Nàng giữ chặt cho mắt mình mở, luôn cố gắng quay mặt về phía vầng mặt trời. Nàng có cảm giác, dường như trước khi hòa vào con sông, nàng và Mộ Dung Vô Phong sẽ tan trong ánh dương đang lên cao.
Đang thất thần, đột nhiên có ai đó kích vào người nàng, khiến nàng bay về một hướng khác. Chưởng lực này đã làm giảm lực rơi cùng tốc độ rơi cực lớn của nàng và Mộ Dung Vô Phong.
Sau đó, rất đột ngột, Hà Y cảm thấy bản thân nhẹ bẫng đi, một thanh kiếm cắt đứt dải áo buộc nàng và Mộ Dung Vô Phong, chàng đã tuột khỏi lòng nàng!
Nàng hoảng hồn tái mặt, phất ống tay áo một cái, dải lụa trắng bay ra, lại cuốn lấy chàng. Nhưng một bóng đen đã cắp lấy Mộ Dung Vô Phong, nhún mình một cái, lộn hai vòng trong không trung rồi từ từ đáp xuống một chiếc thuyền nhỏ. Hà Y vừa lo vừa giận, điểm nhẹ chân vào vách đá, phóng đuổi theo. Cuối cùng nàng cũng nhẹ nhàng đáp xuống chiếc thuyền đó.
“Cô vợ nhỏ, không nghĩ ngợi gì đã nhảy xuống sao? Thằng chồng nhỏ của ngươi rõ ràng vẫn chưa chết mà!”.
Hà Y nhìn kỹ một lượt, bỗng đâu trên thuyền đã có hai người, một áo đen, một áo trắng, chính là hai người nàng và Mộ Dung Vô Phong từng gặp trên đỉnh Thần Nữ.
“Chàng… chàng thật sự chưa chết sao?”, Hà Y vừa thương tâm quá độ, giờ không nén được mà vui mừng, bèn nhẹ nhàng giữ lấy cổ tay Mộ Dung Vô Phong, quả nhiên mạch của chàng vẫn khẽ khàng đập.
Nàng không biết rằng con tim của Mộ Dung Vô Phong đúng là đã ngừng đập, lúc nàng ôm chàng nhảy xuống, trái tim chàng đột ngột bị hẫng một cái, tựa như chịu kích thích đột ngột, đã lại đập trở lại.
Nhìn chàng chăm chăm một lúc, Hà Y lại khóc lớn, nói: “Chàng như thế này… cũng không biết còn có thể chịu đựng được thêm bao lâu nữa, không bằng để bọn tôi chết cùng nhau, một lần là xong hết”.
Người áo trắng nói: “Nếu ngươi bằng lòng giao hắn cho bọn ta, ta bảo đảm hắn tạm thời chưa chết được, có lẽ còn có cơ chuyển biến”, lúc nói, tay của ông ta vẫn luôn áp vào lưng Mộ Dung Vô Phong, dường như đang truyền cho chàng một loại chân khí nào đó.
Hà Y nói: “Ông muốn nói… ông muốn nói ông có thể cứu được chàng?”.
Người áo trắng nhìn nàng chằm chằm, một lúc sau mới từ từ gật đầu.
Cũng không biết là do quá vui mừng hay là do cuối cùng cũng có hy vọng, Hà Y kích động tới mức toàn thân run rẩy, nói: “Ông muốn đưa chàng đi đâu?”.
Người áo trắng nói: “Thiên Sơn”.
“Thiên Sơn?”, nàng sững người, rồi lại sợ ông ta đổi ý vội nói: “Được, ông đưa chàng đi. Có điều tôi cũng sẽ đi theo”.
Người áo trắng nói: “Đương nhiên ngươi có thể đi theo, nhưng ngươi đi quá chậm so với ta”.
Hà Y đương nhiên từng được thấy võ công và khinh công của hai người này.
Người áo đen nói: “Ông mang tên tiểu tử này đi trước. Ta với cô vợ nhỏ sẽ theo sau”.
Người áo trắng gật đầu rồi lại nhìn Hà Y nói: “Ngươi có đồng ý không?”.
Hà Y cắn môi, ngập ngừng hỏi: “Ông… ông bảo đảm chàng sẽ không… sẽ không…”.
Người áo trắng nói: “Ta sẽ cố hết sức”.
Hà Y nói: “Thế thì… thế thì ông đi đi”.
Lời của nàng vừa dứt, người áo trắng đã cắp Mộ Dung Vô Phong tung người khỏi chiếc thuyền, hai chân điểm nhẹ trên nước, nhấp nhô mấy cái đã hoàn toàn biến mất trong khói sóng.
Thiên Sơn.
Từ nhỏ Hà Y đã theo một đám nghệ nhân vào nam ra bắc, lớn lên thì một mình áp tiêu, kể cả trung nguyên lớn như thế, nơi nàng chưa từng đến thực sự rất ít.
Nhưng Thiên Sơn trong tâm tưởng của nàng thì chỉ là một nơi xa xôi trong thần thoại mà thôi.
Vùng đất này thuộc quyền quản hạt của nước Vu Điền Hắc Hãn, ngày xưa gọi là Tây Vực. Không ít người Hán ở đây là phạm nhân do triều đình lưu đày tới.
Gần một trăm năm nay, truyền thuyết trên giang hồ về dải đất ấy, đại khái chỉ giới hạn về những việc liên quan tới Thiên Sơn Băng vương và Côn Lôn nhị lão mà thôi.
Nếu không phải hai mươi năm trước đột nhiên xuất hiện một Thiên Sơn Băng vương oanh oanh liệt liệt đánh bại Quách Phi Các, truyền nhân của “Cao Dương thiết kiếm”, hay một năm trước “Côn Lôn song kiếm” bỗng dưng quật khởi thì chỉ sợ người trên giang hồ cho tới bây giờ vẫn không chịu tin, tại nơi xa xôi nhường ấy, những kiếm khách thần bí trong thần thoại kia vẫn tồn tại.
