CẠM BẪY
A, tôi rất mừng gặp anh ở đây. Trèo lên tới đây chắc là anh mệt lắm nhưng vẫn thấy khỏe phải không? Lần đầu tiên lên tới đây tôi cũng mệt đứt hơi. Dĩ nhiên là anh không cảm thấy náo nức như tôi khi mới lên tới đây. Tại sao ư? Nếu muốn tôi sẽ kể lại câu chuyện đó nhé.
Từ trên đỉnh nhìn xuống, một khung cảnh hùng vĩ và đẹp mắt sẽ hiện ra trước mắt. Chung quanh là một biển lá mênh mông, ẩn hiện là những ngọn núi, ngọn đồi. Nếu nhìn kỹ, anh sẽ thấy một dải mờ mờ màu tìm bên phía trái, đó là bình nguyên Asun Apau. Thành thực mà nói thì tôi đã chán ngấy cảnh tượng ó đây, như màu xanh của lá cây, màu xanh và trắng của những đám mây hay ngồi mặt trời màu đỏ ối vào lúc bình minh hay khi hoàng hôn rồi. Tôi cũng cảm thấy vui mỗi khi có trận mưa rào đổ xuống cuốn đi tất cả. Xin đừng trách tôi có cảm nghĩ như vậy nhé. Xin thông cảm cho tôi vì tôi đã sống suốt trên mấy chục năm nay trên đỉnh ngọn này rồi. Vâng, tôi đã sống ở đây quá lâu và chẳng có cách nào có thể thoát ra khỏi nơi đây, không có cách nào cả.
Với những dụng cụ mang theo, tôi biết anh làm Nhà Địa Dư chứ gì, anh tới đây để đo đạc và vẽ bản đồ vùng này, có phải vậy không. Ở trên tận đỉnh là vị trí tốt nhất để quan sát đấy. Thế còn những người đi cùng với anh đâu rồi? Họ ở dưới đó hả, còn tôi cô độc ở đây suốt bao năm qua rồi. Bây giờ anh ngồi xuống đây đi. Được rồi. Không, cám ơn, tôi không hút thuốc. Coi kìa, sao tay anh run vậy? Anh quá mệt mỏi khi leo lên tới đây phải không. bây giờ cứ yên tâm thưởng thức điếu thuốc đi, để tôi kể lại câu chuyện quá khứ cho anh nghe nhé, xong câu chuyện thì anh lấy lại sự bình thản như xưa thôi mà.
Chẳng lạ lùng gì khi thấy tôi nói tiếng Anh thành thạo cả. Hồi trước chiến tranh, tôi làm việc cho tờ báo Domei News tại Đông Kinh. Thế rồi cũng như bao thanh niên khác trong nước, tôi bị gọi động viên. Trong quân đội, tôi phục vụ cho Nhà Thông Tin và Tuyên Truyền. Khi chiếm được Singapore, chúng tôi tiếp quản tờ báo bằng Anh ngữ và tôi làm việc cho tờ báo này trong suốt hai năm, sau đó báo đôi ra xuất bản bằng tiếng Mã Lai nên tôi không còn làm việc cho báo này nữa. Sau đó tôi được chuyển sang làm việc tại Miến Điện với tư cách là một thông dịch viên. Khi tướng Slim đánh bại lực lượng của chúng tôi tại tỉnh Mandalay, trung đoàn của chúng tôi bị phân tán thành những đơn vị nhỏ chạy về Rangoon rồi được chở về Singapore. Ở đây chẳng bao lâu, chúng tôi được chở tới quần đảo Borneo của Nam Dương làm lực lượng đồn trú ở đây. Tôi được bố trí tại Bintulu, một tỉnh nhỏ ven biển tại đảo Sarawak để canh phòng một phi trường và coi sóc đám người mà chúng tôi gọi là những tình nguyện lao động, họ đang mò rộng phi trường, đặc biệt là làm phi đạo dài thêm ra để những oanh tạc cơ có thể đáp xuống được. Đây là thời gian lý tưởng để nghỉ dưỡng sức sau những căng thẳng tại Miến Điện mặc dù chẳng được bao lâu. Sau vài tháng, những phi cơ B24 hiện lên thình lình trên các ngọn cây, chúng vần vũ trên bầu trời, dội hàng ngàn tấn bom phá huy thị trấn nhỏ tí này và cả phi trường đang xây dựng nữa. Toàn thể dân chúng trong vùng chạy vào rừng lánh nạn, để chúng tôi trơ trọi trong thành phố. Tuy vậy, trận bom này chỉ là khởi đầu cho cuộc tấn công khủng khiếp sau đó. Chúng tôi cũng rút vào trong rừng, sống dưới những bóng cây lớn và những túp lều ngụy trang. Ban ngày lính đi tuần tra và ban đêm ngủ trong các hố bom ngay tại phi trường.
