Dương Hổ cung kính hành lễ, cử chỉ linh hoạt, động tác dứt khoát, không có chút gì ngượng ngập phân vân.
Bên trong doanh trướng, thương mâu tua tủa dựng đứng như rừng, chỉ duy nhất một nam tử bạch y thanh nhã đơn bạc đoan nhiên tĩnh tọa trong luân y, nhưng dáng ngồi nghiêm nghị thẳng tắp lại khiến y trở nên như tâm điểm của toàn bộ thế gian, tự nhiên cuốn hút, hấp dẫn ánh nhìn của tất cả mọi người.
Bao nhiêu binh sĩ cũng như tướng lĩnh, tâm thần cũng như ý chí hết thảy tựa hồ đều ngưng tụ ở trên người nam tử ấy.
Dương Hổ cẩn trọng dè dặt, kín đáo liếc mắt dò xét công tử Vô Song đang ngồi trước mặt, đôi đồng tử đen thẳm ôn nhuận tựa mặc ngọc, dung nhan tuấn tú thanh hàn như tuyết băng. Tận đáy lòng không khỏi tự cảm thán: diện mạo của công tử từ dạo ‘Cuồng lan chi chiến’ đến giờ, sao chẳng chút nào thay đổi vậy?
Trong lòng còn đang mải mê suy nghĩ, tai đã nghe thanh âm ôn hòa của Tiếu Khuynh Vũ: “Còn nhớ hồi ‘Cuồng lan chi chiến’, Dương Hổ hãy còn là một tiểu binh nhỏ bé vô danh, vậy mà giờ đây đã đường đường một Tiểu tướng quân tự mình thống lĩnh binh mã rồi.”
Trong lời nói của y, có một chút cảm khái, nhưng lại có quá mức vui mừng.
Dương Hổ hơi đỏ mặt, trước sự quan tâm ấy dường như có chút bối rối lẫn hãnh diện: công tử… người rõ ràng vẫn còn nhớ rõ ta! Công tử hiển nhiên vẫn còn nhớ rõ tiểu binh nhỏ bé vô danh năm đó!
“Công tử an hảo, mạt tướng phụng mệnh Hầu gia, thống lĩnh năm vạn khinh kỵ binh đến đây đầu nhập công tử, còn đây là ngọc quyết chỉ huy năm vạn khinh kỵ binh, thỉnh công tử tiếp nhận!”
Không rõ đã làm sao để tiếp nhận lệnh quyết, mảnh Đằng long ngọc quyết trong tay Tiếu Khuynh Vũ dưới ánh nắng rực sáng long lanh, trong suốt, trong thoáng chốc bao nhiêu suy nghĩ ùn ùn kéo đến, lòng dâng lên một nỗi cảm hoài vô hạn.
Hắn, thật sự rất quan tâm đến mình…
Nghĩ đến đó, bất giác ánh mắt xưa nay trong trẻo trữ định, sắc sảo lợi hại của Vô Song trở nên ôn nhu dịu dàng, như mộng như mê, nửa là sương giăng, nửa là khói phủ.
Dương Hổ nói tiếp: “Hầu gia còn nhờ mạt tướng chuyển vài lời.”
Tiếu Khuynh Vũ nhẹ nhàng gật đầu: “Mời tướng quân vào trướng đàm đạo.”
Vô Song công tử để ý, cho dù Gia Duệ đế đã hạ chỉ tước bỏ danh vị vương hầu của Phương Quân Càn, song chúng nhân Bát Phương Thành (bao gồm cả Tiếu Khuynh Vũ) vẫn giữ nguyên cách gọi ‘Tiểu hầu gia’, bản thân Phương Quân Càn vẫn tự xưng là ‘Bổn hầu’. Có lẽ đã trở thành thói quen rồi chăng?
Vào trướng đàm đạo, tránh tai vách mạch rừng.
Tiếu Khuynh Vũ lẳng lặng mân mê vòng kim tuyến trên tay: “Mời tướng quân!”
Dương Hổ ngẩng đầu, đem toàn bộ những lời Phương Quân Càn đã nói bắt đầu chậm rãi thuật lại. Tài tình là chẳng những không hề bỏ sót một chữ nào đã nghe được, mà thậm chí ngay cả ngữ khí cùng thần thái cũng bắt chước y hệt không sai một chút nào.
“Bổn hầu thực rất giận! Khuynh Vũ muốn cứu Đại Khánh, được thôi, nhưng chí ít cũng phải nói với bổn hầu một tiếng chứ! Cứ như vậy chẳng nói chẳng rằng bỏ Bát Phương Thành mà đi, hại bổn hầu lo lắng đến nỗi ăn không ngon ngủ không yên. Lần nào cũng vậy, chuyện gì cũng vận hết vào người mình, đến cả bổn hầu cũng không có cơ hội san sẻ gánh vác. Khuynh Vũ đối với thiên hạ thương sinh bao nhiêu tình cảm, mà chỉ duy nhất đối với bổn hầu, sao lại tàn nhẫn đến vậy?”