Những kiếm khách ấy ít khi đặt chân lên trung thổ nhưng mỗi lần tới đều tạo nên một cơn oanh động.
Những cơn “oanh động” ấy làm sống lại ký ức đã bị giang hồ dần dần quên lãng, khơi lại sự kính trọng của họ với mảnh đất thần bí này.
Từ trận chiến ở Phi Diên cốc hai mươi năm trước, Thiên Sơn đã trở thành thánh địa mà kiếm khách trong thiên hạ hướng về.
Nghe nói, cứ cách mấy năm lại có một vài thanh niên nhiệt huyết, không quản ngại xa xôi mà tìm tới Thiên Sơn mong gặp Băng vương, chỉ vì muốn gặp ông ta một lần, thử kiếm thuật của chính mình.
Đương nhiên, bọn họ chưa tìm thấy, cũng chẳng bao giờ gặp được Băng vương.
Băng vương đương nhiên chỉ là ngoại hiệu của ông ta mà thôi, chẳng có ai biết được tên tuổi thật sự của ông ta.
Dọc đường, tâm tư của Hà Y hoàn toàn chẳng đặt vào mấy truyền thuyết trên giang hồ. Nàng quất ngựa thục mạng, trong lòng chỉ nghĩ tới sự an nguy của Mộ Dung Vô Phong mà thôi.
Người áo đen kia vốn rất lắm lời, cũng rất thích trêu đùa, nhưng nhìn bộ dạng như mất hồn, hỏi một đằng đáp một nẻo của nàng, cũng chẳng buồn nói chuyện với nàng nữa. Vậy là hai người gần như chỉ có một việc, thúc ngựa chạy, rồi lại thúc ngựa chạy. Bọn họ chạy đi suốt ngày đêm, cứ ba ngày mới nghỉ một lần, cho đến khi tới được chân Thiên Sơn, tuyết đã ngập nửa thân ngựa, bọn họ không thể không bỏ ngựa thi triển khinh công mà đi lên núi, đến lúc này Hà Y đã mệt đến mức chẳng nhấc nổi chân lên nữa. Nàng gần như phải để người áo đen kia nửa kéo nửa dìu mới lên được đến đỉnh.
Sớm đã vào đông, tuyết rơi đầy trời, gió lạnh thấu xương.
Băng đóng dày trên đường núi, trơn khôn tả, chỉ cần sơ suất một chút cũng đủ để vùi thân trong tuyết. Hai người dè dặt bước đi trong băng tuyết, hết một canh giờ cuối cùng cũng tới được ngôi nhà nằm một bên đỉnh núi, quay lưng về hướng gió.
Ngôi nhà do đá lớn xây thành, băng tuyết đã phủ kín từ lâu. Nếu không phải ở hành lang phía trước cửa có cắm hai cây cột đá, Hà Y còn tưởng mình đang ở trước một băng cung.
Căn nhà này có vẻ như đã tồn tại cả trăm năm lịch sử, liếc nhìn là biết cực kỳ kiên cố, cực kỳ bền vững nhưng Hà Y thì vẫn cảm thấy lo lắng không thôi. Nơi tận cùng phương bắc, lạnh lẽo khắc nghiệt này vốn không phải là nơi Mộ Dung Vô Phong có thể lưu lại, huống chi là trên đỉnh Thiên Sơn lạnh lẽo nhất. Chứng phong thấp của chàng, lại còn bệnh tim theo đó mà tái phát nữa, chỉ sợ lại càng có dịp phát tác thường xuyên.
Nàng nơm nớp lo sợ đi vào thạch thất, vào tới chính đường mới phát hiện trong phòng có đốt lò sưởi, cực kỳ ấm áp. Tất cả cửa sổ đều được che bằng da thú, đến sàn nhà cũng được trải mấy lớp thảm da quý giá.
Nội thất bên trong rất đơn giản nhưng có thể nhận ra trình độ thưởng thức của chủ nhân tuyệt đối không thấp.
Người áo trắng ngồi trên một chiếc ghế lót da sói, ông ta đã nghe thấy tiếng bước chân của bọn họ từ lâu, cũng sớm biết chính là bọn họ đang tới.
“Hắn vẫn còn sống”, ông ta mở miệng nói luôn.
Hà Y vui mừng hỏi: “Chàng… đang ở đâu?”.
Người áo trắng không trả lời mà nói: “Hắn vẫn đang trong cơn bạo bệnh, chưa thể nói chuyện được lại kiên quyết không cho ta chạm vào. Ta chỉ đành mỗi ngày điểm huyệt hắn một lần, nhân lúc hắn hôn mê mà thay thuốc. Đáng tiếc cơ thể hắn không chịu được việc bị điểm huyệt quá lâu, cho nên mười ngày nay sau khi tỉnh lại, hắn vẫn chưa tắm rửa qua một lần nào”, nói xong, ông ta không nhịn được hỏi: “Rốt cuộc hắn lấy đâu ra thứ tính khí kỳ quái ấy vậy?”.
Hà Y trợn mắt khinh thường, nói: “Tính khí của chàng chẳng kỳ quái tí nào, chẳng qua là ưa sạch sẽ mà thôi”.
“Ưa sạch sẽ thì cũng phải xem là lúc nào chứ, ngươi nói xem nào?”, người áo trắng đã bị tính khí của Mộ Dung Vô Phong hành cho phát cáu, khinh khỉnh nói.
Hà Y chẳng buồn cãi nhau với ông ta, thở dài một tiếng nói: “Chàng có ăn được gì không?”.
“Gần như chẳng ăn gì. Còn may là ta nhân lúc hắn hôn mê cũng cho hắn nuốt vài viên Tuyết Liên”, Mộ Dung Vô Phong ăn uống cũng rất miễn cưỡng, khiến cho người áo trắng phí rất nhiều công sức, cho nên khẩu khí lúc ông ta nói cứ tức anh ách, tựa như cả đời chưa từng gặp ai khó hầu hạ như vậy.