Một ngày kia, ngay tại phi trường nhiều chiếc phi cơ bay thật thấp và những chiếc dù được thả xuống. Một người lính trong đội tuần tra nhảy ra tìm chỗ núp, định thu lấy dù nhưng bị tan xác ngay. Đó không phải là những người lính dù hay những phẩm vật mà là những trái bom được gắn vào những chiếc dù. Những chiếc máy bay quay trở lại và rải đạn xuống những gốc cây quanh phi trường, gây tổn thất nặng nề cho đơn vị kỹ thuật. Đơn vị này ẩn náu trong các bụi cây để sẵn sàng giúp các phi cơ chiến đấu Nhật nào muốn đáp xuống.
Chiều hôm đó, tôi được gọi tới chiếc lều của vị chỉ huy. Đó là một đêm nóng bức, viên thiếu tá chỉ huy chỉ quấn quanh bụng một chiếc khố. Tôi hô to:
- Trung Úy Yukino trình diện.
- A, Trung Úy Yukino San, vào đây. - Vị chỉ huy ngửng đầu lên khỏi tấm bản đồ. - Thủ đoạn của quân giặc hôm nay làm bên mình thiệt hại nặng. Tụi nó đã biết bên mình đóng quân ở đâu và đã ước lượng được sức mạnh của mình.
- Xin báo cáo. Nếu như quân giặc đổ bộ, chúng ta sẽ chiến đấu tới chết.
Viên chỉ huy chép miệng, gật đầu:
- Tôi rất phấn khởi vì tinh thần anh dũng của Trung Úy. Mình chẳng còn chọn lựa nào hơn là chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Đây là cơ hội cho Trung Uy đối diện với quân thù đầu tiên. - Nói xong ông ta chỉ tay lên vùng có gạch đỏ trên tấm bản đồ. - Thực ra thì quân giặc đã đổ bộ lên đây rồi. Tín hiệu tại bộ chỉ huy cho biết là quân Úc đã nhảy dù xuống đây đúng một tháng nay. Nhiều dấu hiệu cho thấy một lực trong toán này sẽ tiến về phía chúng ta. Trung Uy sẽ chỉ huy một toán đặc nhiệm, tìm thuyền rồi đi ngược dòng để trinh sát tai vùng thật xa mà tôi đánh dâu trên tấm bản đồ này. Dùng thuyền chèo chứ không dùng thuyền có gắn động cơ. Ban ngày ẩn náu và nghỉ, ban đêm đi. Cẩn thân không cho dân địa phương trông thấy. Nêu tình cờ bắt gặp ho, Trung Úy biết là sẽ phải làm gì rồi, cố gắng giữ bí mật. Hy vọng là Trung Úy trở về trong vòng hai mươi ngày, nếu quá hạn đó thì kể như Trung Uy đã hy sinh và chúng tôi không cần đi kiếm nữa. Tối mai sẽ khởi hành. Bắt sống tù binh đem về nếu có thể được. Hãy thi hành lệnh. Giải tán.
Tôi nghiêm chỉnh chào rồi đi ra gặp những người trong toán của tôi. Ngày hôm sau, chúng tôi tới xóm chài người Mã Lai sống ở ven sông và nhìn thấy gì chúng tôi đang cần, đó là một chiếc thuyền dài dùng làm thuyền đua khi không có chiến tranh. Với danh nghĩa Hoàng Gia Nhật Bản, chúng tôi mua với giá năm ký lô đường. Dĩ nhiên là người chủ chiếc thuyền không chịu những cú đấm và mũi súng của Trung Sĩ Kakimoto làm cho ông ta phải kéo chiếc thuyền ra để bán cho chúng tôi và tôi hôm đó chúng tôi âm thầm leo lên chiếc tiên ngược về hướng Bắc.
