Mel Cooper lấy ra một vài mẫu vật từ con lăn và đưa chúng qua hệ thống sắc ký khí, một công cụ có thể làm được cả một núi công việc cần thiết khó nhằn trong mọi phòng xét nghiệm pháp y. Nó phân tích các vật chứng chưa rõ thành các thành phần cấu tạo và sau đó xác định chúng. Mất mười lăm phút hoặc hơn để có kết quả phân tích, và trong khoảng thời gian chờ đợi ấy Cooper ghép những mảnh đạn mà các bác sĩ trong phòng cấp cứu đã lấy ra khỏi chân của người phụ nữ mà hung thủ đã bắn trúng. Sachs đã nói khẩu súng phải là một khẩu côn, không phải loại tự động, bởi nó không có các vỏ đạn đồng rơi ra ở hiện trường vụ nổ súng bên ngoài bảo tàng.
“Ồ, thật là kinh khủng”, Cooper nói với kinh ngạc, khi đang kiểm tra những mảnh vỡ với một chiếc nhíp. “Khẩu súng này loại nhỏ, sử dụng đạn 22 ly. Nhưng đó là những viên đạn loại có ổ thuốc nổ lớn.”
“Tốt”, Rhyme nói. Anh tỏ vẻ vui mừng vì phiên bản ổ thuốc nổ lớn đầy uy lực của loại đạn 22 ly với hạt kích nổ ở vành chân là một loại đạn khá hiếm và do đó sẽ dễ dàng hơn để lần tìm dấu vết. Trên thực tế, nếu đó là một khẩu côn thôi cũng vẫn là hiếm rồi. Điều đó có nghĩa là họ có khả năng tìm ra nhà sản xuất loại súng này một cách dễ dàng.
Sachs, vốn là một xạ thủ súng ngắn đầy tính hơn thua, thậm chí không cần phải truy tìm câu trả lời.
“Hãng sản xuất vũ khí Bắc Mỹ - North American Arms - là nhà sản xuất loại này duy nhất mà tôi biết. Có thể đó là mẫu Black Widow của họ, nhưng tôi sẽ đoán đó là mẫu Mini Master. Nó có nòng súng dài khoảng mười centimet. Như thế sẽ chính xác hơn và có thể tập trung các phát bắn khá sát nhau.”
Rhyme hỏi nhà khoa học hình sự, anh ta đang nghiền ngẫm trên chiếc bảng xét nghiệm: “Ý anh là sao khi nói ‘kinh khủng’?”.
“Hãy nhìn xem.”
Rhyme, Sachs và Sellito tiến lên phía trước. Cooper đang nhấn nhấn xung quanh những mẩu kim loại dính máu bằng chiếc nhíp. “Nhìn có vẻ như là hắn tự làm ra những thứ này.”
“Đạn nổ?”
“Không, hoàn toàn không hay. Có thể còn tồi tệ hơn. Cái vỏ ngoài của đầu đạn làm bằng chì mỏng, ở bên trong, được nhồi đầy những thứ này.”
Có đến nửa tá những chiếc kim nhỏ xíu, vào khoảng ba phần tám chiều dài của một inch[1]. Khi trúng mục tiêu, đầu đạn sẽ nổ và những chiếc kim này sẽ bắn tung tóe theo hình chữ V bên trong cơ thể. Dù những viên đạn nhỏ nhưng có thể tạo ra sức phá hoại lớn hơn nhiều với viên đạn nổ bình thường. Nó được thiết kế không phải để ngăn chặn kẻ tấn công hay để phòng thù, mục đích của nó chỉ đơn giản là để phá hoại những mạch máu, tế bào bên trong. Nếu như không có ảnh hưởng tê cứng mất cảm giác do tác động của một viên đạn cỡ lớn, những viên đạn này sẽ mang lại những vết thương đau đớn vô cùng.
[1] Một inch = 2.54 cm
Lon Sellito lắc đầu, đôi mắt vẫn dán chặt vào những cái kim, và gãi nhẹ vệt máu vô hình trên mặt anh ta, hẳn là đang nghĩ tới việc anh ta suýt bị bắn trúng bởi một trong những viên đạn này. “Lạy Chúa”, anh ta lẩm bẩm. Tiếng nói vỡ ra và anh hắng giọng, cười để giấu nó, rồi đi ra khỏi chiếc
Một cách kỳ lạ, phản ứng của viên trung úy có nhiều vấn đề phiền phức hơn là phản ứng của cô bé. Geneva có vẻ như ít quan tâm tới những chi tiết về những phát súng khủng khiếp của kẻ tấn công cô. Cô lại nhìn vào đồng hồ của mình và ngồi thườn thượt một cách thiếu kiên nhẫn.
Cooper quét mảnh lớn nhất của viên đạn và chạy những thông tin về loại đạn này thông qua Hệ thống nhận dạng đạn đạo tích hợp (IBIS), hệ thống có gần một ngàn sở cảnh sát trên khắp đất nước đăng ký, cũng như hệ thống DRUGFIRE của FBI. Những cơ sở dữ liệu khổng lồ này có thể ghép một viên đạn, những mảnh vỡ hoặc những vỏ đạn bằng đồng với những viên đạn hoặc vũ khí đã có trong dữ liệu. Ví dụ như, khẩu súng được tìm thấy ở kẻ tình nghi ngày hôm nay, có thể nhanh chóng được tìm ra khớp với một viên đạn được ghép lại từ một nạn nhân năm năm trước đây.
Mặc dù kết quả trên những viên đạn này, không được khả quan lắm. Chính những chiếc kim trong viên đạn này được bẻ ra từ đuôi của những chiếc kim khâu, loại mà ta có thể mua ở bất cứ đâu. Không thể tìm được dấu vết.