Hà Y mềm giọng nói: “Bất kể thế nào, tôi cũng phải đa tạ tiền bối đã cứu mạng tướng công tôi. Vợ chồng tôi nợ tiền bối hai cái mạng này”.
Nàng trước một câu “tướng công”, sau một tiếng “vợ chồng”, vừa nghĩ tới việc mình và Mộ Dung Vô Phong vẫn còn hy vọng được tiếp tục sống với nhau, trong lòng nàng sớm đã mừng như hoa nở, chỉ hận chưa thể cho toàn bộ người trong thiên hạ biết tin hai người họ đã thành hôn.
Hai người kia vội vàng nói: “Chúc mừng, chúc mừng!”, nhưng trên mặt lại chẳng có chút ngạc nhiên nào.
Hà Y nói: “Từ trước đến giờ tôi và Vô Phong vẫn quên chưa thỉnh giáo quý tính của hai vị tiền bối”.
Người áo đen nói: “Không cần gọi bọn ta là tiền bối, cứ gọi đại thúc là được rồi. Ta họ Sơn, tên là Sơn Mộc. Ông ta họ Lục, gọi là Lục Tiệm Phong”.
Hai cái tên này Hà Y chưa từng nghe qua, đành nói: “Chúng tôi có một vị bằng hữu tên là Sơn Thủy, Sơn đại thúc có quen biết Sơn Thủy chăng?”.
Sơn Mộc nói: “Nó là con trai ta, có điều bọn ta đã không gặp nhau mười mấy năm nay rồi”.
Hà Y không còn thấy lạ vì sao mình ở Vân Mộng cốc lâu như thế mà không hề gặp hai người này. Nếu đã là việc nhà không vui vẻ gì, nàng cũng không hỏi thêm nữa mà chỉ đổi đề tài, nói: “Chỗ các vị có gà không?”.
Lục Tiệm Phong dẫn nàng tới nhà bếp, chỉ vào một vật trắng trắng nói: “Gà bình thường thì không có, đây là Thiên Sơn tuyết kê”.
Hà Y hỏi: “Mùi vị ra sao?”.
Lục Tiệm Phong trả lời: “Giống gà”.
Nàng rửa tay, xắn ống tay áo, đem con gà ra làm thịt, nấu một nồi canh gà, bên trong còn bỏ thêm một củ nhân sâm.
Sau đó nàng gọi Sơn Mộc vào, nói: “Làm phiền đại thúc giúp tôi coi chừng lửa một lát”.
Sơn Mộc cười khì khì nói: “Trông chừng lửa không thành vấn đề, trông xong liệu ta có được ăn một bát không?”.
Hà Y cười nói: “Nhiều lắm chàng cũng chỉ có thể ăn được nửa bát thôi, chỗ còn lại hai vị cứ ăn hết đi”.
Sơn Mộc nói: “Tiểu nha đầu ngươi cũng hào phóng đấy”.
Lục Tiệm Phong dẫn nàng tới một căn phòng khác, khi đó trời cũng dần tối.
“Hình như hắn có vẻ sợ ánh sáng cho nên ta không thắp đèn trong phòng. Nhưng trong đó có một lò lửa, nhờ vào ánh lửa ấy ngươi có thể nhìn rõ mọi vật”.
Căn phòng đó không lớn, nhưng ấm áp hơn bên ngoài, trên sàn trải mấy lớp thảm dày, thảm này toàn bằng lông thú quý, dày phải tới mấy tấc. Hà Y cởi giày ra, quỳ xuống đưa tay vào chăn của Mộ Dung Vô Phong.
Chàng nằm rất yên bình, tựa hồ đang mê ngủ.
Vết thương của chàng lành rất chậm, sưng phù nặng nề, bên trên vẫn còn một lớp băng trắng rất dày và chặt. Thân thể chàng gầy gò đến đáng sợ, chạm vào chỉ thấy trơ xương.
Tay của nàng lướt trên người chàng hồi lâu, chàng đột nhiên hoảng hốt tỉnh lại, giận giữ nắm lấy tay nàng. Hà Y biết bình thường Mộ Dung Vô Phong rất ghét bị người khác chạm vào mình, có lẽ nàng là người duy nhất từng cùng chàng tiếp xúc thân mật.
Cho nên nàng không hề bỏ tay ra.
Tay của chàng lần sờ lên tay nàng một lúc, tựa như đang đoán định gì đó, cuối cùng, chàng nhẹ nhàng nắm ngón tay giữa của nàng khẽ vặn ngửa về phía sau. Ngón tay mềm dẻo uốn cong. Tay chàng cuối cùng cũng lỏng ra mặc cho bàn tay mềm mại kia tiếp tục đặt trên người mình.
Một lúc sau, nàng đỡ chàng dậy, đi qua một hành lang, vào một gian phòng khác.
Nơi đó có một suối nước nóng, suối nước nóng này có nhiều khoáng chất lạ, nước màu đỏ tươi như màu máu. Nàng đưa ngón tay chàng nhúng vào nước, thử độ ấm. Ngón tay chàng không có phản ứng gì, điều này có nghĩa độ ấm đã thích hợp cho chàng.
Nàng bèn giúp chàng cởi bỏ y phục, tháo lớp băng trắng trên miệng vết thương, rồi đưa chàng xuống nước, nhẹ nhàng cọ rửa cho chàng. Mộ Dung Vô Phong chỉ có thể bất động, yếu ớt dựa vào người nàng.
