khắp nơi.
“Đây là hai đứa con của tôi”, khuôn mặt của Tạ Đình Vân lộ ra vẻ tự hào.
Ông ta nói tiếp: “Còn có hai đứa trong bụng mẹ chúng nó nữa. Ngô đại phu nói cũng là con trai, song sinh”.
Hà Y vội nói: “Chúc mừng, chúc mừng”.
Thị nữ kéo rèm lên, Hà Y nhìn thấy một phụ nữ mỹ lệ nằm trên giường. Nàng kinh ngạc nhận ra người phụ nữ này chỉ có một cánh tay phải, cô đang cố gắng đỡ lấy cái bụng lớn. Cánh tay phải đã cụt tới vai.
Tạ Đình Vân vội kéo ghế cho Hà Y, bản thân mình thì ngồi lên giường, ngắm người phụ nữ, nhẹ nhàng nói: “Phi Yên, vị này là Sở cô nương mà ta từng kể với nàng, cô ấy sắp là Mộ Dung phu nhân rồi”.
Người phụ nữ kia quay mặt lại, có chút ngượng ngùng nhìn Hà Y, nói: “Sở cô nương, xin lỗi, thân thể tôi hiện thực sự quá nặng nề, không sao… không sao thi lễ được”.
Hà Y áy náy nói: “Thật xin lỗi, giờ này tôi thực không nên làm phiền phu nhân…”
Người phụ nữ đó vẻ mặt dịu dàng nói: “Cô nương nói gì thế? Nếu không phải năm đó cốc chủ chịu thu nhận bọn tôi, chỉ sợ tôi và Đình Vân sớm đã thành quỷ dưới đao của Đường môn rồi”, cô ta lấy từ bên giường ra một tấm bản đồ da dê, thần sắc chợt chuyển thành nghiêm túc: “Cô nương có lẽ đã biết, Đường môn đã có lịch sử ba trăm năm trên giang hồ”.
Hà Y gật đầu.
“Cho nên mặc dù những năm gần đây uy danh của bọn họ suy giảm trầm trọng, nhưng chính như cái gọi là con rết trăm chân chết rồi vẫn còn ngọ nguậy, Đường môn tuyệt đối không phải là nơi mà người khác có thể dễ dàng tiến vào được.”
Cô ta chỉ vòng tường ngoài mép bản đồ, nói: “Bức tường này cao mười trượng, bên trên cây thanh đằng leo bám đầy, dưới tường là một con hào. Nước trong hào có độc, cây thanh đằng trên tường cũng có độc”.
Hà Y nói: “Cho nên nếu tôi muốn tiến vào trong sẽ rất nguy hiểm”.
“Với võ công của cô nương, từ đây tiến vào sẽ không nguy hiểm nhưng sẽ nhanh chóng bị phát giác. Bốn phía đều có vọng gác và chó canh. Địa hình của Đường môn rất giống với Vân Mộng cốc, ba mặt tựa núi đều là những vách núi dốc đứng cao vạn trượng, bên ngoài là sông lớn. Con đường tiến vào trong trống trải, dễ thủ khó công.”
Hà Y nhìn bản đồ, nói: “Tôi có thể men theo núi tiến vào, như thế sẽ không bị người khác phát hiện”.
Tạ Đình Vân nói: “Ý cô là, trèo lên từ vách núi dựng đứng tới đỉnh rồi lại trèo xuống?”.
“Ừm.”
“Đây cũng là một biện pháp.”
“Điều tôi cần biết bây giờ là, bọn chúng có thể giam giữ Vô Phong ở nơi nào?”
Đường Phi Yên nói: “Những vòng tròn đỏ này là ký hiệu của tôi, đều là những nơi có khả năng. Có điều có khả năng nhất chỉ có hai nơi. Nếu các vị tổng quản định đến Đường môn đàm phán, bọn họ nhất định sẽ áp giải cốc chủ tới một trong hai nơi ấy”.
Hà Y nhìn hai nơi ấy, nhận thấy hai chỗ đó cách nhau rất xa.
“Một chỗ ở phía đông, là một căn phòng hình tròn, bên trong có ba vị tiền bối võ công cao cường nhất Đường môn tọa trấn. Rất có thể bọn chúng sẽ giao cốc chủ cho bọn họ trông coi. Chỗ kia ở phía tây, đi theo cánh cửa này vào lòng đất, là một thủy lao. Nơi đó tổng cộng có mười gian. Bên trong giam cầm phản đồ và kẻ thù của Đường môn. Có nhiều người đã bị giam từ rất lâu rồi.”
Nói xong cô ta cười thảm một tiếng, nói: “Gia pháp của Đường môn đương nhiên cô nương đã từng nghe qua. Cánh tay này của tôi chính là bị bá phụ chấp hành gia pháp mà chặt đi. Nếu tôi bị người của Đường gia bắt về, sẽ bị nhốt trong thủy lao cho tới chết”.