Lúc đầu chiếc thuyền nhẹ, lao nhanh vào lớp sóng dễ dàng. Nhưng khi trời đổ mưa, dần dần nước mưa chứa đầy thuyền, và cánh tay cua chúng tôi bắt đầu đau nhức vì phải chèo con thuyền nặng trên dòng sông ngày càng phình to và nước chảy xiết. Vài người lính trên thuyền bắt đau kêu vì chuột rút bắp chân rồi lên đùi, lên hông. Áo mưa được che súng ống và lương thực nên chúng tôi bị lạnh cóng, chỉ riêng bình nhì Takeda thì vui sướng, vừa chèo vừa hát những bài nhạc ca tụng mùa thu tại Nhật Bản khi lá những cây phong đổi sang màu đỏ. Takeda là một nông dân tại Hokkaido nên thời tiết khắc nghiệt ở đây không làm cho anh ta khó chịu.
- Giữ im lặng. - Tôi khẽ la lên - Trung Sĩ Kakimoto cầm mái chèo khẽ đập lên đầu hắn.
Khi bình minh ló dạng, chúng tôi đậu chiếc thuyền vào bên bò sông và nghỉ chân. Sau khi một trạm gác được thiết lập, chúng tôi bắt đầu lấy cá khô ra ăn. Hôm đó mưa to rồi suốt ngày, dù cho vui mừng như Takeda cùng giữ im lặng, lâu lâu lại chạy ra ngoài, người ta có lén hứng nước mưa để cá khô trôi qua cô hong. Tôi nghĩ tình trạng này có thể kéo dài cả mấy ngày, có khi cả tuần nên khi trời chạng vạng tối, chúng tôi lại chuẩn bị lên thuyền. Binh nhất Sumitomo run rây vói con bệnh sốt rét làm khẩu súng rớt xuống sông. Tôi ra lệnh phải nhảy xuống để nhặt lên, hắn nhào xuống, chúng tôi đợi mài cũng chẳng thấy hắn trồi lên. Sau một thời gian thật ngắn Terayama, viên tuyên úy cầu nguyện cho linh hồn hắn, chúng tôi vội vã lên đường.
Ngày hôm sau, chúng tôi đậu thuyền bên bờ sông bên kia và chuẩn bị lều trại nghỉ. Mưa bắt đầu ngưng và hứa hẹn một ngày nắng ráo. Chúng tôi cởi bỏ quân phục treo lên cho khô, vài người lính đi kiếm củi để chuẩn bị nấu cơm. Đã mấy ngày nay chúng tôi không được ăn cơm rồi. Takeda lau chùi tất cả những quân dụng. ngoại trừ những khẩu súng dùng để canh gác. Khi tôi bắt đầu lấy tấm bản đồ ra nghiên cứu thì nghe tiếng la hét, nhìn ra thì thấy người lính canh đang đá ba người dân bản xứ, thúc họ vào trong lều. Người lính canh này là Terayama, viên tuyên úy ngày hôm qua cầu nguyện cho bạn đồng đội Sumitomo, hôm nay quát tháo đánh đập ba người dân bản xứ đang run rẩy vì sợ hãi.
Vì lệnh của thượng cấp là phải giữ bí mật tuyệt đối cho chuyến đi này, tôi la:
- Terayama, tại sao không ẩn núp kỹ để ba người này không nhìn thấy?
- Thưa Trung Úy, họ đi về hướng này. Tôi không làm gì hơn là phải bắt họ.
- Được rồi, về lại chỗ gác đi. Kakimoto, tịch thu lấy dao và mác rồi trói họ lại.