“Không bao giờ dễ dàng, đúng không?”, Cooper lẩm bẩm. Theo hướng của Rhyme, anh cũng đã tìm kiếm thông tin về những người có đăng ký sở hữu súng loại Mini Master và khẩu Black Widow nhỏ hơn, với cỡ nòng 22 ly, đưa ra kết quả gần một ngàn người và không một ai trong số họ từng có hồ sơ phạm tội. Về mặt luật pháp, các cửa hàng không được yêu cầu lưu giữ thông tin của những người mua súng đạn và do đó, họ không bao giờ làm việc này. Lúc này đây thì, thứ vũ khí đó vẫn dẫn tới một ngõ cụt.
“Pulaski?”, Rhyme nói lớn. “Có được gì với con bọ rồi?”
“Cái xác - có phải đó là cách ngài gọi nó không? Ý ngài là thế phải không ạ?”
“Đúng, đúng, đúng. Có gì về nó?”
“Chưa có dữ liệu trùng. Chính xác thì một cái xác côn trùng có ý nghĩa gì?”
Rhyme không trả lời. Anh nhìn vào màn hình và nhìn thấy chàng trai trẻ mới đi được một đoạn nhỏ tới bộ Bọ cánh nửa trong dữ liệu về côn trùng. Anh ta vẫn còn cả một chặng đường dài phía trước. “Tiếp tục làm đi.”
Chiếc máy tính của máy sắc ký khí kêu một tiếng bíp; nó đã hoàn thành việc phân tích những đốm trắng, ở trên màn hình là một biểu đồ nhấp nhô, bên dưới là những khối chữ.
Cooper nghiêng về trước và nói: “Chúng ta có
Curcumin[2], demethoxycurcumin[3], bis Demethoxycurcumin[], một loại tinh dầu nguyên chất, acid amin, lizin[4] và tryptophan[4], theronine[4] và isoleucine[4], clorua, một loạt các loại protein có thể để lại dấu vết và một tỷ lệ lớn các tinh bột, dầu, các chất béo trung tính, natri, các glucid phức... Chưa bao giờ thấy hợp chất nào như thế này”.
[2] Một chất trong củ nghệ thuộc họ gừng.
[3] Một dẫn chất của Curcumin.
[4] Một loại acid amin.
Phương pháp sắc ký khí GC/MS[5] thực sự là một phép màu trong việc tách và nhận dạng vật chất, nhưng không cần thiết phải tuyệt đến mức nói cho ta biết những gì thêm vào đó. Rhyme thường có thể suy luận được những vật chất hay gặp, như xăng hay các chất nổ, chỉ dựa vào danh sách các thành phần của nó. Nhưng những thứ này thì lại mới đối với anh. Anh gõ đầu mình và bắt đầu xếp loại những chất này vào danh sách mà, là một nhà khoa học, anh biết rằng có thể và không thể được tìm thấy cùng nhau một cách logic. “Chất curcumin, những thành phần của nó và các gluxít phức rõ ràng là hợp với nhau.”
[5] Phương pháp phân tích sắc ký khí kết hợp với khối phổ - thường được dùng để định danh các chất chưa biết – giúp nhận biết chất nổ, chất cháy, ma túy,...
“Rõ ràng”, câu trả lời với một cái nhăn mặt của Amelia Sachs, người vẫn thường trốn lớp học Khoa học ở trường trung học để đi chơi trò đua xe siêu tốc.
“Chúng ta sẽ gọi nó là Nhóm chất số một. Rồi đến acid amin, các protein khác, tinh bột và chất béo tự nhiên - chúng cũng thường được tìm thấy với nhau. Chúng ta sẽ gọi nó là Nhóm chất số hai. Clorua..
“Chất độc, đúng không?” Pulaski hỏi.
“... và Natrium”, Rhyme lầm bẩm: “Gần như là giống với muối.” Một cái liếc nhìn sang chàng cảnh sát trẻ. “Chỉ nguy hiểm với những người có huyết áp cao. Hoặc nếu như cậu là một con ốc sên.”
Chàng trai trẻ quay trở lại với kho dữ liệu về côn trùng.
“Như vậy - với acid amin và tinh bột cộng với dầu - Tôi đang nghĩ Nhóm chất số hai là một loại thực phẩm, đồ ăn mặn. Lên mạng, Mel, và hãy tìm ra xem curcumin có trong cái thứ khỉ gì nào.”
Cooper làm điều đó. “Anh nói đúng. Đó là chất nhuộm có nguồn gốc tự nhiên được sử dụng trong sản xuất thực phẩm. Thường được tìm thấy có liên quanứ nằm trong Nhóm chất số một. Các tinh dầu nguyên chất nữa.”
“Các loại thực phẩm thuộc loại nào?”
“Có hàng trăm thức ăn loại này.”
“Cho một vài ví dụ xem nào!”
Cooper bắt đầu đọc tên trên một danh sách dài lê thê. Nhưng Rhyme cắt ngang. “Khoan đã, bắp rang bơ có trong danh sách không?”
“Để xem nào... À, đúng thế.”
Rhyme quay sang và gọi Pulaski: “Cậu có thể dừng lại rồi”.
“Dừng lại?”
“Đó không phải một cái vỏ xác côn trùng. Nó là cái vỏ ngoài của hạt ngô.”
Muối, dầu và bắp rang. Đáng lẽ phải nghĩ ra nó ngay trước rồi. Chết tiệt.” Tuy nhiên, câu chửi thêm vào lại là một tiếng hân hoan. “Viết lên biểu đồ, Thom. Nghi phạm của chúng ta thích ăn đồ ăn vặt.”
“Tôi có nên viết điều đó lên không?”
