Chẳng có gì phải nghi ngờ về sự không thoải mái này, nữ thanh tra nghĩ vậy, nên nhớ là cô ấy đang bị vây quanh bởi nửa tá cảnh sát to gấp đôi mình - và nửa tá còn lại thì đang đứng đợi bên ngoài cửa hàng.
“Chào buổi sáng”, Sachs nói. “Chúng tôi đang tìm kiếm người đàn ông này. Việc tìm ra hắn có ý nghĩa rất quan trọng. Hắn có thể
ã thực hiện vài tội ác nghiêm trọng.” Cô nói với tốc độ hơi chậm một chút so với tốc độ mà cô cho là đúng mực trong giao tiếp xã giao.
Và điều đó, hóa ra lại là một sai lầm rõ ràng.
“Tôi hiểu điều đó”, người phụ nữ nói bằng thứ tiếng Anh hoàn hảo, với một chút giọng Pháp, thực sự đáng ngạc nhiên. “Tôi đã nói với những cảnh sát khác bất cứ điều gì tôi nhớ ra. Tôi khá sợ hãi khi hắn ta đeo thử cái mũ trùm lên, kéo nó xuống như một cái mặt nạ. Thật đáng sợ.”
“Chắc chắn rồi”, Sachs nói, và nâng tốc độ phát âm lên một chút. “Chị có cảm thấy phiền nếu chúng tôi muốn lấy dấu vân tay của chị không?”
Việc này là để xác minh xem có đúng là dấu vân tay của cô ấy ở trên tấm hóa đơn và những đồ vật tìm thấy tại hiện trường hay không. Người phụ nữ đồng ý, và một thiết bị phân tích dấu vân tay cầm tay đã xác nhận đó là dấu tay của cô ấy.
Sachs hỏi: “Chị có chắc chắn là không biết chút gì về hắn và nơi hắn sống chứ?”.
“Không. Anh ta mới chỉ đến đây một hay hai lần gì đó. Có thể nhiều hơn, nhưng anh ta thuộc dạng người chẳng bao giờ khiến ta chú ý. Bình thường. Không cười, không nhăn nhó, không nói một từ. Hoàn toàn bình thường.”
Không hề có một vẻ ngoài xấu xa của một tên giết người, Sachs nghĩ. “Thế còn những nhân viên khác của chị thì sao?”
“Tôi đã hỏi tất cả mọi người. Chẳng ai trong số họ nhớ gì về hắn cả.”
Sachs mở chiếc va li, thay chiếc máy phân tích vân tay và lôi chiếc máy tính Toshiba ra. Trong vòng một phút, cô đã khởi động xong và chạy phần mềm Kỹ thuật nhận dạng khuôn mặt điện tử EFIT. Đây là phiên bản được tối ưu hóa dành cho máy tính của Identikit, được sử dụng để tái t hình ảnh khuôn mặt các nghi can. Hệ thống điều khiển bằng tay này sử dụng các tấm thẻ về đặc điểm con người và tóc, từ đó các viên cảnh sát điều tra sẽ ghép lại và đưa cho nhân chứng xem để tạo ra vẻ ngoài tương tự của nghi phạm. EFIT sử dụng phần mềm để tạo ra một bức ảnh gần giống như ảnh chụp.
Trong vòng năm phút, Sachs đã có được bức ảnh ghép của một người đàn ông da trắng với khuôn mặt được cạo râu nhẵn nhụi và mái tóc nâu sáng được chải chuốt gọn ghẽ, khoảng bốn mươi tuổi. Hắn ta nhìn giống với bất kỳ một người nào trong số hàng triệu doanh nhân, những chủ thầu hay những người bán hàng trung niên mà ta có thể tìm thấy ở khu tàu điện ngầm.
Trung bình...
“Chị có nhớ hắn ta mặc cái gì không?”
Có một chương trình chạy kết hợp với EFIT, nó sẽ “mặc” cho hình ảnh của nghi phạm mọi thể loại trang phục khác nhau - như bộ quần áo ghép lên trên những con búp bê giấy. Nhưng người phụ nữ không thể nào nhớ ra bất cứ thứ gì ngoài chiếc áo mưa tối màu.