- Xin tuân lệnh. - Tôi thấy cặp mắt của Trung Sĩ Kakimoto như nhắm lại, mặt đỏ bừng. Tôi đoán là sau mấy ngày mệt nhọc, hắn muốn trút nỗi bực bội vào ba người khốn khổ này. - Chuẩn bị hỏi cung mấy người này, phải không Trung Úy?
- Cứ trói họ lại đi đã, đợi lệnh sau.
Một lúc sau, tôi đi thăm ba người này. Nhìn thấy họ, tôi biết ngay là Kakimoto đã hành hạ họ rồi. Hai người đã đứng tuổi, con người kia còn trẻ. Họ ngồi xổm dưới đất, hai tay bị trói giật ra sau, run lên vì sợ hãi.
Tôi ngồi trước mặt họ, hỏi bằng tiếng Mã Lai:
- Các ông là ai?
Hai người lớn tuổi còn run sợ nên không nói được, người trẻ tuổi bình tĩnh hơn nên lên tiếng:
- Chúng tôi là dân Kayan ở Belaga. Chúng tôi đi thăm người bà con ở bên bờ sông.
- Tại sao lại đi đến chỗ này?
- Chúng tôi định đi bắt mấy con heo rừng.
Takeda la lớn:
- Nó nói mình là heo đó. Mình hôi hám như heo, bẩn thỉu như heo và vài ngày nữa thì bẩn hơn cả heo.
Tôi la lớn:
- Im đi. Lau sạch cây kiếm cho tôi rồi đưa cho Kakimoto.
Tôi quay về phía người Kayan trẻ tuổi:
- Trên đường từ Belaga tới đây, anh có gặp người da trắng nào không?
Người trẻ tuổi quay sang nói với hai người kia bằng tiếng thổ dân một lát rồi trả lời:
- Không.
- Nói láo. Tại sao anh phải hỏi hai người kia rồi mới trả lời. Anh là gián điệp của bọn lính da trắng rồi.
- Xin đại quan Nhật thương xót cho chúng tôi, chúng tôi chỉ đi thăm người bà con thôi. Đây là cha tôi. Còn người kia là em của cha tôi.
Tôi cắt nghĩa cho hắn:
- Anh biết là các anh đang ở trong tình trạng thập phần nguy hiểm. Chúng tôi đây là toán lính nhỏ, không thể đè các anh ra đi loan truyền tin tức về chúng tôi cả. - Kakimoto đã dừng bên cạnh tôi, cây kiếm Samurai đã tuột ra khỏi vỏ. Ba người nọ co rúm người sợ hãi. - Nếu các anh đã nhìn thấy lính da trắng ở đâu thì dân chúng tôi tới đó, lúc đó tôi sẽ tha chết cho.
Người trẻ tuổi Kayan nói:
- Các ông bắn nhau thì chúng tôi chết mất còn gì.
- Thì các anh phải chấp nhận hên xui chứ. Có thể chúng tôi sẽ không tấn công họ nếu quân số họ đông quá. Điều mà chúng tôi muốn biết là bây giờ họ ở đâu và có bao nhiêu người. Chúng tôi sẽ trở về căn cứ và các anh sẽ được tha. Các anh không có chọn lựa nào cả nếu muốn trở về với họ hàng, gia đình.
Ba người nọ lại châu đầu lại với nhau để thảo luận, một lát sau người trẻ tuổi quay sang nói với tôi:
- Chúng tôi nhìn thấy toán lính người da trắng từ xa, nhưng không biết họ đông cỡ nào, nhưng cách nay đã ba ngày rồi. Nếu muốn chúng tôi sẽ dẫn các ông tới nơi đó.
- Tốt. - Tôi hài lòng với kết quả cuộc lấy khẩu cung. - Kakimoto, nói cho họ ăn gì đi.