“Tất nhiên là không. Hắn có thể ghét bắp rang. Có thể hắn làm việc cho một công ty bắp rang bơ hoặc một rạp chiếu phim. Chỉ cần thêm vào chữ “bắp rang”. Rhyme nhìn vào biểu đồ. “Giờ thì hãy lần theo những dấu vết khác nào. Những thứ có màu trắng ngà.” Cooper lại chạy thí nghiệm GC/MS một lần nữa. Kết quả chỉ ra rằng đó là đường mía và acid uric.
“Acid cô đặc”, anh ta nói. “Đường mía thì nguyên chất - không có thực phẩm nào khác - và cấu trúc kết tủa như pha lê rất độc đáo. Tôi chưa từng nhìn thấy nó bị nghiền nhỏ lại như thế này.
Rhyme cảm thấy không hay với thông tin này. “Gửi nó tới những chuyên gia bom mìn của FBI.”
“Bom?”, Sellito hỏi.
Rhyme nói: “Chưa từng đọc sách của tôi à? Hừm”.
“Chưa”, viên thanh tra to béo đáp lại. “Tôi bận đi tóm cổ những kẻ xấu xa.”
“Chịu thua. Nhưng nó sẽ có ích nếu ít nhất nhìn vào cái tiêu đề lần này qua lần khác. Như trong quyển ‘Những thiết bị nổ tự tạo’. Đường thường là một thành phần trong đó. Trộn lẫn nó với Natrium Nitrate và ta sẽ có một quả bom khói. Với thuốc tím, đó là một trái bom nho nhỏ - nhưng vẫn có thể tạo ra sức phá hoại nếu như anh nhồi nó vào trong một cái ống. Tôi không biết chắc bằng cách nào mà mà acid uric xuất hiện, nhưng Cục điều tra liên bang FBI có cơ sở dữ liệu tốt nhất trên thế giới. Họ s trả lời cho chúng ta.”
Phòng thí nghiệm của FBI sẵn sàng xử lý những vật chứng phân tích cho các sở cảnh sát bang và địa phương, mà không tính phí, điều kiện là các cơ quan yêu cầu đồng ý với hai điều: chấp nhận kết quả của FBI là kết luận cuối cùng và đưa nó cho luật sư của bị cáo thấy. Bởi vì sự hào phóng của Cục - và cả tài năng nữa – các nhân viên nhận được quá nhiều yêu cầu giúp đỡ; họ thực hiện hơn bảy trăm ngàn phân tích trong một năm.
Ngay cả một viên cảnh sát thuộc Sở cảnh sát New York cũng sẽ đứng xếp hàng như bao người khác để loại đường này được đưa vào phân tích. Nhưng Lincoln Rhyme thì có một tay trong - Fred Dellray, một đặc vụ thuộc văn phòng FBI Manhattan, thường làm việc với Rhyme và Sellito đồng thời có tầm ảnh hưởng rất lớn trong Cục. Một điều quan trọng không kém là sự thật rằng Rhyme đã giúp FBI thiết lập hệ thống PERT[6] của họ. Sellito gọi cho Dellray, người hiện đang làm việc cho lực lượng cảnh sát đặc nhiệm điều tra những báo cáo về các nguy cơ đánh bom khủng bố ở New York. Dellray gọi cho Sở chỉ huy FBI ở Washington D.C., và chỉ trong vài phút, chuyên gia kỹ thuật đã được triệu tập để giúp đỡ trong chuyên án Nghi phạm 109. Cooper gửi cho anh những kết quả của các phân tích và nén những bức ảnh kỹ thuật số của các bằng chứng thông qua một email an toàn.
[6] Hệ thống trung tâm xử lí bằng chứng thực.
Không quá mười phút trôi qua trước khi điện thoại reo lên.
“Lệnh, trả lời”, Rhyme mở hệ thống điều khiển nhận dạng giọng nói của mình lên.
“Thanh tra Rhyme...”
“Tôi nghe đây.”
“Tôi là chuyên gia xét nghiệm Phillips trên phố 9.” Phố 9 ở Washington, ý anh ta là như vậy. Sở chỉ huy FBI.
“Anh có gì cho chúng tôi nào?”, Rhyme hỏi một cách nhanh chóng.
“Và cảm ơn vì đã hồi đáp nhanh như vậy”, Sachs nói nhanh. Đôi khi cô phải xen vào bởi sự bất lịch sự của anh.
“Không vấn đề gì, thưa bà. Ừm, tôi đang nghĩ rằng nó khá là lạ, những gì mà các ngài gửi xuống. Bởi vậy tôi đã gửi chúng tới Trung tâm Phân tích chất liệu. Họ đã thực hiện thủ thuật phân tích. Theo như chất đó, chúng tôi có được kết quả chắc chắn đến 97%.”
Chất nổ này nguy hiểm tới mức nào? Rhyme tự hỏi. Anh nói: “Tiếp tục đi. Nó là cái gì vậy?”.
“Kẹo bông
Đó không phải là tên một phố mà anh biết. Nhưng có hàng đống loại chất nổ thế hệ mới có tốc độ kích nổ lên tới hơn chín cây số một giây, gấp mười lần vận tốc của một viên đạn. Liệu đây có phải là một trong số đó hay không? Anh hỏi: “Những đặc tính của nó là gì?”.
Dừng lại một chút. “Nó có vị dễ chịu.”
“Đó là gì?”
“Ngọt. Và dễ chịu.”
Rhyme hỏi: “Ý anh là nó là kẹo bông thực sự, giống như loại ta có thể mua ở chợ?”.
“Vâng, vậy ông nghĩ rằng tôi ám chỉ cái gì?”
“Không cần quan tâm đâu.” Thở dài, nhà tội phạm học hỏi: “Và cái acid uric là trên đôi giày của hắn khi hắn giẫm phải bãi nước đái của một con chó nào đó trên vỉa hè chăng?”.