Người nữ bán hàng bổ sung: “À, một điều nữa. Tôi nghĩ rằng hắn có giọng miền Nam”.
Sachs gật đầu và ghi lại điều đó vào cuốn sổ tay. Rồi kết nối với một chiếc máy in laze nhỏ và ngay lập tức đã có cả tá ảnh cỡ 14x20 của Đối tượng 109, với một bản miêu tả ngắn gọn về chiều cao, cân nặng cùng với thông tin rằng hắn có thể đang mặc một chiếc áo mưa và có giọng địa phương. Cô thêm vào dòng cảnh báo rằng hắn nhắm vào mục tiêu người vô tội, đưa những thứ đó cho Bo Haumann, cựu sĩ quan huấn luyện với mái tóc hoa râm húi cua, giờ đang là chỉ huy đơn vị Phản ứng nhanh (ESU), đội đặc nhiệm New York. Đến lượt ông ấy phân phát những bức ảnh cho các sĩ quan của mình và những viên sĩ quan tuần tra mặc thường phục có mặt với đội ở đó. Haumann phân chia các viên cảnh sát - kết hợp cả cảnh sát tuần tra với ESU, trang bị hỏa lực mạnh hơn - và ra lệnh cho họ bắt đầu đi thăm dò khu vực xung quanh.
Cả tá sĩ quan phân tán hết.
NYPD - Sở cảnh sát của một thành phố xinh đẹp, nhét đội đặc nhiệm của mình không phải vào trong các xe chuyên chở được vũ trang theo kiểu quân đội mà là vào trong các xe tuần tra cành sát luôn sẵn sàng nổ máy và các xe bán tải nhỏ, với các trang thiết bị được chuyên chở trong một chiếc xe buýt của ESU - một chiếc xe màu xanh trắng không có gì đặc biệt. Một trong số đó giờ đang đậu ở gần cửa hàng như một chiếc xe cảnh sát đánh lạc hướng.
Sachs và Sellito mặc áo chống đạn với tấm chống sốc che ở trước ngực trái và hướng về phía Little Italy. Khu vực xung quanh đã thay đổi một cách ngoạn mục trong suốt mười lăm năm qua. Một thời, đây từng là khu vực lớn của những người lao động nhập cư đến từ Ý, và giờ co lại gần như chẳng còn gì nhiều lắm, nhờ vào sự lan rộng của khu phố người Hoa từ phía nam, những người trẻ từ phía bắc và phía tây đến đây sống. Trên phố Mulberry, hai viên thanh tra đi qua một biểu tượng rõ rệt của sự thay đổi này: tòa nhà trước đây từng là Ravenite Social Club, hang ổ của gia đình tội phạm Gambino, do John Gotti - đã chết hoặc biến mất từ lâu rồi - cầm đầu. Câu lạc bộ này đã bị thu hồi bởi chính phủ - dẫn đến một biệt danh không thể tránh được là “Club Fed” - và giờ nơi đây chỉ là một tòa nhà thương mại đang chờ người thuê.
Hai viên thanh tra chọn một tòa nhà và bắt đầu cuộc tìm kiếm manh mối hung thủ, giơ phù hiệu và bức ảnh của nghi phạm cho những người bán hàng trên phố và những nhân viên trong các cửa hiệu, mấy cô cậu học sinh đang trốn học và nhấp những ly cà phê từ quán Starbucks, vài người nghỉ hưu nằm trên chiếc ghế dài hay trên các bậc thềm. Họ thỉnh thoảng vẫn nghe tin báo từ những cảnh sát khác.
Không có gì hết... Bình thường ờ Grand, Hết...
Nghe rõ... Bình thường ở Hester, Hết... Chúng tôi đang chuyển sang hướng đông...
Sellito và Sachs tiếp tục trên tuyến đường của mình và chẳng may mắn hơn những người khác là mấy.
Một tiếng nổ lớn ở phía sau lưng họ.
Sachs thở mạnh - không phải vì tiếng nổ, cô ngay lập tức nhận ra đó là tiếng máy nổ của một chiếc xe tải - mà là vì phản ứng của Sellito. Anh ta nhảy sang một bên, nhanh chóng nấp sau một buồng điện thoại, bàn tay đặt sẵn trên báng khẩu côn của mình.