Nàng lặng lẽ, tỉ mỉ tắm rửa sạch sẽ từng nơi từng chỗ trên thân thể chàng rồi lại lấy một tấm chăn bọc lấy người chàng, đưa về giường. Nàng lấy thuốc mới thoa lên vết thương, rồi lại lấy băng băng cho chàng. Lúc băng gần xong, nàng khẽ dùng lực thắt một nút, khuôn mặt chàng lập tức tái nhợt đi. Giờ nàng mới phát hiện, tấm khăn trải giường phía dưới đã bị chàng nắm rách mấy lỗ trong cơn đau đớn. Hai tay chàng cuốn chặt thành nắm đấm, vì quá đau mà dùng sức rất mạnh khiến khớp xương kêu “rắc rắc”.
“Xoẹt” một tiếng, khăn tải giường lại bị chàng xé rách một mảng.
Trong lòng nàng trăm mối tơ vò, nhìn chàng mà không biết phải làm sao.
Chàng cố nghiến răng, lặng lẽ chịu đựng, không phát ra tiếng kêu nào.
Trán chàng đã ướt đẫm mồ hôi.
Trong cơn đau đớn chàng vật vã một lúc, cuối cùng sức cùng lực kiệt mà lịm đi.
Hà Y biết vào lúc này chàng nhất định phải ăn gì đó, liền dằn lòng lay tỉnh chàng, lấy canh gà đã nấu xong từng thìa từng thìa một đút cho chàng, sau đó là uống thuốc. Thứ cuối cùng chàng phải nuốt xuống chính là một túi mật báo Lục Tiệm Phong đem tới.
Sau khi sống lại, Mộ Dung Vô Phong có thể kiên trì được tới bây giờ hoàn toàn nhờ vào việc cứ cách ba ngày lại ăn loại mật báo này.
Loại tuyết báo này chỉ Thiên Sơn mới có, chúng nhanh nhẹn hung mãnh, tuy sống thành bầy nhưng muốn bắt được phải cực kỳ khó khăn. Trong thời tiết ngập tuyết thế này, muốn tìm được một con thật khó bằng lên trời, đừng nói tới việc sau khi tìm thấy còn trong một kiếm phải kết liễu nó, rồi lại phải chạy như bay mang về. Mọi thứ trên người báo tuyết đem xuống dưới núi đều bán rất được giá nhưng mật của nó chỉ có thể trong vòng một tiếng sau khi nó chết uống vào mới có hiệu quả trị liệu. Hai canh giờ sau sẽ trở thành thứ chẳng đáng lấy một xu, chẳng qua chỉ là một túi nước đắng ngoét màu xanh lục mà thôi.
Cho chàng dùng xong thuốc, bản thân Hà Y cũng mệt muốn ngất rồi. Tắm rửa qua loa xong một lượt, nàng mới nhẹ nhàng tới ngủ bên cạnh Mộ Dung Vô Phong.
Bị nàng quay cho một trận, Mộ Dung Vô Phong tỉnh lại.
Trong bóng tối, chàng chỉ thấy lò lửa cách giường không xa. Hà Y vừa đặt đầu xuống gối đã không động đậy gì nữa, dường như đã ngủ say như chết rồi. Mặc kệ thân dưới đau như lửa đốt, chàng cắn chặt răng, hai tay vịn giường, ra sức lăn mình qua một bên, nhường cho nàng chỗ rộng hơn một chút.
Tay Hà Y lại vươn tới, nhẹ nhàng sờ lên vết thương của chàng, hỏi: “Chàng tỉnh rồi à?”.
Chàng vừa nhìn thấy Hà Y, trong lòng vui mừng, cuối cùng cũng có được một chút khí lực để mở miệng, bèn nói: “Nàng mệt rồi, ngủ đi”.
“Thiếp không ngủ được”, mắt nàng mở to trong bóng tối: “Thiếp không dám tin chàng vẫn còn sống”.
“Ta cảm thấy khỏe hơn nhiều rồi”, chàng khẽ nói.
“Đừng quên chúng ta đã bái thiên địa rồi nhé”, Hà Y vui vẻ nhắc chàng.
“Lúc nào thế?”, chàng từ tốn nói.
Hà Y ngồi bật dậy, tức giận hét lên: “Chàng muốn nuốt lời hả? Chàng hối hận sao?”.
Chàng vươn tay ra, ngăn miệng nàng lại, than: “Sao nàng ngốc thế? Nhất định phải gả cho ta sao?”.
“Thiếp chẳng ngốc tí nào. Không gả cho chàng mới là ngốc đấy”, nàng vùi đầu vào lòng chàng, một tay ôm lấy eo chàng, ngọt ngào nói.
“Tay của nàng sao cứ thích đặt lên vết thương của ta vậy?”, chàng vừa xoa đầu nàng vừa hỏi.
“Vì vết thương của chàng là do thiếp khâu. Thiếp… thiếp không cho chàng sờ”, nàng cắn nhẹ tai chàng nói tiếp: “Cũng không cho chàng nhìn”.
Mộ Dung Vô Phong thoáng ngây ra, hỏi: “Tại sao?”.
“Thiếp… thiếp khâu… khâu khó coi chết đi được. Hai vết sẹo lớn ấy, chàng… chàng vĩnh viễn cũng không được nhìn”.
Chàng khẽ than: “Làm khó nàng rồi. Lúc trước ta khâu cho người khác, nàng còn sợ tới mức mắt cũng không dám mở”.
Hà Y cười nói: “Bây giờ thiếp hối hận chết đi được, sớm biết như thế, lúc ấy đã chăm chỉ học một chút”.
Chàng cười khẽ, nghĩ tới việc mình bẩm sinh tàn phế, thân thể yếu ớt, vốn định cả đời không lập gia đình tránh liên lụy tới người khác. Như bây giờ chết đi sống lại, bộ dạng nửa người nửa ngợm, tuy Hà Y cười nói như không, không để ý trong lòng mà còn càng yêu thương, nhưng trong thâm tâm chàng vẫn không khỏi thương cảm.