“Không thể trả lời được hắn giẫm vào ở đâu”, chuyên viên xét nghiệm nói, thể hiện sự chính xác cao mà Cục vốn nổi tiếng về điều đó. “Nhưng mẫu vật này có phản ứng dương tính dành cho xét nghiệm thử với nước đái chó”.
Anh cảm ơn người chuyên gia và ngắt máy. Rồi quay lại với đội phá án. “Bắp rang bơ và kẹo bông ở trên đôi giày của hắn cùng một lúc?” Rhyme trầm ngâm. “Nó đã dây vào hắn ở đâu được?”
“Một trận bóng?”
“Các đội New York chưa có trận sân nhà nào gần đây. Tôi đang nghĩ rằng có thể nghi phạm của chúng ta đi qua một khu gần nhà mà ở đó mới có hội chợ hay hội tiệc ngày hôm qua hoặc gì đó.” Anh hỏi Geneva: “Cháu có vừa đi vào một hội chợ nào không? Hắn có thể nào thấy cháu ở đó?”.
“Cháu á? Không. Cháu không hề tới hội chợ.” Rhyme nói với Pulaski: “Bởi cậu đã xong việc với những con bọ, Cảnh sát tuần tra, cậu hãy gọi bất cứ ai cậu cần và đi tìm từng giấy phép được cấp cho một hội chợ, đám tiệc, lễ hội, yến tiệc tôn giáo, bất cứ gì”.
“Tôi sẽ làm việc đó”, chàng cảnh sát trẻ nói.
“Chúng ta còn có những gì nữa?” Rhyme hỏi. “Những mảnh vụn từ tấm đựng vi phim trong chiếc máy đọc vi phim, những chỗ mà hắn ta đập bằng một vật cứng.”
“Mẩu vụn?”
“Những mẩu vernis nhỏ, tôi đoán vậy, từ bất cứ thứ gì đó mà hắn sử dụng.”
“Được rồi, kiểm tra chúng thông qua Maryland.” Cục điều tra Liên bang có một cơ sở dữ liệu khổng lồ về những mẫu sơn hiện tại và trước đây, được đặt ở một trong những cơ sở của Cục ở Maryland. Nơi này hầu như được dùng để khớp các vật chứng bằng màu sơn với những chiếc ôtô. Nhưng cũng có đến hàng trăm mẫu vernis. Sau một cuộc gọi khác từ Dellray, Cooper gửi phân tích thành phần cấu thành từ xét nghiệm GC/MS và các dữ liệu khác trên những mảnh vụn gỗ sơn tới Cục. Chỉ trong vòng vài phút, điện thoại đã đổ chuông, và chuyên gia xét nghiệm của FBI báo cáo rằng mẫu vernis khớp với một sản phẩm được bán riêng cho các nhà sản xuất thiết bị liên quan tới võ thuật, giống như côn và dùi cui. Anh thêm vào một thông tin không được vui vẻ lắm đó là cái chất màu đó không có bất kỳ dấu hiệu của nhà sản xuất nào và được bán ra với số lượng lớn - có nghĩa rằng nó hoàn toàn không để lại một dấu vết nào.
“Được rồi, chúng ta có một tên hiếp dâm với khẩu côn, những viên đạn khiếp đảm, một sợi dây thừng dính máu... gã này quả là một cơn ác mộng biết đi.”
Tiếng chuông cửa vang lên và chỉ lát sau Thom dẫn vào một người phụ nữ khoảng hai mươi tuổi, tay anh choàng quanh vai cô gái.
“Nhìn xem ai đây nào”, người phụ tá nói lớn.
Người phụ nữ mảnh khảnh có mái tóc ngắn màu tím dựng đứng và một khuôn mặt xinh xắn. Chiếc quần dài bó sát và cái áo len cho thấy một thân hình khỏe mạnh - trên thực tế, đó là thân hình của một diễn viên, Rhyme biết điều đó.
“Kara”, Rhyme nói. “Thật tốt được nhìn thấy cô. Tôi suy luận rằng cô chính là chuyên gia mà Sachs gọi đến.”
“Chào.” Người phụ nữ trẻ ôm choàng Sachs, chào những người khác và vòng tay quanh Rhyme. Sachs giới thiệu cô với Geneva, cô bé đang nhìn cô gái với một khuôn mặt e dè.
Kara (đó là một nghệ danh; cô sẽ không hé lộ tên thật của mình) là một nghệ sĩ ảo thuật và biểu diễn, người đã từng giúp Rhyme và Sachs với vai trò cố vấn trong một vụ giết người gần đây, trong đó tên giết người sử dụng những kỹ năng của hắn như là một ảo thuật gia và một nghệ sĩ với bàn tay ma thuật để tới gần nạn nhân, giết họ và biến mất.
Cô sống ở làng Greenwich, nhưng đang thăm mẹ tại một cơ sở chăm sóc y tế ngay khu ngoại ô thành phố khi Sachs gọi, cô giải thích. Họ mất một vài phút để trò chuyện - Kara đang kết hợp chuyến đi với một show diễn cho một Trung tâm biểu diễn ở Soho, và cô đang hẹn hò với một diễn viên xiếc nhào lộn - rồi Rhyme nói: “Chúng tôi cần những ý kiến chuyên môn”.
“Chắc chắn rồi”, cô gái trẻ đáp. “Bất cứ điều gì mà tôi có thể làm được”.
Sachs giải thích về vụ án. Cô cau mày và thì thầm “Tôi rất tiếc” với Geneva khi nghe kể về ý đồ đen tối của tên hung thủ.
Cô bé chỉ nhún vai một cái.
“Hắn có thứ này”, Cooper nói, giơ lá bài tarot hình Người treo ngược từ trong gói đựng đồ gây án.
“Chúng tôi nghĩ rằng cô có thể nói cho chúng tôi biết đôi điều về nó.”