Chỉ cần nghe một nửa, Tiếu Khuynh Vũ liền có thể xác định, đây chính là nguyên văn của Phương tiểu hầu gia… Ngữ điệu vừa có bất đắc dĩ, vừa có tủi hờn như tiểu hài tử này, đích thực ngoại trừ trước mặt mình ra, tuyệt không bao giờ có ở bất kỳ nơi nào khác, ngữ điệu độc nhất vô nhị, không đâu có được.
Bỏ qua một bên quốc gia, đạo nghĩa cùng với trách nhiệm không bàn tới, thì chính mình, duy một chữ ‘Tình’, đúng là vẫn không thể dứt khỏi hắn được.
“Được thôi được thôi, huynh muốn cứu lê dân, huynh muốn diệt Uy Nô, bổn hầu rất hiểu, bổn hầu ủng hộ huynh. Mặc dù chia cách đôi nơi không thể cùng huynh kề vai chiến đấu, nhưng Khuynh Vũ chỉ cần biết là… Bất cứ khi nào, Phương Quân Càn cũng luôn ở phía sau yên lặng khích lệ, ủng hộ huynh, như vậy, cũng sẽ không thấy cô đơn nữa.”
“Ta nghe ngóng được hai mươi vạn đại quân Thiên Tấn Hung Dã theo đường thủy vòng xuống Cốc Gia thành, chắc chắn muốn cùng Uy Nô liên thủ đối phó Khuynh Vũ. Tuy vẫn biết trong lòng Khuynh Vũ tự có chiến lược, tự biết tính kế bày mưu, nhưng rốt cuộc vẫn không thể ngăn mình nhiều chuyện nhắc hoài một câu… Ngàn vạn lần phải cẩn trọng.”
“Nói đến đây chắc cũng tạm đủ. Chỉ một câu cuối cùng nữa thôi…”
Lúc này, phảng phất như gương mặt Phương Quân Càn đang dán chồng lên mặt của Dương Hổ, đến cả thanh âm đang truyền đến bên tai cũng đã mang vẻ lười nhác đầy mị hoặc chỉ riêng có ở hắn.
“Chiến cuộc qua đi, sớm trở về nhà.”
Tiếu Khuynh Vũ sững người, im lặng một lúc lâu, hốt nhiên khóe môi uốn lên thành một cái mỉm cười.
Nụ cười ấy, không giống với những nụ cười trước đây của y.
Không phải là nụ cười đạm mạc xa cách, yên lặng ngồi xem gió cuốn mây tàn.
Mà là trong veo thuần khiết, rạng rỡ sáng ngời.
Hệt như bóng nguyệt vừa thẹn thùng vén mây ra mắt.
Mời người say sưa.
Xuân hoa nhập mộng.
Trong cõi u minh, chợt lờ mờ một cảm giác: được Phương Quân Càn yêu thương, thì cả đời này có trốn cũng không thoát.
Khi mà Đại Khánh, Uy Nô, Hung Dã, Thiên Tấn lần lượt ném mình vào chiến hỏa, thì chỉ duy nhất Liêu Minh ở phía nam Đại Khánh vẫn không rõ động thái, trước sau duy trì thái độ mập mờ, trầm mặc ám muội.
Không biểu lộ sự ủng hộ bất kỳ bên nào, cũng không có bất cứ phát ngôn gì. Thái độ nước đôi đen trắng bất phân đó khiến cho kẻ khác vò đầu bứt tóc mà vẫn không tìm ra dụng ý.
Nhưng có một điều không thể phủ nhận chính là, chính sách trung lập của Liêu Minh đã khiến nơi đây trở thành quốc gia duy nhất ở ngoài cuộc, không nhuốm khói lửa chiến tranh.
Thành đô Liêu Minh, Liêu đô.
Trong một danh gia trà quán, có hai khách nhân ngồi song song, vừa thưởng trà, vừa mạn đàm chuyện thiên hạ đại cục.
“Hoàng Phủ huynh muốn đến đầu nhập Bát Phương Thành?” – Một trong hai người khách, dáng cao gầy, diện mạo không có gì nổi bật, nếu ở giữa đám đông cũng sẽ không nhìn ra được đặc điểm khác biệt. Giữa hai đầu mày lúc nào cũng toát ra một vẻ ngạo mạn, nhưng lạ kỳ là không làm cho người ta thấy khó ưa. “Dư Nhật không hiểu, với tài năng của Hoàng Phủ huynh đây, không thiếu nơi săn đón, mời mọc, tiếp đãi như thượng khách, hà cớ gì giữa quần hùng thiên hạ, Hoàng Phủ huynh lại cương quyết chọn đến Bát Phương Thành của Phương Quân Càn?”