Hà Y thấy chàng đang nói thần sắc chợt sa sút liền dịu dàng bảo: “Chàng cứ từ từ mà khỏe lại, thiếp… thiếp sẽ không rời xa chàng nữa”.
Chàng tựa người dậy, thấy hai mắt nàng nhìn mình sáng long lanh, dáng vẻ hạnh phúc thỏa mãn, nghĩ tới việc bất kể như thế nào, rốt cuộc hai người cũng qua được kiếp nạn này, không kìm được xúc động, cúi xuống thâm tình hôn nàng.
“Hà Y, nói cho ta, hôm đó… hôm đó trên đỉnh núi, có phải nàng thật sự đã nhảy xuống không?”, một lúc sau chàng chợt hỏi.
“Đã nhảy”, Hà Y nằm trong lòng chàng trả lời.
“Đã nhảy?”, chàng nóng ruột nói: “Nàng hồ đồ rồi à? Người sắp chết là ta, không phải nàng, sau này… sau này không cho phép nàng được ngốc như vậy nữa!”.
“À, lúc ấy chàng hôn mê mất rồi, không tỉnh táo. Nếu không thiếp nhất định sẽ gọi chàng dậy, cảm giác nhảy xuống dưới thật sự rất hay”, sợ chàng lo lắng, nàng còn bồi thêm một câu: “Nhất là khi rơi giữa chừng lại có người cứu lên”.
“Là hai người đó cứu chúng ta?”.
Hà Y gật đầu.
“Hiện giờ chúng ta đang ở đâu?”, chàng đưa mắt nhìn xung quanh, cảm thấy căn phòng này cực kỳ xa lạ.
“Thiên Sơn. Chàng nằm ở đây hai mươi mấy ngày trời rồi”.
“Thiên Sơn?”, chàng còn định hỏi tiếp nhưng người nằm trong lòng chàng đã ngọt ngào mà thiếp đi.
Sáng sớm hôm sau, lúc Mộ Dung Vô Phong còn đang chìm trong giấc ngủ, Hà Y đã theo Lục Tiệm Phong vào sâu trong núi. Nàng không muốn tiếp tục làm phiền ông ta, nhất định đòi đích thân mình bắt tuyết báo.
Dọc đường, để giúp nàng chạy nhanh hơn, Lục Tiệm Phong đã dạy nàng vài chiêu bộ pháp khinh công cùng phép hít thở hoán khí. Sau đó ông ta bảo nàng dừng lại, đứng trong tuyết, yên lặng nhìn về phía trước.
Tuyết lớn phủ khắp, trước mặt chỉ là một khoảng trắng mênh mang.
“Ngươi nhìn thấy gì?”, ông ta hỏi.
“Tuyết”, Hà Y đáp.
“Nhìn cho kỹ”.
“Vẫn là tuyết”, nhìn một lúc Hà Y đành đáp thế, rất xấu hổ vì nhãn lực của mình.
Lục Tiệm Phong nói: “Ngươi còn nhận được đường quay về chứ?”.
Hà Y gật đầu.
Lục Tiệm Phong nói: “Bên trái ngươi khoảng mười mấy trượng về phía trên, có hai đụn trắng đang chuyển động. Ngươi có thấy không?”.
Hà Y nói: “Có”.
“Rơi từ trên xuống dưới chính là tuyết, di động qua lại hai bên chính là tuyết báo. Bây giờ ngươi có thể nhận ra chưa?”.
Hà Y gật đầu.
“Kiếm của ngươi chỉ được đâm vào chỗ mắt báo xuyên từ sau gáy đâm ra. Da tuyết báo cực kỳ quý giá, ta không muốn ngươi đâm thủng lỗ chỗ. Tốt nhất là công kích trước khi nó kịp phát hiện, sau đó nhanh chóng giết nó, nếu không dịch mật của nó sẽ biến vị”.
Hà Y nói: “Tôi hiểu rồi”.
Lục Tiệm Phong nhìn nàng nói: “Sao giờ ngươi còn chưa ra tay đi?”.
Hà Y nói: “Đợi đại thúc đi tôi sẽ lập tức ra tay”.
Nàng vừa quay đầu lại, Lục Tiệm Phong đã không thấy đâu nữa.
Trong mười ngày kế tiếp, gần như ngày nào Mộ Dung Vô Phong cũng có mật báo tươi để phối thuốc. Tuy thân thể chàng vẫn rất yếu nhưng rõ ràng đã qua được giai đoạn nguy hiểm nhất.
Ngày hôm đó, lúc Mộ Dung Vô Phong tỉnh lại hãy còn rất sớm nhưng chàng không sao biết được lúc ấy chính xác là giờ nào. Đèn trong phòng lờ mờ, cửa sổ bốn bề đều bị rèm da dày che kín.
Hà Y đã không còn nằm bên cạnh. Nàng có thói quen dậy sớm, hồi bọn họ ở cùng nhau lúc trước, Hà Y lần nào cũng dậy trước chàng. Nàng quen luyện kiếm vào lúc bình minh, luyện xong trở về phòng, thường thì Mộ Dung Vô Phong vẫn chưa dậy.
Trước khi đi Hà Y còn đắp chăn thật kín cho chàng. Thân thể chàng yếu ớt sợ lạnh, lúc ngủ thường dán chặt lấy Hà Y, nàng qua trái chàng cũng theo qua trái, nàng sang phải chàng lại nhào sang phải, bởi vì khi ngủ thân thể Hà Y ấm áp tựa như một lò sưởi vậy.
Hiện chàng đang bị thương, nằm trên giường chẳng thể cử động, nơi này chẳng có xe lăn, cho dù chàng có muốn ra ngoài xem rốt cuộc Hà Y đi đâu cũng chỉ là mơ tưởng.
Đúng lúc này chàng nghe thấy có tiếng gõ cửa.
Đã là gõ cửa thì người bên ngoài đương nhiên không thể là Hà Y, Hà Y không cần gõ cửa đã vào luôn rồi.