Anh ta chợp chợp mắt, nuốt ực một cái, cười nhạt. “Cái xe tải khốn kiếp”, anh ta lẩm bẩm.
“Ừ, Sachs nói.
Anh ta đưa tay lau mặt và họ lại tiếp tục.
Ngồi trong ngôi nhà an toàn[22], ngửi mùi tỏi từ một trong những nhà hàng gần đó ở khu Little Italy, Thompson Boyd cắm cúi vào một quyển sách, đọc những dòng hướng dẫn trong đó rồi kiểm tra những gì hắn mua từ cửa hàng đồ gia dụng một tiếng
[22] Nơi những tên tội phạm chuyên nghiệp dùng để ở tạm hoặc để tạm lánh sự truy lùng của cảnh sát.
Hắn đánh dấu những trang nhất định bằng tờ giấy nhớ màu vàng và viết một vài ghi chú ở bên lề. Những bước sử dụng đòi hỏi một chút mưu mẹo và sự khéo léo nhưng hắn biết mình có thể làm được. Chẳng có gì không thể làm được nếu ta đầu tư thời gian để thực hiện nó. Cha của hắn đã dạy hắn điều đó. Dù việc khó hay việc dễ.
Nó chỉ đơn giản là câu hỏi vị trí mà con đặt dấu thập phân...
Hắn nhỏm dậy khỏi chiếc bàn, bên cạnh là một chiếc ghế tựa, đèn bàn và chiếc giường đơn, đó là đồ nội thất duy nhất trong căn phòng. Một chiếc ti vi, một chiếc tủ lạnh nhỏ và một cái sọt rác. Hắn cũng giữ một ở đây một vài thứ phù hợp cho công việc của mình.
Thompson kéo chiếc găng tay cao su ra khỏi cổ tay phải và thổi vào đó để làm mát làn da. Rồi làm tương tự với tay bên trái. (Chúng ta cần biết rằng một căn nhà an toàn cũng có thể bị lần ra ở một thời điểm nào đó nên phải đề phòng để không lưu lại một bằng chứng nào có thể buộc tội mình, cho dù đó là đeo găng tay hay sử dụng một cái bẫy.) Mắt hắn không tốt lắm ngày hôm nay. Hắn liếc mắt, nhỏ vài giọt, và cái cảm giác đau nhói giảm dần. Hắn khép mi lại.
Miệng thổi sáo khe khẽ bài hát đầy ám ảnh từ bộ phim Cold Mountain.
Những chiến binh nhắm bắn vào những chiến binh, cái tiếng nổ lớn ấy, những lưỡi lê. Những hình ảnh trong bộ phim chạy qua đầu hắn.
Wssst...
Bài hát biến mất, cùng với những hình ảnh, và một giọng cổ điển nổi lên. “Bolero”.
Hắn không nói được những giai điệu đến từ đâu. Giống như ở bên trong đầu hắn có một đầu đọc đĩa CD được lên chương trình sẵn. Nhưng với “Bolero” thì hắn biết nguồn gốc xuất xứ. Cha của hắn có một phần cỉa album này. Người đàn ông to lớn với mái tóc húi cua đã chơi đi chơi lại album đó trên chiếc máy Sears nhựa màu xanh trong xưởng của mình.
“Hãy nghe đoạn này, con trai. Nó thay đổi nốt. Đợi... đợi... Đấy! Con nghe thấy chứ?”
Thằng bé tin rằng nó đã ng thấy thế.
Thompson mở mắt ra và quay lại với quyển sách.
Năm phút sau: Wssst... “Bolero” kết thúc và một giai điệu khác lại thoát ra từ đôi môi đang chúm lại của hắn: “Time After Time”. Cyndi Lauper đã trở nên nổi tiếng cùng bài hát đó trong những năm 80.
Thompson là một người yêu thích âm nhạc và ngay từ khi còn ít tuổi, hắn đã muốn chơi một nhạc cụ. Mẹ của hắn đã đưa hắn tới lớp học đàn guitar và sáo trong vài năm. Sau vụ tai nạn của bà ấy, cha hắn đưa hắn tới lớp một mình, ngay cả khi ông ấy bị muộn giờ làm.