Dư Nhật biết rõ tài năng vị hảo bằng hữu này của mình trong muôn người khó tìm được một, tuy nói rằng lúc này đương thời loạn thế, nam nhi chí tại tứ phương, hùng tâm tráng chí háo hức đi tìm cho mình một vị minh chủ xứng đáng phụng sự hầu tương lai kiến công lập nghiệp, phong thê ấm tử (1), nhưng nhìn Hoàng Phủ Cổn Vũ trước mặt nôn nóng kỳ vọng như vậy… Bát Phương Thành thực sự tốt thế sao?
Hoàng Phủ Cổn Vũ ha hả cười lớn: “Bát Phương Thành nơi này kỳ thực có nhiều điểm tốt mà những nơi khác có phi ngựa nước đại cũng không đuổi kịp. Thứ nhất, Nguyên soái Phương Quân Càn rất có phong thái của bậc minh chủ, dụng nhân hào sảng, phóng khoáng, bất kể xuất thân. Nhớ khi xưa hắn thu nhận Liêu Minh đệ nhất quân sư Thích Vô Ưu, ta đã có cảm tình với hắn. Trải qua vài năm lăn lộn, trui rèn, càng lúc càng trở nên cứng cỏi kiên định, thản nhiên trầm tĩnh, tâm tư kín kẽ không thể công phá. Ta dám cam đoan, con người này nhất định sẽ có một ngày hóa rồng vùng vẫy cửu thiên, rung trời chuyển đất.”
“Thứ hai là, Bát Phương Thành quân dân đồng lực, trên dưới đồng tâm, tuy nhân tài nhiều không đếm xuể nhưng lại ít có chuyện tranh quyền đoạt lợi, lục đục hiềm khích, quả thật hiếm thấy, hiếm thấy!”
“Còn thứ ba… Thiên hạ không ngớt truyền tụng ‘Được Vô Song là được thiên hạ’, công tử Vô Song ngồi ở đâu, thì anh hùng thiên hạ lũ lượt hướng về đó quy phục!”
Dư Nhật trừng lớn mắt: “Huynh muốn nói tới Đại Khánh Hữu thừa tướng Tiếu Khuynh Vũ? Ta nghe nói Anh Vũ hầu Phương Quân Càn từng ở trước điện Kim Loan ngang nhiên trước mặt Hoàng đế cùng văn võ bá quan thổ lộ tình cảm với y, chuyện này khi đó oanh chấn thiên hạ, không ai không biết!”
Hoàng Phủ Cổn Vũ trầm tư: “Phương Quân Càn thoạt nhìn có vẻ bông lơn hời hợt, kỳ thực là người chí tình chí nghĩa. Tiếu Khuynh vũ bên ngoài tỏ ra khiêm nhuận ôn nhu, kỳ thực là kẻ gai góc kiệt ngạo. Cả hai đều là nhân trung long phụng đương thời, từ trong chiến hỏa nảy tình sinh ái, từ trong loạn thế kết ước định tình. Dẫu biết đời này thế sở bất dung, vẫn một mực làm theo ý mình, biết thậm ái là bi, thậm si là thống, cực luyến là tổn thương, nhưng tuyệt không hối hận.”
Dư Nhật thản nhiên nói: “Đối với chuyện phong hầu bái tướng, Dư Nhật thật không có chút hứng thú, nhưng ngược lại, ta lại rất muốn gặp người được thế gian xưng tụng Tuyệt thế vô song – Tiếu Khuynh Vũ!”
Hoàng Phủ Cổn Vũ lắc đầu tắc lưỡi, vẻ tiếc thương: “Đáng tiếc trời xanh đố kỵ anh tài, con người trác tuyệt xuất sắc, như trích tiên hạ phàm, vậy mà lại tàn phế hai chân, không thể tự hành!”
“Nói vậy là sai rồi!” – Dư Nhật nghiêm mặt, “Có được tài hoa lỗi lạc, quán tuyệt thiên hạ như vậy là thượng thiên ân sủng! Phàm mấy ai được như vậy? Nhưng mà, có được tất có mất, bao nhiêu linh khí trời đất đều hội tụ ở y, hun đúc nên y, vậy thì ở một mặt nào đó phải có khuyết điểm. Đúng vậy, phải biết rằng nước đầy quá thì sẽ tràn, trăng tròn xong thì sẽ khuyết. Nhân vô thập toàn, thiên vô hoàn mỹ. Đó là quy luật của trời đất. Nếu như, y có thể tự hành tẩu, chỉ e đó không phải chuyện tốt lành!”