Kara đã từng giải thích với Rhyme và Sachs rằng thế giới ảo thuật được chia làm hai phe phái, những người chỉ là ảo thuật gia tại các hộp đêm, các show diễn, không hề có ý muốn sở hữu những khả năng siêu nhiên và thứ hai là những người quả quyết rằng mình có những quyền năng huyền bí. Kara chẳng có chút kiên nhẫn nào với những người thuộc nhóm thứ hai - cô chỉ là một người biểu diễn đơn thuần mà thôi - nhưng bởi vì kinh nghiệm làm việc trong các cửa hàng đồ ảo thuật của cô để trả tiền thuê nhà và tiền ăn, cô biết chút ít về tiên đoán vận mệnh.
Cô giải thích: “Được rồi, bộ bài tarot là một phương pháp bói toán ở Ai Cập cổ đại. Một bộ bài tarot được chia thành arcana[7] phụ - tương đương với bộ bài năm mươi hai quân - và arcana chính, từ số không đến hai mươi mốt. Những lá bài này kiểu như đại diện cho một chuyến đi xuyên suốt cuộc đời. Người treo ngược là lá bài thứ mười hai trong nhóm arcana chính”. Cô lắc lắc đầu. “Nhưng có điều gì đó không hợp lý ở đây.”
[7] Arcana: Từ dùng để chia nhóm các quân bài trong bộ tarot, là số nhiều của từ Aracnum mang nghĩa “Điều huyền bí”.
“Gì vậy?”, Selitto hỏi, khẽ chà tay lên da.
“Đó không phải là một lá bài xấu chút nào. Hãy nhìn vào bức tranh.”
“Nhìn anh ta khá bình thản”, Sachs nói: “Nên nhớ là anh ta đang bị treo ngược”.
“Hình ảnh trong bức tranh dựa trên hình ảnh về vị thần Odin của Na uy. Ông ta treo ngược trong vòng chín ngày với mong muốn tìm kiếm những kiến thức bên trong tâm trí. Nếu ta bốc được lá bài này trong một lần bói, điều đó có nghĩa rằng ta đang bắt đầu sứ mệnh theo đuổi sự khai sáng tâm hồn.” Cô hất đầu về phía chiếc máy tính. “Anh không phiền chứ?”
Cooper vẫy cô về phía chiếc máy. Cô gõ vào trang tìm kiếm Google và một vài giây sau đã thấy một địa chỉ trang web. “Làm sao để tôi in cái này ra nhỉ?”
Sachs giúp cô, và một lát sau tờ giấy cuộn mình ra khỏi chiếc máy in laze. Cooper đính nó lên trên chiếc bảng ghi chứng cứ. “Đó là ý nghĩa của lá bài”. Cô nói.
Người treo ngược không ám chỉ tới việc một ai đó đang bị trừng phạt. Sự hiện diện của nó ám chỉ rằng sự tìm kiếm về mặt tâm linh đưa tới một quyết định, một sự thay đổi về phương hướng. Lá bài thường dự báo một sự khuất phục trước những kinh nghiệm, kết thúc một sự tranh đấu, và chấp nhận nó. Khi lá bài này xuất hiện với bạn, bạn phải lắng nghe chính nội tâm mình, dù cho cái thông điệp ấy có vẻ như trái ngược với logic.
Kara nói: “Nó không có gì liên quan tới bạo lực hay chết chóc cả. Nó nói về sự tạm dừng về mặt ý chí và chờ đợi”. Cô lắc lắc đầu. “Nó không phải thứ mà một kẻ giết người bỏ lại - nếu như hắn biết tất cả mọi thứ về những quân bài tarot. Nếu như hắn muốn để lại một thứ gì có tính chất phá hủy, nó phải là Ngọn tháp hoặc là một trong những lá bài từ bộ kiếm trong arcana phụ. Đó mới là những lá bài mang tin xấu.”
“Vậy hắn chọn lá bài này chỉ bởi vì nhìn nó đáng sợ”, Rhyme kết luận. Và bởi vì hắn đã lên kế hoạch định thắt cổ Geneva, hoặc là “treo lên”.
“Đó là những gì mà tôi sẽ đoán.”
“Điều đó có ích lắm đấy”, Rhyme nói.
Sachs cũng cảm ơn cô.
“Tôi cần phải quay lại thôi, cần phải luyện tập.” Kara bắt tay Geneva. “Mong là mọi việc sẽ tốt cho em!”.
“Cảm ơn chị.”
Kara đi về cánh cửa. Cô dừng lại và nhìn Geneva. “Em có thích các show ảo thuật và ảo giác không?”
“Em không hay ra ngoài lắm”, cô bé nói. “Khá là bận ở trường.”
“Ừm, chị đang có một show diễn trong vòng ba tuần nữa. Nếu em quan tâm, mọi thông tin có trên tấm vé rồi.”
“Tấm...”
“Vé.”
“Em không có tấm vé nào cả.”
“Có, em có.” Kara nói. “Nó nằm trong ví của em. À, còn bông hoa nữa? Hãy xem đó như là một vật may mắn.”
Cô bước đi, và họ nghe thấy tiếng cửa sập lại.
“Chị ấy nói về điều gì vậy?”, Geneva hỏi, nhìn xuống chiếc túi của mình, nó vẫn đóng.
Sachs cười. “Mở nó ra xem.
Cô bé kéo khóa ra và đôi mắt chớp chớp trong sự ngạc nhiên. Nằm bên trong là tấm vé tới một trong những buổi biểu diễn của Kara. Ở bên cạnh là một bông hoa violet ép khô. “Làm sao chị ấy làm được nhỉ?” Geneva nói thì thầm.
“Chúng tôi chưa bao giờ có thể bắt được cô ấy”, Rhyme nói. “Tất cả những gì chúng tôi biết, cô ấy quá giỏi”.