Chàng liền nói: “Mời vào”.
Tiếng của chàng cực nhỏ, cực thấp, bởi chàng bị thương quá nặng, không còn sức lực, mãi trở thành quen.
Cửa mở ra, Sơn Mộc và Lục Tiệm Phong tiến vào.
Người tiến vào là hai vị tiền bối võ lâm, Mộ Dung Vô Phong cảm thấy bản thân dù thế nào cũng không nên tiếp tục nằm nữa. Chàng là một người rất có tu dưỡng, lúc bị bệnh tuyệt đối không gặp khách, càng không bao giờ nằm trên giường tiếp khách.
Nhưng hiện giờ bộ dạng của chàng như thế, quả thực cũng chẳng biết làm thế nào mà ngồi dậy nổi.
May mà không biết từ lúc nào có một cái vòng gỗ được treo lủng lẳng phía trên giường, vòng gỗ không thiên không lệch, nằm ngay phía trên ngực chàng. Chàng liền vươn tay phải nắm lấy vòng gỗ, tay trái cố sức vịn thành giường, cuối cùng cũng chật vật kéo được mình ngồi dậy.
Đây là lần đầu tiên chàng ngồi dậy được, vết thương bên dưới tức thì đau buốt như dao cắt, mồ hôi lạnh túa ra ướt đẫm.
Sơn Mộc nhìn dáng vẻ gắng gượng của chàng, không nhịn được nói: “Thật ra ngươi cũng không nhất thiết phải ngồi dậy”.
Mộ Dung Vô Phong tựa lên đầu giường, lựa thế ngồi thật vững, tay trái chống xuống giường gắng sức đỡ cho thân hình lảo đảo muốn đổ của mình, lãnh đạm nói: “Hai vị tới vừa khéo, xin mời ngồi. Tôi đang có vài việc muốn hỏi hai vị”.
Sơn Mộc nói: “Ngươi hỏi đi”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Ngày hôm đó, ở Vân Mộng cốc, là hai vị đã cứu tôi khỏi hồ nước phải không?”.
Sơn Mộc nói: “Bọn ta vốn chưa đi xa. Thật ra lúc hai ngươi nói chuyện, bọn ta ngồi ngay trên nóc đỉnh”.
Mộ Dung Vô Phong lạnh lùng nói: “Hai vị trước giờ cứ thích đa sự, luôn thích ngồi trên đầu người ta, lấy việc nghe lén chuyện riêng của người khác làm vui”.
Lục Tiệm Phong nói: “Lão Mộc, ông nghe rõ chưa? Người ta không hề nhận món ân tình này của chúng ta”.
Sơn Mộc nói: “Tên tiểu tử này trước giờ tính tình rất thối, chúng ta đâu cần chấp hắn làm gì”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Sao ta phải nhận món ân tình ấy của hai người? Ta xin hai người cứu ta sao? Lúc ấy nếu ta chết đi, Hà Y sẽ nhanh chóng quên được ta, cũng không có kiếp nạn này, nàng sẽ không… sẽ không vì ta mà muốn tự tử. Tất cả mọi việc hoàn toàn bởi các ngươi mà đa sự!”, vừa nghĩ tới tình cảnh Hà Y ôm chàng nhảy xuống vực sâu vạn trượng, chàng không rét mà run.
Lục Tiệm Phong nói: “Nếu giờ ngươi vẫn muốn chết, thì cứ việc chết. Lần này bọn ta tuyệt đối không ngăn ngươi”.
Mộ Dung Vô Phong cười lạnh, nói: “Bây giờ ta còn có thể tùy tiện chết sao? Cho dù là… cho dù là nửa người nửa quỷ, ta cũng vẫn phải tiếp tục sống. Các người nghĩ bản thân là gì? Anh hùng à?”, nói xong, bởi tâm tình quá mức kích động, chàng liền bật ho dữ dội.
Cơn ho này khiến người chàng mềm nhũn đi, thân hình lập tức đổ ập xuống giường.
Bọn họ đành ngậm miệng đợi chàng dứt cơn ho, sau đó vịn giường, nắm lấy vòng gỗ kéo người mình dậy, ngồi tựa trên giường.
Sơn Mộc nói: “Bọn ta cứu ngươi, đương nhiên không phải vì muốn làm anh hùng”.
Lục Tiệm Phong nói: “Bọn ta cứu ngươi là bởi bọn ta có việc phải nhờ ngươi giúp đỡ”.
Mộ Dung Vô Phong chế giễu nói: “Hai vị là tiền bối võ công cái thế, còn có việc gì mà phải nhờ tới kẻ tàn phế không biết lấy nửa điểm võ công như ta?”.
Sơn Mộc ngập ngừng một lát, hồi lâu sau mới cất tiếng: “Bình thường bọn ta đều sống ở đây, chỉ vì mấy chục năm trước, bọn ta vô tình có được một bộ bí tịch của võ lâm. Bọn ta luyện tập theo sách, hiện đã luyện tới tầng thứ chín, chỉ còn một tầng sau cùng là đại công cáo thành. Có điều… có điều…”.
Lục Tiệm Phong nói: “Bộ sách này tổng cộng có mười quyển, chín quyển đầu bọn ta đều hiểu, nhưng chỉ duy nhất quyển cuối cùng từ ngữ uyên ảo, lại lẫn vào rất nhiều thuật ngữ y học, bọn ta lần từng chữ từng chữ, tham ngộ ba năm cũng đi các nơi thỉnh giáo nhiều bậc thầy nhưng đều không rõ rốt cuộc là nói gì”.
Sơn Mộc nói: “Bộ sách này rất cao thâm, luyện tới sau cùng, càng luyện càng nguy hiểm, chỉ sơ sẩy một chút là tẩu hỏa nhập ma. Bọn ta tất nhiên phải hết sức thận trọng”.
