Trước khi nữ vương Phong Khiếu Nguyệt qua đời đã để lại chiếu chỉ truyền ngôi và ngọc tỷ cho quốc sư Vương Quân cất giữ. Trong chiếu chỉ viết, nữ vương thoái vị, nhường ngôi cho tiểu vương gia còn lại duy nhất của Phong Quốc. Phong hiệu là Hoa Lãng cũng là niên hiệu đời tiếp theo của Phong Quốc. Tiểu vương gia lên ngôi, trị vì đất nước trong hoàn cảnh loạn lạc.
Tiểu vương gia lên ngôi còn chưa nắm rõ tình thế đất nước. Tân hoàng Hoa Lãng Đế phong quốc sư Vương Quân làm Nhiếp Chính vương, cùng tân hoàng xử lí chuyện triều chính.
Quan lại trong triều thiếu hụt nghiêm trọng, nội loạn diễn ra khắp nơi. Phong Quốc còn phải đối mặt với chiến loạn toàn đại lục sắp sửa diễn ra hồi thứ hai. Bách tính Phong Quốc hoảng loạn, đất nước lúc này nguy cơ trùng trùng, loạn trong giặc ngoài khó mà dẹp hết.
Cuối năm tân nguyên 1447, Nam Cung tướng quân phía Nam Phong Quốc trở mặt với triều đình. Nam Cung tướng quân chiếm giữ năm tòa thành trước đây Đinh vương chiếm đóng. Phong Quốc lo sợ Nam Cung tướng quân sẽ trở thành Đinh vương thứ hai, nơm nớp lo sợ mà chuẩn bị quân.
Cuối cùng Nam Cung tướng quân cũng không khởi chiến, họ Nam Cung kia cắt đứt hoàn toàn các mối liên hệ rắt rối giữa năm tòa thành biên cương với triều đình. Triệt để tách biệt năm tòa thành ra khỏi Phong Quốc, họ Nam Cung cũng có phần hiểu tình cảnh đại lục lúc bấy giờ. Hắn ta muốn bảo vệ năm tòa thành trì kia giảm thương vong xuống mức thấp nhất.
Triều đình Phong Quốc thấy họ Nam Cung kia không có ý định trở thành Đinh vương thứ hai liền bỏ mặc hắn, chăm lo chỉnh đốn lại nhà nước rối tinh rối mù.
Mùng ba tháng giêng, Huyễn Lam đại lục năm tân nguyên thứ 1448. Ma vương xuất thế, phá vỡ phong ấn ma tộc ở Miên Trung, vô số ma tộc tràn ra nhân giới.
Đến ngày mười tám tháng giêng, trên toàn bộ đại lục xuất hiện năm chiến trường nhân-ma lớn: phía Bắc Phong Nguyệt vương triều và Ngụy Quốc, phía Tây Phong Nguyệt vương triều và Mông Cổ, giáp biên Phong Quốc và Liêu Quốc, trung tâm nước Di giáp Tây Hạ và Liêu Quốc, trung tâm vùng Miên Trung.
Hơn một nửa các tòa thành Liêu Quốc thuộc phe ma tộc, nước Di cũng trở thành bàn đạp của ma tộc. Hầu như phía Nam địa lục đều bị ma tộc xâm chiếm, trở thành doanh trại của ma tộc.
Ngày hai mươi tư tháng hai, thiên tộc trực tiếp phá vỡ phong ấn, chính thức tham gia vào cuộc chiến tranh nhân-ma.
Dạ Tuyết ngồi bên cạnh hai nấm mồ, tay cầm bình rượu mà uống.
"A Nguyệt, chàng thấy nơi này tốt chứ?"
Dạ Tuyết vuốt ve tấm bia đá khắc ba chữ Phong Lãnh Nguyệt, ở gốc phải bia mộ khắc vài chữ nhỏ "Ái nhân lập bia". Nàng mỉn cười tự nói tự nghe "Ta thiết nghĩ chàng không thích ở lại Phong Quốc... Dù sao khi tại thế chàng ở Phong Quốc đã chịu nhiều khổ cực nên ta chủ trương đưa chàng đến Phong Nguyệt. Chàng không giận ta chứ?"