Hoàng Phủ Cổn Vũ cười nói: “Dư thần y nói rất có lý, đổi lại là Hoàng Phủ lại quá cố chấp câu nệ. Dù gì cũng cảm thấy tiếc hận. Bất quá, nói đi cũng phải nói lại, chẳng hay Dư thần y có thể chữa trị đôi chân cho Vô Song công tử được không?”
Dư Nhật không hề cố tỏ ra khiêm nhường, rất tự phụ mà nói: “Nắm chắc được bao nhiêu phần thì ta không rõ, nhưng nếu trên đời này có một người chữa được cho y đứng lên đi lại, thì đó chính là Dư Nhật ta đây.”
Hoàng Phủ không nhịn được liền trêu: “Nếu như sau này Dư thần y lâm cảnh túng bấn nhất định phải đến Bát Phương Thành, chỉ cần trị khỏi đôi chân cho Vô Song công tử thì cả đời này chẳng cần phải lo chuyện cơm áo gạo tiền nữa.”
“Dư Nhật ngày thường đã quen nhàn vân dã hạc (2), chẳng hề muốn đi Bát Phương Thành xun xoe nịnh nọt bợ đỡ cường quyền.”
“Biết huynh thanh cao mà!” – Hoàng Phủ Cổn Vũ cười ha hả, “Phải rồi, không biết lần này Dư huynh đến Liêu Minh vì chuyện gì?”
Khóe mắt Dư Nhật thoáng buồn bã: “Nghe phong thanh bào đệ sắp tới sẽ xuất hiện ở Liêu Đô, vậy nên ta mới cố ý đến trước nghe ngóng tình hình, đề phòng hắn tìm người thử độc lung tung, làm những chuyện thương thiên hại lý.”
Hoàng Phủ đại kinh thất sắc: “Người Dư huynh nói là lệnh đệ Bách độc lang quân ư!?”
Bách thảo thần y Dư Nhật cùng Bách độc lang quân Dư Nguyệt là huynh đệ, hậu nhân của Thảo dược thế gia Dư gia. Nhưng, bất quá, hai huynh đệ từ nhỏ tính cách đã khác hẳn nhau, mâu thuẫn không thể hòa hợp.
Khi trưởng thành, một người chuyên tâm nghiên cứu y thuật, người kia lại dành hết tâm sức vào độc thuật. Giống như hai mặt đen và trắng, ban đêm với ban ngày, quang cảnh cùng sắc thái hoàn toàn đối lập.
Huynh trưởng trị bệnh cứu cười, còn đệ đệ hạ độc hại người.
Vậy nên, giang hồ tôn xưng Dư Nhật là Bách thảo thần y, ngược lại người em là Bách độc lang quân Dư Nguyệt.
Dư Nhật than thở với Hoàng Phủ: “Kỳ thực bào đệ Dư Nguyệt thiên tư vượt xa ta. Thành tựu độc thuật của hắn đã đạt đến độ xưa nay chưa từng có.”
Hoàng Phủ Cổn Vũ không hiểu: “Giang hồ đồn rằng hễ lệnh đệ hạ độc thì Bách thảo thần y vẫn nhất nhất phá giải được, sao lại nói hắn thiên tư vượt xa huynh?”
Dư Nhật đáp: “Không phải Dư Nhật tự phụ, nhưng quả thực trên trời dưới đất độc chất mà Dư Nhật không giải được vô cùng ít ỏi, mà bào đệ ta có một loại độc, đã ba năm nay ta nghiên cứu cách giải nhưng không có cách nào tìm ra, ngay đến Vô Song công tử Tiếu Khuynh Vũ đối với loại độc này cũng vô kế khả thi.”
“A…” – Hoàng Phủ Cổn Vũ biến sắc, “Nghe đồn công tử Vô Song y thuật cao minh thế gian hiếm thấy, vậy mà độc chất này lại khiến cả Bách thảo thần y lẫn Vô Song công tử phải bó tay vô pháp, không biết nó tên là gì?”
Dư Nhật cười nhẹ: “Nói ra lại thấy buồn cười, loại tối độc như thế lại dùng một cái tên triền miên sầu thảm để đặt cho. Nó gọi là… ‘Thượng cùng Bích Lạc hạ Hoàng Tuyền’.”
—oOo—
(1): Phong thê ấm tử (封妻荫子): thời phong kiến, nam nhân có công thì được luận công ban thưởng, vợ được ban tước, con được tập ấm làm quan.
(2): Nhàn vân dã hạc (闲云野鹤): mây thảnh thơi nhàn rỗi, hạc hoang dã tự do.