Nhưng đã có những vấn đề đối với sự tiến bộ của Thompson: những ngón tay của hắn quá to và mập so với cần và những phím đàn guitar và cả những lỗ sáo và đàn piano, và hắn không hề có tí chất giọng nào. Dù cho đó có là dàn hợp xướng nhà thờ hay là Willie, Waylon hoặc Asleep at the Wheel, không, giọng của hắn chẳng thể nào hơn tiếng ồm ộp rền rĩ phát ra từ một cái thanh quản già nua cũ kỹ. Bởi vậy, sau một hoặc hai năm gì đó, hắn đã bỏ âm nhạc và lấp đầy thời gian của mình bằng những việc mà các cậu nhóc thường làm ở những nơi như Amarillo, Texas: dành thời gian cho gia đình, đóng đinh rồi bào gỗ, trộn cát trong cái xưởng của cha
mình, chơi trò chạm và chặn bóng[23], săn tìm và hò hẹn với những cô gái còn e ấp ngượng ngùng, đi dạo trong hoang mạc.
[23] Có thể hiểu là chơi trò chơi bóng ma.
Hắn nhét cái tình yêu âm nhạc của mình ở nơi mà mơ ước ngày ấy biến mất.
Và nơi ấy không quá sâu. Sớm hay muộn thì cũng có những lúc nó lại lộ ra mà thôi.
Trong trường hợp của hắn thì chuyện này xảy ra trong nhà giam một vài năm trước. Một bảo vệ trong khu nhà an ninh tối đa tiến tới và hỏi Thompson: “Đó là cái khỉ gì thế?”.
“Ý ông là thế nào?”, Joe Trung bình một thời từng điềm tĩnh hỏi.
“Bài hát đó. Anh vừa huýt sáo.”
“Tôi đã huýt sáo sao?”
“Mẹ kiếp, đúng thế. Anh không biết à?”
Hắn nói với người bảo vệ: “Chỉ là một điều tôi làm thôi mà. Chẳng nghĩ gì cả”.
“Mẹ kiếp, nghe hay phết đấy.” Người bảo vệ đi khỏi, bỏ lại Thompson cười một mình. Như thế thì sao? Hắn có một nhạc cụ, thứ được sinh ra cùng hắn, thứ hắn luôn mang theo mình. Thompson đi tới thư viện của nhà tù và nhìn vào đó. Hắn nhận ra rằng mọi người có thể gọi hắn là một người chơi “sáo miệng”, khác với một người chơi sáo thiếc, giống như ở trong các ban nhạc Ireland. Những người chơi “sáo miệng” rất hiếm - hầu hết mọi người đều có quãng (cao độ) hơi rất hạn chế - và có thể kiếm sống tốt như một nhạc công chuyên nghiệp trong các buổi hòa nhạc, quảng cáo, ti vi và phim ảnh (tất nhiên, ai cũng biết bối cành bộ phim Chiếc cầu trên sông Kxvai; ta thậm chí không thể nghĩ về nó mà không huýt lên vài nốt nhạc, ít nhất là trong đầu). Thậm chí còn có cả các cuộc thi đấu “huýt sáo miệng”, nổi tiếng nhất là giải International Grand Championship, nơi có hàng tá những người trình diễn nổi tiếng - rất nhiều trong số họ xuất hiện thường xuyên với các dàn nhạc trên khắp thế giới và có các diễn viên múa phụ họa riêng.
Wssst...
Một giai điệu khác lại hiện lên trong đầu hắn. Thompson Boyd nhả ra những nốt nhạc một cách nhẹ nhàng, tạo ra một tiếng láy nhẹ. Hắn nhận ra mình đã để khẩu súng 22 ly ngoài tầm với. Hắn không làm mọi việc theo quyển sách... Hắn kéo khẩu súng ngắn gần hơn rồi quay trở lại với quyển sách hướng dẫn một lần nữa, dán nhiều tấm ghi chú hơn vào các trang giấy, liếc về phía túi đồ để bảo đàm rằng có đủ thứ mình cần. Hắn nghĩ mình có kỹ năng. Nhưng, như mọi khi, khi tiếp cận một thứ gì đó mới, hắn sẽ học tất cả mọi thứ lý thuyết khô khốc trước khi thực hiện công việc.