Ba ngày sau chúng tôi tới một khúc sông hẹp, chung quanh là những ngọn đồi phủ đầy cây và những bụi cây rậm rạp. Chúng tôi đánh dấu thuyền dưới một bụi cây rồi tiến về một ngọn đồi. Tay những người Kayan vẫn bị trói chặt những sợi dây thừng được thả lỏng để họ có thể di chuyển thoải mái. Họ nói là sắp tới chỗ đóng quân người da trắng nên chúng tôi di chuyển thật nhẹ nhàng, tránh gây tiếng động. Vài giờ sau, chúng tôi đi ra khỏi vùng núi đá và gặp một con suối có chiều ngang khoảng sáu mét, nước chảy xiết. Thình lình tôi thấy một người mặc bộ đồng phục màu lá cây ở phía bờ sông bên kia. Chúng tôi vội vàng nằm sát xuống đất, những cành cây dương xỉ cao đã che khuất bóng người kia. Tôi vây Kakimoto lại gần:
- Mong là nó không nhìn thấy mình, coi chừng khi tôi quan sát nhé.
Tôi từ từ đứng dậy nhìn qua khe hở những cành dương xỉ. Tên lính vẫn còn đang đứng bên cạnh một thân cây đã đổ và hút thuốc lá. Đó là một người Úc cao, râu ria lởm chởm, đầu đội chiếc mũ rộng vành, khẩu súng Owen đeo trên vai. Hắn ta hít một hơi dài rồi ném mẩu thuốc xuống ở dòng suối, hắn nhìn theo làn nước chảy một lát rồi quay mặt đi thẳng và biến mất trong các bụi rậm.
- Kakimoto, mình phải lội qua bên kia xem lực lượng quân địch như thế nào. Takeda coi chừng ba người Kayan này, còn bao nhiêu tụ họp ở đây.
Kakimoto bò đi, miệng khẽ ra lệnh:
- Tập hợp, tập hợp tại đây.
Nhanh chóng, hắn ta quay trở lại với đầy đủ quân số.
- Nghe đây, đây là kế hoạch hành động. Kakimoto dẫn hai người đi về phía bắc dong suối hai mươi mét, Terayama dẫn hai người đi về hướng nam dòng suối hai mươi mét. Shiratoni và Kawabe ở đây với tôi để yểm trợ. Phần sườn sẽ băng qua suối đồng thời với hai cánh bắc và nam. Khi tất cả đã qua được ba phần tư tôi sẽ cùng với Shiratoni và Kawabe tiến theo. Mục tiêu của chúng ta là dò thám xem quân số của địch quân. Coi chừng trạm gác của địch.. Không được nổ súng ngoại trừ khi bị địch quân phát hiện. Nếu địch chỉ là một lực lượng nhỏ, tôi sẽ nổ súng trước tấn công. Sau một giờ trở lại đây nếu không chạm địch. Hãy tuân hành lệnh này.
Bộ phận sườn bắt đầu khởi hành sau khi hai toán nam và bắc bắt đầu lội qua suối Shiratoni và Kawabe chĩa thẳng mũi súng về phía trước. Tôi quan sát thật kỹ bờ bên kia, nhưng chẳng có dấu hiệu di chuyển hay ánh thép nào cả. Khi cả hai toán lính đã băng qua được ba phần tư dòng suối, chúng tôi bước xuống nước, Shiratoni và Kawabe theo sau.
Bất chợt những ánh lửa tóe lên từ những bụi cây phía trước. Sau loạt tiếng súng hòa với tiếng hú của giống dân bộ lạc Dyaks, thân thể của Kakimoto và hai người lính khác đó nhào xuống dòng nước đang chảy xiết. Phía kia, toán của Terayama cũng không khá hơn, cả ba thân hình cũng bổ nhào xuống dòng suối. Chiếc bóng khoác bộ quân phục màu xanh lá cây cùng chiếc mũ rộng vành xuất hiện, nóng súng Owen cùng đang hướng về phía chúng tôi. Tói quay đầu lại và nhảy vội về bờ suối, theo sau là Shiratoni và Kawabe. Rồi những tia sáng lóe lên chung quanh, tôi nghe tiếng Shiratoni kêu thét lên và Kawabe thở nặng nhọc. Tôi nhào vào đám bụi rồi chạy thục mạng giữa những thân cây.
- Takeda, chạy mau. - Tôi la lớn khi nhìn thấy hắn.