Mộ Dung Vô Phong chỉ buông miệng một tiếng: “Hừm”.
Sơn Mộc nói: “Nếu ngươi chịu giúp chúng ta làm rõ rốt cuộc cuốn sách ấy muốn nói về cái gì, hai người bọn ta xem như đã nợ ngươi một món ân tình lớn”.
Mộ Dung Vô Phong lãnh đạm hỏi: “Sách ở đâu?”.
Sơn Mộc rút trong người ra một cuốn sách không dày, đưa cho chàng.
Một tay Mộ Dung Vô Phong tựa giường, tay kia cầm sách, mượn ánh đèn trên bàn xem qua một lúc, nói: “Rõ ràng cuốn sách rất dễ hiểu, sao hai người xem lại hoàn toàn không hiểu?”.
Sơn Mộc vui mừng, nói: “Ngươi nói xem, thế nào là rất dễ hiểu? Sao bọn ta xem không hiểu chút nào?”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Trong sách nói, ở tầng cuối cùng, phải chọn một ngày rất lạnh, đem khí trong ‘Đan Điền’ men theo kinh mạch, dựa vào lộ trình đóng mở tự nhiên của các huyệt đạo theo phép Tí Ngọ lưu chú[1] mà vận hành năm chu thiên tì có thể đại công cáo thành”.
[1] Tí Ngọ lưu chú: thuật ngữ dùng trong châm cứu, đại ý là căn cứ theo thời gian đóng mở của huyệt đạo hằng ngày để tiến hành tác động lên huyệt đạo.
Hai người kia đồng thanh thốt lên: “Không sai! Nhưng toàn thân có cả trăm huyệt đạo, cái gọi là ‘lộ trình đóng mở tự nhiên’ rốt cuộc là thế nào?”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Cái gọi là đóng mở tự nhiên, đương nhiên là chỉ việc không được miễn cưỡng mở huyệt đạo vốn đang đóng. Nội tức phải tuân theo thời điểm huyệt đạo tự nhiên mở ra trong ngày để tiến vào, đúng thời điểm huyệt đạo tự nhiên đóng lại mà tiến ra”.
Lục Tiệm Phong nói: “Mấy chi tiết huyệt đạo đóng mở này, người trong võ lâm từ trước đến giờ không ai biết. Kể cả trong sách y cũng chưa thấy ai đề cập tới”.
Sơn Mộc tiếp lời nói: “Ngươi không cần ngạc nhiên. Mấy năm nay, để làm rõ vấn đề này, sách y của các nhà, bọn ta ít ra cũng tra trăm quyển rồi, hoàn toàn chẳng có mảy may manh mối”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Chỉ mới tra có trăm quyển, đương nhiên là không có manh mối. Trong những sách ta đã đọc, ít nhất có hai cuốn đề cập tới chi tiết huyệt đạo tự nhiên đóng mở theo Tí Ngọ lưu chú. Trên thực tế mỗi huyệt đạo trên cơ thể con người đều giống như một đóa hoa, đóng mở theo những giờ xác định mỗi ngày. Các ngươi chỉ cần nhớ tất cả thời gian đóng mở, rồi án theo vị trí và trình tự trước sau của chúng tính ra mấy đường vận khí là được”.
Lục Tiệm Phong nói: “Thứ nhất, bọn ta không biết thời giờ đóng mở của từng huyệt đạo. Thứ hai, cho dù là biết, muốn từ đó tính ra một đường vận khí an toàn cũng là một việc cực khó. Mấy trăm huyệt đạo đóng mở bất định, vốn cực kỳ khó tính chuẩn xác, gần như là tính không ra được”.
Sơn Mộc vội vàng nói thêm: “Không phải sao? Đầu tiên, một ngày có mười hai canh giờ, bất kể bọn ta chọn canh giờ nào để bắt đầu thì tình hình huyệt đạo đóng mở của giờ đấy và của giờ khác hoàn toàn khác nhau. Nếu như canh giờ ấy không tìm được lộ trình để đem chân khí vận hành tự nhiên thành một chu thiên, bọn ta lại phải bắt đầu lại từ đầu mà tìm một giờ khác. Đấy là còn chưa nói, cho dù chọn được giờ rồi, tiếp đó còn cả nghìn vạn khả năng nữa”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Các hạ nói như vậy, tức là đến cả việc tính toán nhàm chán ấy cũng muốn nhờ ta làm?”.
Hai người vội nói: “Phải nhờ vả rồi! Phải nhờ vả rồi!”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Ta khát”.
Sơn Mộc vội vàng cuống quýt nói: “Ta đi pha trà cho ngươi”, chẳng bao lâu sau, ông ta bưng đến cho chàng một chén trà Thiết Quan Âm nghi ngút khói.
Ông ta biết thói quen của Mộ Dung Vô Phong, chén dùng đựng trà chính là cái mà Hà Y thường dùng để pha trà cho chàng. Sau đó ông ta mang tới cho Mộ Dung Vô Phong một tập giấy, một cái bút, để chàng dùng tính toán.
Mộ Dung Vô Phong vươn một tay ra nhận lấy chén trà, nói: “Chi tiết huyệt đạo đóng mở, nói ra cũng rất nhàm chán, các vị không nhớ cũng được. Lộ trình ta đã tính hộ hai vị rồi, tổng cộng có tám đường”.
Hai người kinh ngạc nói: “Ngươi đã tính xong rồi? Làm sao mà tính được? Dùng cái gì để tính thế?”.
Mộ Dung Vô Phong nhấp một ngụm trà, nói: “Tính nhẩm”.
Sơn Mộc trợn tròn mắt, không nhịn được hỏi: “Thứ phức tạp như thế, làm sao ngươi có thể tính nhanh như vậy?”.