Tạ Đình Vân nói: “Tôi không nghĩ rằng cốc chủ bị nhốt trong thủy lao. Nếu người thật sự bị nhốt ở đấy, chỉ sợ đến một ngày cũng không chịu nổi”.
Đường Phi Yên tiếp tục nói: “Đặc điểm của thủy lao chính là nằm dưới lòng đất, một khi cửa lớn đã bị khóa, ai cũng không thể tiến vào được. Người canh gác ở đây thực ra không nhiều. Trừ con cháu Đường gia, người ngoài tuyệt đối không biết vị trí thủy lao”.
Hà Y đột nhiên hỏi: “Phu nhân nói xem, liệu bọn họ có dự liệu được việc phu nhân biết vị trí hai nơi ấy mà đưa cốc chủ tới giam ở nơi khác không?”.
Đường Phi Yến nói: “Chưa chắc. Một là phản đồ của Đường môn không phải chỉ có mình tôi, hai nơi này vốn thiết kế để giam giữ kẻ khác, cạm bẫy trùng trùng, phòng vệ nghiêm ngặt, kể cả bị người khác biết, muốn vào được để rồi thoát ra cũng cực kỳ khó khăn. Những nơi khác thì lại không hoàn toàn chắc chắn”.
Hà Y nói: “Nói như vậy thì tôi sẽ phải chia binh làm hai đường, một đi tìm tam đại cao thủ, một tới thủy lao?”.
Đường Phi Yên lắc đầu hỏi: “Có bao nhiêu người sẽ đi cùng cô nương?”.
“Hai người”.
“Ba người liên thủ đối phó với ba đại cao thủ này e là vẫn rất khó. Hai người tới thì chỉ có thể chết uổng. Ba vị tiền bối này không những võ công cao cường mà còn giỏi dùng độc dược.”
Hà Y gật đầu nói: “Nếu như tôi đã cứu được chàng, vậy làm thế nào để ra ngoài?”.
Đường Phi Yên cười khổ: “E là cô nương chỉ có thể theo đường mình tiến vào để trở ra mà thôi”.
Hà Y nói: “Như vậy không được đâu. Lúc quay trở ra bọn tôi còn phải đem theo một người hoàn toàn không thể đi lại được. Trở ra theo lối đó thì quá khó. Đến lúc ấy tôi sẽ xem tình hình mà nghĩ biện pháp vậy”.
Đường Phi Yên nói: “Tôi rời khỏi Đường môn đã mười mấy năm, bản đồ này giờ có thể có chút sai khác nhưng thay đổi sẽ không quá lớn”.
“Vì sao vậy?”
“Các gia tộc lâu đời thích giữ gìn truyền thống, không thích thay đổi. Mỗi khi Đường môn muốn xây một kiến trúc mới đều sẽ nghĩ tới việc kiến trúc đó có thể dùng tới trăm năm.”
Tối đó, Tạ Đình Vân báo cho Hà Y biết, những thứ nàng cần đều đã được chuẩn bị ổn thỏa.
“Đây là mười viên thuốc giải độc, bây giờ cô nương uống vào, đến lúc đó, đa số độc dược của Đường môn sẽ không thể ảnh hưởng tới cô.”
“Kiếm của cô nương đã được thoa lên một loại độc được gọi là ‘Hoa Tiếu’. Không nên tùy tiện rút ra, mũi kiếm chỉ cần vạch một vết thương nhỏ trên da bất kỳ ai thì người đó sẽ lập tức mất mạng. Nhưng cô cũng không cần phải lo, cô chỉ cần uống thuốc giải trước là được. Nếu cô muốn giải trừ độc trên kiếm cũng rất dễ.”
“Viên thuốc màu đỏ này gọi là ‘Hoan Tâm’. Là một loại thuốc mê cực kỳ hữu hiệu, chỉ cần bỏ vào đèn hay nến mê dược lập tức sẽ theo khói tản ra. Người hít phải nó sẽ lập tức gục ngã, ba ngày sau mới có thể tỉnh lại.”
Hà Y kiểm tra tất cả một lượt rồi bỏ vào trong bọc, nói: “Ai sẽ đi cùng tôi?”.
Tạ Đình Vân chỉ hai thanh niên áo xám đang đứng trong phòng khách: “Chính là hai người họ”.
Hà Y nhìn một lượt nói: “Tôi từng gặp một người trong đó”.
“Không sai. Hắn chính là một người trong Tam tinh tam sát, tên gọi là Sơn Thủy. Hiện là người làm vườn trong cốc.”
“Hắn không phải là người của Đường môn sao?”
“Hắn chỉ là một sát thủ mà thôi. Sát thủ giết người chỉ xem giá tiền, không thuộc về bất kỳ môn phái nào cả. Huống chi hắn hiện giờ cũng đã đổi nghề rồi.”
“Cốc chủ biết việc này sao?”
“Chính cốc chủ nhận hắn vào cốc. Cốc chủ nói, Sơn Thủy là bằng hữu của người.”
“Chàng cũng có bằng hữu sao?”, Hà Y không khỏi có chút kinh ngạc rồi hỏi: “Người kia thì sao?”.