“Không có gì, Rhyme”, Sachs nói qua chiếc điện thoại đang đung đưa gần đôi môi rộng của mình.
Tâm trạng hứng khởi lúc trước của anh rõ ràng đã tan biến như hơi nước khi ngắt lời cô: “Không có gì?”.
“Chẳng có ai nhìn thấy hắn cả.”
“Em đang ở đâu?”
“Cơ bản tụi em đã bao quát hết toàn bộ khu vực Little Italy rồi. Lon và em đang ở phía Nam. Phố Canal.”
“Chết tiệt”, Rhyme lẩm bẩm.
“Chúng ta có thể...” Sachs dừng lại. “Đó là cái gì thế?”
“Gì
“Đợi chút.” Cô nói với Sellito: “Đi nào”.
Giơ chiếc phù hiệu ra, cô giành đường đi xuyên qua bốn làn xe cộ dày đặc, nhìn quanh rồi tiến lên phía nam trên phố Elizabeth, một “thung lũng” tối giữa những tòa nhà chung cư, các cửa hàng bán lẻ và nhà kho. Cô dừng lại một lần nữa. “Ngửi thấy không?”
Rhyme hỏi một cách châm chọc: “Ngửi sao?”.
“Em đang nói với Lon.”
“Ừ, viên cảnh sát to lớn nói. “Nó là cái gì nhi? Một cái gì đó ngọt.”
Sachs chỉ về phía một công ty bán buôn hương liệu, xà phòng và các sản phẩm thảo dược, hai cánh cửa nằm ở phía nam phố Canal, trên phố Elizabeth. Mùi hương hoa lôi cuốn phảng phất từ những cánh cửa đang mở là mùi hoa nhài - đó là mùi họ đã phát hiện trên chiếc túi, cũng là mùi mà Geneva đã ngửi thấy ở bảo tàng.
“Chúng ta có vẻ có manh mối rồi, Rhyme. Em sẽ gọi lại.”
“Vâng, vâng”, người đàn ông Trung Hoa mảnh khảnh trong cửa hàng bán buôn thảo dược nói, nhìn chằm chằm vào bức ảnh ghép từ EFIT của Nghi phạm 109. “Tôi có nhìn thấy anh ta đôi lần. Ở trên lầu. Anh ta không ở đây nhiều lắm. Anh ta đã làm gì?”
“Anh ta có ở trên đó lúc này không?”
“Tôi không biết. Không biết. Tôi nghĩ là mình có thấy anh ta hôm nay. Anh ta làm gì?”
“Căn hộ nào?”
Người đàn ông nhún vai.
Công ty nhập khẩu thảo dược chiếm hết tầng một, nhưng ở phía cuối của con đường mờ tối, qua chiếc cửa an ninh, là cầu thang bộ dẫn lên bóng tối. Sellito rút điện đàm ra và gọi điện theo tần số hoạt động.
“Chúng tôi đã lần ra hắn.”
“Ai vậy?”, Haumann ngắt lời.
“Ồ, xin lỗi. Selltio đây. Chúng tôi nằm cách hai tòa nhà ở phía nam phố Canal, trên phố Elizabeth. Chúng ta có được danh tính chính xác của người thuê nhà. Có thể hắn đang ở trong tòa nhà lúc này.”span>“Đội Phản ứng nhanh (ESU), tất cả các đơn vị. Nghe rõ. Hết?”
Những phản hồi xác nhận lệnh lan qua sóng điện đàm.
Sachs thông báo tên và truyền tin: “Di chuyển lặng lẽ và tránh đường Elizabeth. Hắn có thể quan sát con phố từ cửa sổ trước”.
“Nhất trí, 5885. Địa chỉ là gì? Tôi gọi để lấy lệnh khám xét, hết.”
Sachs đọc cho anh ta địa chỉ. “Hết.”