“Ồ, cháu cũng sẽ nói thế.” Cô bé giơ bông hoa tím ép khô lên.
Đôi mắt của nhà tội phạm học lướt về phía quân bài tarot, mà Cooper đã đính lên tấm bảng bằng chứng, ở bên cạnh tờ giấy ghi ý nghĩa của nó. “Vậy nó có vẻ như là một thứ mà một kẻ giết người sẽ bỏ lại trong một cuộc tấn công mang vẻ huyền bí. Nhưng hắn lại không hề biết ý nghĩa của nó là gì. Hắn đã chọn quân bài để gây ấn tượng. Vậy điều đó có nghĩa là...” Nhưng tiếng nói của anh nhỏ dần khi nhìn vào phần còn lại của cái biểu đồ ghi chép bằng chứng. “Chúa ơi”.
Những người khác nhìn anh.
“Gì thế?”, Cooper hỏi.
“Chúng ta đã nhầm hết rồi.”
Sellito không chà tay lên mặt nữa, hỏi: “Ý anh là sao?”.
“Nhìn vào các dấu tay trên đồ vật ở trong cái gói đồ. Hẳn đã xóa hết những dấu tay của mình, đúng chứ?”
“Đúng”, Cooper xác nhận.
“Nhưng có những dấu tay”, nhà tội phạm học đưa ra suy luận của mình. “Và nhiều khả năng đó là dấu tay của nhân viên thu ngân, bởi nó trùng khớp với những dấu tay trên hóa đơn.”
“Phải”, Sellito nhún vai. “Vậy thì?”
“Vậy hắn đã xóa sạch dấu tay của mình trước khi đến quầy thanh toán. Trong khi hắn vẫn còn trong cửa hàng.” Im lặng bao trùm lên căn phòng. Phát cáu vì không ai hiểu ý của mình, nhà tội phạm học tiếp tục: “Bởi hắn muốn dấu tay của nhân viên thu ngân có ở trên mọi thứ”.
Sachs đã hiểu ra vấn đề. “Hắn chủ ý để cái bọc đồ lại. Để ta có thể thấy nó.”
Pulaski gật gù. “Nếu không, đáng ra hắn phải xóa sạch tất cả mọi thứ sau khi về đến nhà.”
“Chính xác”, Rhyme nói với giọng có chút vui sướng. “Tôi nghĩ rằng đó là bằng chứng được dàn dựng. Để chúng ta nghĩ rằng đó là một vụ cưỡng hiếp, với ngụ ý huyền bí. Được rồi, được rồi... Hãy bước lùi lại thích thú với ánh nhìn không thoải mái của Pulaski vào đôi chân của Rhyme khi anh sử dụng cách nói như vậy. “Một kẻ tấn công đuổi theo Geneva trong một bảo tàng công cộng. Không phải là bối cảnh cho một cuộc tấn công về tình dục. Rồi hắn đánh cô bé - ừm, là bức tượng ma nơ canh – đủ mạnh để giết chết cô bé, nếu như không phải là làm cô bé bất tỉnh một lúc lâu. Nếu như đó là vụ án vậy thì hắn cần con dao cắt giấy và cuộn băng dính để làm gì? Vứt lại lá bài tarot mà hắn nghĩ rằng nhìn đáng sợ nhưng nó thực ra chỉ là về một sự kiếm tìm về mặt tâm linh? Không, nó không phải một vụ chủ ý cưỡng hiếp chút nào.”
“Vậy ý đồ của hắn là gì?”, Sellito hỏi.
“Đó là điều mà chúng ta tốt hơn là phải tìm ra.” Rhyme nghĩ một lúc rồi nói: “Và anh nói rằng Tiến sĩ Barry không thấy gì hết à?”.
“Đó là những gì ông ấy nói với tôi”, Sellito đáp lại.
Nhưng hung thủ vẫn quay lại và giết ông ấy.” Rhyme cau mày. “Và quý ngài 109 đập vỡ chiếc máy đọc vi phim. Hắn là một kẻ chuyên nghiệp, nhưng cơn thịnh nộ lại chẳng hề chuyên nghiệp chút nào. Nạn nhân của hắn đã chạy thoát - hắn sẽ không phí thời gian đập phá đồ vật bởi vì hắn đã có một buổi sáng xui xẻo.” Rhyme hỏi cô bé: “Cháu nói rằng mình đang đọc một vài tờ báo cũ?”.
“Tạp chí”, cô bé chỉnh lại.
“Trên chiếc máy đọc vi phim?”
“Đúng.”
“Kia à?” Rhyme hất đầu về phía chiếc túi nhựa lớn đựng vật chứng mà bên trong là một cái hộp có những tấm vi phim Sachs đã mang về từ thư viện. Có hai ổ, số một và số ba, trống rỗng.
Geneva nhìn vào chiếc hộp. Cô bé gật đầu. “Vâng. Đây là những ổ có đựng bài báo cháu đang đọc, những cái ổ trống ý.”
“Có phải cô đã lấy tấm vi phim ở trong đầu đọc?” Sachs trả lời: “Không hề thấy chúng đâu. Hắn chắc là đã lấy đi rồi”.
“Và đập nát chiếc máy để chúng ta không chú ý rằng tấm vi phim đã biến mất. Ừm, chuyện này bắt đầu thú vị đây. Hắn định làm gì? Động cơ của hắn là cái quái gì nhỉ?”
Sellito cười. “Tôi nghĩ rằng anh không quan tâm đến động cơ. Chỉ bằng chứng mà thôi.”