“Người kia là biểu đệ[1] của Sơn Thủy.”
[1] Biểu đệ: Em trai con dì con cậu
“Biểu đệ? Hắn không có tên gọi nào khác sao?”
“Không có. Hắn vào cốc cùng Sơn Thủy. Cùng ở một phòng, cùng làm vườn.”
Hà Y nhìn hai người áo xám, nói: “Chúng ta sẽ lên đường ngay đêm nay”.
Hai người đồng thanh đáp: “Vâng”.
Hà Y nói: “Nếu ba người chúng ta chia ra hành động, các vị chỉ cần tùy cơ ứng biến, nếu ba người chúng ta đi cùng nhau thì sẽ nghe theo lệnh của tôi”.
“Được”, hai người kia đáp rõ ràng.
Hà Y lại nói: “Huynh gọi là Sơn Thủy, biểu đệ của huynh tên gọi là gì?”.
“Gọi tôi là ‘Biểu đệ của Sơn Thủy’, hoặc gọi tắt là ‘Biểu Đệ’”, Biểu Đệ đáp.
Mưa nhỏ dai dẳng rả rích suốt cả ngày hôm đó.
Ba người Hà Y đã vào tới đất Thục.
Bọn họ bỏ ngựa thuê thuyền, chèo thuyền trên một con sông gọi là Tố Long Thủy.
Suốt chặng đường Hà Y không nói một lời, trước khi đi chỉ dặn dò hai người Sơn Thủy nhớ kỹ bản đồ Đường Phi Yên vẽ, lúc gần tới đất Thục nàng liền đem hủy tấm bản đồ.
Thuyền đi ngược dòng, làn mưa vừa lạnh vừa dày sớm đã nhuốm ướt mái tóc của Hà Y. Nàng kéo chuỗi hạt hồng đậu trên cổ từ trong áo ra, đưa lên hôn nhẹ vào nó. Tựa như đang tiến hành một nghi thức gì đó, miệng nàng lẩm nhẩm niệm.
Trời tối dần. Lúc lên thuyền tới chân một ngọn núi, nàng khẽ nói: “Lên”.
Ba bóng đen vút đi mười trượng, tựa như thạch sùng bám trên vách núi mà trèo lên.
Trong lòng Hà Y không khỏi thầm cảm thấy may mắn. Tạ Đình Vân nói không sai, khinh công của hai người này quả nhiên rất tốt.
Việc tiếp theo vừa căng thẳng lại vừa nhàm chán: leo núi. Giẫm lên bất cứ cạnh đá nào có thể đặt chân, bám vào bất cứ bụi cây nào có thể bám. Gần tới giờ Tý nửa đêm, ba người cuối cùng cũng đã lần lượt đặt chân lên đỉnh núi.
Từ trên đỉnh núi nhìn xuống, tường thành của Đường môn sừng sững lặng lẽ ẩn trong bóng đêm. Ánh đèn bên trong dưới cơn mưa cực kỳ leo lét, tối tăm.
Theo kế hoạch, ba người đã tìm thấy cửa vào thủy lao nọ. Bọn họ dự định sẽ ra tay ở đây trước, bởi vì nơi này xem ra khá yên ắng, cho dù Mộ Dung Vô Phong không ở đây, bọn họ đi vào kiểm tra một vòng cũng sẽ không gây ra động tĩnh gì lớn. Nếu như tìm tới ba đại cao thủ kia trước, xảy ra đánh nhau, chỉ sợ sẽ kinh động tới toàn bộ người trong cốc.
Cửa vào hầm ngục là một cánh cửa nhỏ xem thì cực kỳ bình thường, gần giống một cái cửa phòng bếp, chỉ khép hờ.
Hà Y nói với Biểu Đệ: “Huynh ở ngoài này trông chừng. Tôi và Sơn Thủy tiến vào”.
Hai người vô thanh vô tức lẻn vào.
Phía cuối của căn phòng nhỏ là một cánh cửa đá nặng nề. Dưới ánh đèn leo lét, Hà Y phát hiện bên cạnh cửa có một bánh xe tròn lớn, nàng vận sức kéo nó một cái, cánh cửa kia chầm chậm chuyển động, lộ ra một khe cửa. Một chút ánh đèn từ trong khe cửa hắt ra.
Không cần nói cũng biết, bên trong có người.
Hai người lách qua khe cửa tiến vào. Sau cánh cửa là một hành lang dài, một con dốc dài, tận cuối con dốc lại là một cánh cửa nhưng chỉ là cửa gỗ mà thôi.
Cánh cửa gỗ này chỉ khép hờ, Hà Y đẩy cánh cửa liền nhìn thấy một người trung niên ngồi cạnh bàn. Người này trông rất nho nhã, rất ôn hòa, cứ như là một người đọc sách chân chính.
Trên tay ông ta cũng cầm một cuốn sách, vừa nghe thấy có tiếng động liền ngẩng đầu, dùng đôi mắt đen thâm trầm nhìn hai người họ, rất khách khí nói: “Xin chào hai vị”.