Không quá mười lăm phút sau, các đội đã có mặt tại địa điểm và các cảnh sát đội Tìm kiếm và Giám sát “S and S” đang kiểm tra phía trước và phía sau tòa nhà bằng ống nhòm, thiết bị cảm biến hồng ngoại và âm thanh. Người đứng đầu đội Tìm kiếm và Giám sát nói: “Tòa nhà có bốn tầng. Kho nhập hàng nằm ở tầng trệt. Chúng tôi có thể quan sát tầng hai và tầng bốn. Hai tầng này đã có người ở - các gia đình người châu Á. Một cặp vợ chồng già ở tầng hai và trên tầng bốn là một phụ nữ với khoảng bốn hoặc năm đứa trẻ.”
Haumann nói: “Thế còn tầng ba?”.
“Cửa sổ đã được kéo rèm, nhưng máy dò hồng ngoại cho thấy có phản ứng nhiệt. Có thể là cái ti vi hoặc là một cái lò sưởi. Nhưng cũng có thể là người. Và chúng ta có một vài âm thanh. Tiếng nhạc. Và tiếng sàn nhà cọt kẹt, giống thế.”
Sachs nhìn vào sơ đồ hướng dẫn của tòa nhà. Và cái hộp phía trên cái nút liên lạc nội bộ cho tầng ba không có gì cả.
Một viên cảnh sát đến và đưa cho Haumaiui một mẩu giấy. Đó là lệnh khám xét được ký bởi tòa án bang và được gửi qua máy fax tới xe của đội ESU. Haumaiui xem xét tờ giấy, bảo đàm rằng địa chỉ chính xác - một lệnh khám xét bất ngờ có thể khiến họ phải chịu trách nhiệm pháp lý và phá hỏng vụ án chống lại nghi phạm. Nhưng tờ giấy đầy đủ thông tin chính xác. Haumarm nói: “Hai đội đi vào, mỗi đội bốn người, ở cầu thang trước và lối thoát hiểm sau. Một người giữ thanh dầm[24] ở phía trước”. Anh lấy ra tám người và chia họ thành hai nhóm. Một trong hai nhóm - nhóm A - đi ra phía trước. Nhóm B ở lối thoát hiểm. Anh nói với nhóm thứ hai: “Các cậu phá cửa sổ khi đếm đến ba, và tấn công nghi phạm bằng lựu đạn sáng, hai giây trễ”.
[24] Battering ram: thanh gỗ/hoặc sắt dùng để phá cửa.
“Nhất trí.”
“Đếm đến không, phá cửa trước”, anh nói với trường nhóm A rồi phân công nhiệm vụ cho các sĩ quan khác bảo vệ cửa phòng các thường dân và để yểm trợ. “Giờ thì triển khai. Nhanh, nhanh, nhanh!”
Những sĩ quan – chủ yếu là nam, hai nữ - di chuyển nhanh chóng theo mệnh lệnh của Haumann. Nhóm B đi vòng ra phía sau tòa nhà, trong khi Sachs và Haumatm nhập vào với nhóm A, cùng một nữ cảnh sát giữ thanh dầm.
Với những tình huống bình thường thì một cảnh sát điều tra hiện trường sẽ không được tham gia vào đội xâm nhập. Nhưng Haumaim đã từng thấy Sachs nằm dưới làn đạn và biết rằng cô có thể nhanh chóng rút súng ra đáp trả. Và, quan trọng hơn là các thành viên trong đội Phản ứng nhanh rất chào đón cô tham gia. Họ không bao giờ thừa nhận việc đó, ít nhất không phải với Sachs, nhưng họ thực sự coi cô là một thành viên và vui mừng khi có cô chiến đấu cùng. Tất nhiên, đó không phải do sự tự ái bởi cô là một trong những tay bắn súng hàng đầu của lực lượng.
Còn đối với Sachs, cô chỉ đơn giản là thích tham gia vào nhiệm vụ đột nhập.
Sellito tình nguyện ở dưới và quan sát con phố.
Đầu gối đau nhức vì bệnh viêm khớp, Sachs leo lên tầng ba cùng với các sĩ quan khác. Cô bước tới gần cửa, lẳng nghe rồi gật đầu với Haumann. “Tôi có thể nghe thấy tiếng gì đó”, cô thì thầm.
Haumann nói vào điện đàm: “Đội B, báo cáo”.