“Anh cần phải rút ra sự khác biệt, Lon, giữa việc sử dụng động cơ để chứng minh một vụ án trước tòa - mà đó là một suy luận tốt nhất - và sử dụng động cơ để đưa anh đến bằng chứng, mà nó có tính quyết định việc buộc tội một hung thủ: người đàn ông giết đối tác làm ăn bằng một khẩu súng giúp ta lần ra ga ra của hắn được nạp đầy những viên đạn mua với một tấm hóa đơn chứa đầy những dấu vân tay trên đó. Trong vụ này, ai quan tâm tới việc hắn giết đối tác vì nghĩ rằng một con chó biết nói bảo hắn làm vậy hay bởi vì cái gã đối tác ấy đã ngủ với vợ của hắn? Bằng chứng chỉ rõ vụ án.”
“Nhưng sẽ thế nào nếu không có đạn, súng, hóa đơn hay vết bánh xe? Thế thì câu hỏi hoàn toàn hợp lí là tại sao nạn nhân bị giết? Trả lời câu hỏi này có thể chỉ ta tới bằng chứng giúp buộc tội hung thủ. Xin lỗi vì đã lên lớp”, anh chêm vào với giọng không có chút thành khẩn nào.
“Niềm vui đã biến mất, phải không?”, Thom hỏi. Rhyme làu bàu: “Tôi đang bỏ qua một thứ gì đó ở đây và tôi không thích điều đó”.
Geneva đang cau mày. Rhyme nhận thấy điều đó và hỏi: “Sao vậy?”.
“Ừm, cháu đang nghĩ... Tiến sĩ Barry đã nói với cháu rằng có một ai đó cũng quan tâm đến chủ đề của tạp chí đó. Người đó muốn đọc nó, nhưng tiến sĩ Barry nói với người đó rằng ông ấy có thể đợi đến khi cháu đã đọc xong.”
“Ông ấy có nói ai không?”
“Không.”
Rhyme chú ý tới điều này. “Vậy hãy đưa ra suy đoán: Người thủ thư nói với kẻ nào đó rằng cháu quan tâm tới cái tạp chí đó. Nghi phạm muốn lấy trộm nó và hắn muốn giết cháu bởi cháu đã đọc nó hoặc sẽ đọc nó.” Tất nhiên, nhà tội phạm học không được thuyết phục với tình huống này lắm. Nhưng một trong những điều khiến anh thành công là bởi sự sẵn sàng cân nhắc tới cả những giả thuyết ngược lại, đôi khi là trái khoáy. “Và hắn đã lấy đi chính cái bài báo cháu đang đọc, đúng không?”
Cô bé gật đầu.
“Nó giống như là hắn biết chính xác phải tìm cái gì... Cái bài báo đó viết về gì vậy?”
“Không có gì quan trọng cả. Chỉ là một trong những ông tổ của cháu thôi. Giáo viên của cháu đang quan tâm tới chủ đề Nguồn gốc và chúng cháu phải viết về một vị tổ tiên nào đó của mình trong quá khứ.”
“Ông ấy là ai, ông tổ này của cháu?”
“Đó là cụ tổ gì đó, một nô lệ đã được trả tự do. Cháu đến bảo tàng tuần trước và phát hiện ra có một bài báo về ông ấy trong một chủ đề của Tuần báo Minh họa dành cho người da màu. Họ không có bài này trong thư viện nhưng bác Barry nói rằng bác ấy có thể lấy tấm vi phim trong kho lưu trữ. Chỉ việc cắm nó vào là xong
“Câu chuyện nói về việc gì?” Rhyme chăm chú.
Cô bé do dự một chút rồi nói nhanh và dứt khoát: “Charles Singleton, tổ tiên của cháu, là một nô lệ ở bang Virginia. Ông chủ của ông ấy có những thay đổi trong trái tim và giải phóng tất cả nô lệ của mình. Bởi vì Charles và vợ của ông đã ở cùng với gia đình rất lâu, đã dạy dỗ những đứa trẻ trong gia đình đó đọc và viết, ông chủ đã cho họ một trang trại ở tiểu bang New York. Charles là một quân nhân trong thời Nội chiến. Sau đó, ông trở về nhà và bị buộc tội ăn trộm một khoản tiền từ quỹ giáo dục của người da đen năm 1868. Đó là tất cả những gì được viết đến trong bài báo. Cháu mới chỉ đọc đến phần ông ấy nhảy xuống dòng sông để trốn khỏi cảnh sát khi kẻ tấn công cháu xuất hiện”.
Rhyme chú ý thấy cô bé nói rất rõ ràng nhưng giật cục, như thể chúng là những chú chó con lóng ngóng cố chạy trốn. Một mặt cô bé có phụ huynh là những người tri thức uyên bác và mặt khác lại làm bạn thân với một cô gái như Lakeesha, cũng là lẽ tự nhiên khi Gevena nhiễm chứng đa nhân cách về mặt ngôn ngữ.
“Vậy cháu không biết điều gì xảy ra với ông ấy?”, Sachs hỏi.
Geneva lắc đầu.
“Tôi nghĩ chúng ta phải giả định rằng hung thủ có để ý tới những gì mà cháu đang nghiên cứu. Ai biết được chủ đề bài luận của cháu? Cô cho rằng chỉ có giáo viên của cháu biết.”
“Không, cháu không bao giờ nói với ông ấy chi tiết. Cháu không nghĩ rằng mình đã nói với bất kỳ ai khác ngoài Lakeesha. Bạn ấy có thể đã kể việc này với một ai đó nhưng cháu không tin điều đó lắm. Các bài tập nghiên cứu không khiến bạn ý quan tâm nhiều lắm, cô hiểu cháu nói gì chứ? Ngay cả bài tập của bạn ý nữa. Tuần trước, cháu đã đến văn phòng luật ở Harlem để xem họ có bất cứ ghi chép cũ nào về tội phạm trong những năm 1800 nhưng không hề nói nhiều lắm với các luật sư. Tất nhiên, tiến sĩ Barry phải biết rồi.”