Takeda va ba người Kayan bắt đầu chạy. Đằng sau tôi, rừng cây vang lên những tiếng kêu la khủng khiếp. Dần dần tôi nhận nhận biết là nhóm quân phục kích kia chỉ là một toán hỗn tạp, vô kỷ luật, dẫn đầu bởi một người lính Úc. Họ đang bận rộn nhào xuống suối lấy đầu của Kakimoto và đám lính xấu số của tôi, duy chỉ có người Úc là muốn truy lùng chúng tôi mà thôi. Đó cũng là cơ hội tốt cho tôi và Takeda trốn khỏi nơi đây. Ba người Kayan cùng bám sát chúng tôi. Tôi hiểu là với tình hình hiện tại, họ phải theo chúng tôi, nếu không dân chúng cũng không thể vì họ mang tiếng là phản quốc, đã đi theo quân đội Nhật. Sau khoảng mười lăm phút, tôi vấp phải một rễ cây lớn ngã bổ nhào, Takeda và ba người kia cũng ngã chồng lên tôi. Chúng tôi ngồi dậy để thở. Một lúc sau, Takeda rít lên:
- Cạm bẫy của người Úc. Giả vờ không nhìn thấy mình, nó đứng hút thuốc tỉnh bơ như một du khách ngắm ngọn núi Phú Sĩ Sơn vậy. Nhưng dù sao nó cũng là một người can đảm. May mà đầu mình vẫn còn trên cổ, nhưng nếu trở về thì thiếu tá sẽ vặn ra sau mất!
Tát Takeda một cái, tôi ra lệnh cởi trói cho ba người Kayan này rồi nói với họ:
- Đưa chúng tôi về thuyền, nhanh lên, nếu không chúng tôi sẽ bắn. Càng nhanh càng tốt, nếu không toán người Dyaks đuổi tới nơi.
Người trẻ tuổi nói:
- Đường nhanh nhất là đi qua ngọn đồi này.
Những người Kayan này đi thật nhanh và chúng tôi theo sát bến chân. Khi tới ngọn đồi, họ đi nhanh hơn và bắt đầu leo lên dốc. Ngọn đồi dốc ngược, chúng tôi phải bám vào những rễ cây hay bụi cỏ mà đu người lên. Takeda và tôi thở hồng hộc, chiếc kiếm Samurai làm cho người tôi vướng víu, đôi lán tôi muốn vất nó đi, chiếc đai da thường vướng vào những cành cây nhỏ bên đường làm tôi phải kéo, phải giựt, thực là bực mình và khó chịu. Thấy vậy, người Kayan trẻ nói với tôi:
- Để tôi cầm chiếc kiếm cho, ông sẽ thấy dễ chịu hơn.
Nghe vậy, tôi cởi cây kiếm ra rồi đưa cho hắn.
Khi chúng tôi lên gần tới đỉnh, một người Kayan nhảy bổ vào Takeda làm hắn ngã chúi nhưng tay với được một cành cây, khẩu súng trên tay rơi ra rồi lăn xuống chân đồi mất dạng.
Sau cùng chúng tôi lên tới đỉnh đồi, tôi ngồi bệt xuống đất để thở. Thình lình đau nhói rồi tất cả trở nên tối đen, lâu lâu tôi nghe tiếng nói, rồi tôi đung dây. Trước mặt tôi, ba người Kayan đang nhe răng ra cười, người trẻ tuổi đang chơi với cây kiếm. Và ngay trước mặt ba người này, một bộ mặt cũng nhe răng ra cười, đó là một cái đầu có một mắt, cái đầu của Takeda năm lăn long lóc dưới đất. Tôi nghe thoang thoảng có tiếng cười sằng sặc của Takeda:
- Lại bị mắc mưu lần này.
Thế rồi mọi việc qua đi nhanh chóng, ba người Kayan đi xuống, miệng ríu rít hát, tay cầm chiến lợi phẩm.
- Có lẽ anh muốn gặp Takeda phải không? Này Takeda, lại đây. Anh thấy không, chúng tôi là hai con ma sống ở trên đỉnh đồi này suốt trên mấy chục năm nay rồi. Làm sao vậy? Anh muốn đi khỏi đây à? Đừng chạy mau như vậy, té chết đó. Đi từ từ thôi, không có lại bị té. Từ từ thôi.