“Chúng tôi đã vào vị trí”, Sachs nghe qua tai nghe. “Không thể nhìn vào bên trong. Nhưng tất cả đã sẵn sàng.”
Người chỉ huy nhìn một lượt quanh đội. Viên cảnh sát to lớn với thanh dầm - một ống nước nặng, dài khoảng một mét - gật đầu. Một cảnh sát khác áp sát phía sau anh ta và khẽ xoay tay đấm cửa để kiểm tra xem nó có khóa không.
Haumaiui thì thầm qua chiếc micro: “Năm... bốn... ba...”.
Im lặng. Đây đáng lẽ là khoảnh khắc họ phải nghe thấy tiếng kính vỡ và tiếng lựu đạn quang nổ.
Không có gì cả.
Có điều gì đó không ổn ở đây. Viên cảnh sát nắm núm cửa đang rung lên một cách dữ dội, gào thét.
Lạy Chúa, Sachs nghĩ, nhìn anh ta chằm chằm. Anh ta đang lên cơn giật hoặc gì đó. Một sĩ quan cảnh sát đặc nhiệm bị bệnh động kinh? Tại sao trong hồ sơ y bạ của anh ta không có thông tin quái này chứ?
“Có chuyện gì vậy?”, Haumaim thì thầm.
Anh ta không trả lời. Cơn co giật càng tồi tệ hơn. Mắt anh ta mở to và chỉ có lòng trắng.
“Nhóm B, báo cáo”, viên chi huy gọi vào điện đàm: “Chuyện gì đang xảy ra vậy, hết”.
“Nghe rõ, cửa sổ đã bị chặn bằng tấm ván gỗ”, người phụ trách nhóm B trả lời. “Gỗ ép. Chúng tôi không thể ném lựu đạn vào trong. Tình trạng Alpha, hết?”
Người cảnh sát ở cánh cửa đã khuỵu xuống, bàn tay anh ta đông cứng ở núm cửa, vẫn rung bần bật. Haumarm thì thầm với một giọng khàn khàn: “Chúng ta đang phí thời gian rồi! Lôi anh ta ra và phá cái cửa ngay lập tức!” Một cảnh sát khác tóm lấy anh ta.
Và người thứ hai bắt đầu rung lên theo.
Các cảnh sát khác bước lùi ra sau. Một người lầm bầm: “Cái khỉ gì thế...”
Rồi tóc của người cảnh sát đầu tiên bắt đầu bốc cháy.
“Hẳn đã cài điện vào cánh cửa.” Haumarui chi vào cái đĩa kim loại trên sàn. Chúng ta thường thấy những cái này trong các tòa nhà cũ kỹ - chúng được sử dụng như những miếng vá trên sàn gỗ cứng. Còn cái này lại được Nghi phạm 109 sử dụng làm một cái bẫy điện; điện cao thế truyền qua cả hai viên cảnh sát.
Lửa bốc lên từ đầu, lông mày, mu bàn tay rồi cổ áo của viên cảnh sát đầu tiên. Người còn lại đang dần mất nhận thức, nhưng vẫn rung lên bần bật.
“Chúa ơi”, một cảnh sát thầm thì bằng tiếng Tây Ban Nha.
Haumann quăng khẩu súng máy H&K của mình sang một cảnh sát đứng cạnh, lấy thanh dầm và vung nó thật mạnh vào cổ tay viên cảnh sát giữ núm cửa. Chắc chắn là xương sẽ rạn nứt rồi, nhưng nó đã làm những ngón tay anh ta phải buông ra. Mạch điện bị cắt đứt, hai người ngã xuống. Sachs dập lửa, ngọn lửa đã khiến hành lang ngập đầy mùi khen khét của tóc và da thịt cháy.
Hai trong số các sĩ quan yểm trợ bắt đầu thực hiện kỹ thuật cấp cứu CPR[25] cho hai đồng nghiệp đang bất tỉnh, trong khi một người nhóm A tóm lấy thanh dầm và vung nó vào cánh cửa. Cả đội ập vào, giương súng. Sachs ập vào theo.
[25] CPR (Cardiopulmonary resuscitation): kỹ thuật hồi sức tim - phổi.
Chỉ mất năm giây để họ nhận ra rằng căn hộ hoàn toàn trống không.