“Và ông ấy hẳn là đã nói với người cũng quan tâm tới tờ tạp chí đó nữa”, Rhyme chỉ ra điều đó. “Giờ thì, để cân nhắc khả năng này, chúng ta hãy giả thiết rằng có một điều gì đó trong bài báo mà hung thủ không muốn nó được biết đến - có thể là về ông tổ của cháu, có thể là một vấn đề gì khác hoàn toàn.” Anh nhìn sang Sachs. “Có ai vẫn còn ở hiện trường không?”
“Có một cảnh sát. ”
“Yêu cầu anh ta thẩm tra các nhân viên. Tìm ra xem liệu ông Barry có nói đến việc có ai quan tâm tới tờ tạp chí cũ đó không. Hãy đưa họ tới bàn làm việc của ông ấy nữa.” Rhyme có một ý tưởng khác nữa. “Và tôi muốn danh sáchcuộc gọi trong điện thoại của ông ta trong vòng một tháng qua.”
Sellito lắc lắc đầu. “Linc, thật sự... Anh không nghĩ rằng nghe điều này có vẻ kỳ cục à? Chúng ta đang nói về, cái gì nhỉ? Những năm 1800 á? Đây không phải là một vụ án khó nuốt. Nó là một vụ không thể nhai được.”
“Một kẻ chuyên nghiệp dàn dựng một hiện trường, gần như giết một người, và đã giết một người khác - ở ngay trước mặt hàng tá cảnh sát – chỉ để lấy đi bài báo đó? Nó không hề kỳ cục chút nào, Lon. Nó phải có nguyên nhân sâu xa cho tất cả.”
Viên cảnh sát to lớn nhún vai và gọi tới sở cảnh sát để truyền mệnh lệnh tới viên cảnh sát đang thực hiện nhiệm vụ tại hiện trường rồi gọi tới bộ phận cấp giấy phép để họ thông qua yêu cầu về các cuộc gọi từ điện thoại trong thư viện và điện thoại cá nhân của Barry.
Rhyme nhìn cô bé mảnh khảnh và quyết định rằng mình không còn lựa chọn nào khác, anh phải đưa ra một tin không hay lắm. “Cháu biết rằng tất cả những điều này có thể là gì, đúng không?”
Dừng lại một chút, mặc dù anh có thể thấy trong ánh mắt đầy băn khoăn của Sachs về phía Geneva rằng ít nhất thì người nữ cảnh sát biết chính xác ý anh là gì. Và chính cô đã nói điều đó với cô bé: “Lincoln đang nói rằng có lẽ hắn vẫn còn săn lùng cháu”.
“Đúng là kẻ kỳ dị mà.” Geneva nói, lắc lắc đầu của mình.
Dừng lại một chút, Rhyme trả lời một cách nghiêm nghị: “Chú sợ rằng điều này không hề kỳ lạ chút nào”.
Ngồi trong một quầy Internet tại một cửa hàng photocopy nằm ở trung tâm Manhattan, Thompson Boyd đang đọc tin trên trang web của đài truyền hình địa phương, thông tin trên đó thì được cập nhật từng phút.
Tiêu đề của bản tin mà hắn đang đọc là: NHÂN VIÊN BẢO TÀNG BỊ GIẾT; NHÂN CHỨNG TRONG MỘT VỤ TẤN CÔNG NHẰM VÀO HỌC SINH.
Huýt sáo, gần như là không ra tiếng, hắn quan sát bức tranh đi kèm, trong đó là hình ảnh người quản lý thư viện mà hắn vừa mới giết đang nói chuyện với một cảnh sát mặc thường phục trên con phố ở trước bảo tàng. Dòng chú thích viết, Tiến sĩ Donald Barry nói chuyện với một cảnh sát ngay trước khi bị bắn chết.
Bởi vì tuổi của mình, Geneva Settle không được nêu ra danh tính, mặc dù cô bé được miêu tả là một học sinh trung học sống ở Harlem. Thompson rất biết ơn với thông tin này; hắn đã không biết cô bé sống ở quận nào của thành phố. Hắn cắm điện thoại của mình vào cổng USB trên chiếc m tính và chuyển tải bức ảnh về cô bé mà hắn đã chụp sang máy tính. Rồi hắn sẽ up nó lên một tài khoản email vô danh.
Hắn tắt máy, trả tiền - tất nhiên là bằng tiền mặt - và đi lững thững trên phố Broadway, nằm ở trung tâm khu tài chính. Hắn mua một cốc cà phê từ một quầy hàng rong, uống hết một nửa, rồi lia tấm vi phim mà hắn đã lấy ra vào chiếc cốc, đặt lại chiếc nắp và thả nó xuống một cái thùng rác.
Hắn dừng lại ở một trạm điện thoại, nhìn quanh và không thấy một ai khác chú ý đến mình. Hắn quay số. Không có tin nhắn nào trong hộp thư thoại, chỉ có một tiếng bíp. “Là tôi. Gặp phải vấn đề với trường hợp của Settle. Tôi cần cô tìm ra xem con bé học ở trường nào hoặc nó sống ở đâu. Nó là một học sinh trung học ở Harlem. Đó là tất cả những gì tôi biết. Tôi đã gửi một bức ảnh con bé tới tài khoản mail của cô... À, còn một điều nữa - nếu như cô có cơ hội tự mình xử lý con bé, sẽ có một khoản năm mươi ngàn cho cô. Gọi điện cho tôi khi nhận được tin nhắn này. Chúng ta sẽ bàn bạc.” Thompson đọc số của chiếc điện thoại mà hắn vừa sử dụng để gọi rồi dập máy. Hắn quay trở lại, khoanh tay trước ngực và chờ đợi, huýt sáo nhè nhẹ. Hắn mới chỉ tới nhịp thứ ba một bài hát của Stevie Wonder Em là ánh sáng của đời anh trước khi chuông điện thoại reo.