Mộ Dung Vô Phong không thèm để ý tới ông ta, lãnh đạm nói: “Tuyến thứ nhất, bắt đầu từ giờ Thìn hai khắc, đi qua huyệt ‘Chương Môn’, ‘Kỳ Môn’, ‘Trung Phủ’, ‘Nhân Nghênh’ tới huyệt ‘Thiên Đột’ thì dừng một khắc, rồi lại tới ‘Toàn Cơ’, ‘Đãn Trung’, ‘Trung Quản’. Dừng ở huyệt ‘Trung Quản’ ba khắc, rồi tới ‘Kê Vĩ’, ở ‘Lương Môn’ dừng một khắc, ở ‘Thủy Phân’ dừng nửa khắc, ở ‘Thần Khuyết’ dừng một khắc rồi vào ‘Khí Hải’ về ‘Đan Điền’”.
Sơn Mộc vội vàng nói: “Ngươi đợi một chút, nói chậm lại đi, ta nhớ không kịp, có phải là ‘Chương Môn’, ‘Kỳ Môn’, ‘Nhân Nghênh’?”.
Lục Tiệm Phong nói: “Ta lấy bút ghi lại”.
Mộ Dung Vô Phong bực mình cầm cuốn sách ném xuống đất, nói: “Vừa nói dứt lời cũng nhớ không nổi, người đã ngu ngốc đến thế còn luyện tuyệt thế võ công làm gì?”.
Mặt Lục Tiệm Phong tức thời giận đến đỏ tía, ông ta bản tính cao ngạo, cả đời chưa từng bị một ai sỉ nhục như thế, huống chi đó lại là tên tiểu tử còn chưa ráo máu đầu, lập tức lạnh giọng đáp trả: “Ngươi đúng là kẻ thông minh, chỉ đáng tiếc vẫn cứ là một thằng tàn phế”.
Mộ Dung Vô Phong vừa nghe câu đó chạm vào chỗ đau trong lòng, liền tức tới nghiến răng ken két, lập tức vung chén trà trong tay ném thẳng vào ông ta.
“Lá gan của tên tiểu tử này quả nhiên không nhỏ!”, Lục Tiệm Phong phất ống tay áo một cái, chén trà kia xoay chuyển trong không trung rồi lại bị ông ta nhẹ nhàng đẩy một cái, vững vàng rơi xuống bàn, đến một giọt trà cũng không sánh ra ngoài.
“Hai vị chớ cãi cọ! Chớ cãi cọ! Lão Lục, ông nhường hắn một chút đi”, Sơn Mộc vội vàng nhảy ra giảng hòa.
Mộ Dung Vô Phong vừa rồi quá tức giận, tim lại đập dữ dội, chàng vốn đang cơn bạo bệnh, sức kiềm chế kém xa ngày xưa, nhất thời máu huyết trào lên, “ọe” một tiếng, phun ra một ngụm máu. Cả người không sao trụ nổi nữa bèn đổ ập xuống giường.
Lục Tiệm Phong nhanh nhẹn vươn tay ra đỡ lấy người chàng, từ từ đặt xuống. Mộ Dung Vô Phong nằm trên giường gào lên:
“Đừng động vào ta! Đùng động vào ta!”.
Sơn Mộc kéo Lục Tiệm Phong ra, đứng thế vào rồi đưa Mộ Dung Vô Phong vào lại trong chăn, nói: “Nằm yên chớ động đậy. Nếu ngươi có mệnh hệ gì, lúc quay về cô vợ nhỏ của ngươi sẽ tới tìm bọn ta liều mạng đấy”.
Chưa dứt lời, đã thấy Hà Y vui mừng hớn hở đẩy cửa đi vào, nói: “Vô Phong, thiếp về rồi”.
Vừa vào tới cửa, Hà Y liền cảm thấy không khí trong phòng có vẻ không ổn, rồi lại thấy vạt chăn trước mặt Mộ Dung Vô Phong có vết máu, nàng biến sắc, vội chạy tới trước mặt chàng hỏi: “Chàng sao thế này? Sao ở đây… ở đây toàn là máu? Chàng nôn… nôn ra máu à? Vô Phong… chàng không khỏe ở chỗ nào?”.
Mộ Dung Vô Phong lắc đầu, nói: “Ta không sao, nàng giúp ta thay… khụ khụ… thay một cái chăn khác”, chàng nói trong cơn ho, do hít thở không kịp nên mặt mày đỏ lựng lên. Hà Y bèn lấy một chiếc khăn sạch khác đắp lên người chàng. Người chàng vốn đã gầy đến đáng sợ, bây giờ lại càng gầy yếu hơn, đến việc ngồi dậy cũng rất khó khăn, nghĩ tới những ngày này chàng phải chịu khổ. Lòng nàng không khỏi đau quặn lại, nhưng sợ bản thân quá đau buồn lại khiến chàng thêm thương cảm bèn nhẹ nhàng nói: “Sức khỏe chàng còn chưa được tốt, đừng cử động tùy tiện, cẩn thận động tới vết thương”, nói xong quay đầu lại, lạnh lùng nhìn Sơn, Lục hai người, nói: “Hai vị ngồi trong này là có việc gì?”.
Sơn Mộc nói: “Bọn ta đang… đang nói chuyện với tướng công của ngươi. Còn chưa nói hết”.
Hà Y nói: “Chàng bệnh nặng đến thế này rồi, còn có gì để nói, đợi chàng khỏe lên một chút rồi hẵng nói tiếp”.
Sơn Mộc nói: “Yên tâm đi, bọn ta không nói lâu đâu”.
Hà Y nói: “Nếu không phải vừa rồi hai vị chọc giận chàng, chẳng lẽ chàng lại tự nhiên phát bệnh sao?” nàng gắt, giọng chát chúa, dáng vẻ như chuẩn bị cãi nhau to đến nới.
Sơn Mộc vội nói: “Vậy bọn ta đi đây”, nói xong kéo Lục Tiệm Phong chuồn khỏi cửa nhanh như gió.