Dạ Tuyết uống một ngụm rượu, tựa đầu vào bia đá "A Nguyệt, mẫu thân chàng là người Phong Nguyệt nhưng ta lại không biết mẫu thân chàng quê ở đâu. Ta thấy trước kia chàng ở Nam Cương sống rất tốt, ta cũng nghĩ chàng không thích kinh thành. Ta liền đưa mẫu thân chàng và chàng đến đây. Tiêu Cẩn Minh nói nơi đây phong thủy tốt... Ta cũng cảm thấy vậy..."
"A Nguyệt, chàng ở đây vậy Tiểu Phàm và Cẩn Minh cũng có thể đến thăm chàng thường xuyên rồi. Khi còn tại thế chẳng phải tình cảm ba người rất tốt sao?"
Dạ Tuyết ôm chặt tấm áo choàng thêu kì lân trong lòng, lẩm bẩm "A Nguyệt..."
Sau trận chiến tại hoàng cung Phong Quốc ngày đó, nàng lật tung cả Phong Quốc lên cũng chẳng tìm thấy thi thể Phong Lãnh Nguyệt. Nàng tìm ròng rã hai tháng trời, tìm đến khi tân hoàng Phong Quốc lên ngôi cũng chẳng tìm ra thi thể y.
Dạ Tuyết cảm thấy nàng thật vô dụng, tính mạng ái nhân đã không thể bảo vệ nổi, đến thi thể của Lãnh Nguyệt cũng không giữ được.
Sau đó có rất nhiều người khuyên nàng trở về, khuyên nàng đừng tìm nữa, đã sớm không còn hy vọng rồi.
Ngày đó Vương Quân tới tìm nàng, hắn không nói gì chỉ đưa nàng đồ dùng hằng ngày khi Lãnh Nguyệt còn sống rồi rời đi.
Dạ Tuyết nhìn những đồ dùng kia đến thất thần, nàng ngồi suốt một ngày một đêm không ngủ nghỉ không ăn uống nhìn chằm chằm những món đồ của Lãnh Nguyệt.
Nàng cứ tưởng bản thân đã sớm khóc hết nước mắt, đã sớm đau lòng đến tê tái không còn cảm giác. Ấy vậy mà đêm đó nàng ôm lấy tấm áo choàng thêu kì lân kia khóc đến ngất đi.
Nàng là tướng quân, từng nhìn qua biết bao nhiêu sinh ly tử biệt, tự cho rằng bản thân lòng dạ sắt đá. Nhưng nàng lại quên mất bản thân là một nữ tử, quên mất bản thân là một con người tự khắc có cảm xúc, có vui vẻ cũng có đau buồn.
Sau đêm hôm đó, Dạ Tuyết đem theo di vật của Phong Lãnh Nguyệt và tro cốt của Tử Dạ trở về Phong Nguyệt. Hôm đó vừa vặn lạ lúc Nam Cung tướng quân trở mặt với triều đình Phong Quốc.
Dạ Tuyết trở về tới Nam Cương thành đã là chiều tối mùng một tháng giêng. Nàng không trở về thành An Thạch mà ở hẳn tại Nam Cương thành.
Tin tức của nàng đã sớm truyền về kinh thành, hoàng đế Phong Nguyệt Phủ Hàn nghĩ đến tình cảnh của nàng cũng chỉ biết thở dài.
Hiện tại, Dạ Tuyết chẳng màng đến làm việc gì, suốt ngày ôm lấy di vật của Phong Lãnh Nguyệt ngẩn người. Việc duy nhất nàng làm chính là nhờ Tiêu Cẩn Minh tìm một mảnh đất phong thủy tốt để an táng mẫu tử Phong Lãnh Nguyệt.
E rằng Dạ Tuyết chẳng thể vực dậy tinh thần trong một sớm một chiều được. Chiến loạn lần nữa nổ ra, nàng cũng chẳng đoái hoài tới.
Dạ Tuyết sờ đến chữ Nguyệt được khắc trên bia đá lạnh băng, khẽ lẩm bẩm "A Nguyệt..."
"Dạ Tuyết."
Kinh Thủy Hiên mặc áo giáp bạc, khoát áo choàng thêu kì lân bằng kim tuyến của tứ đại tướng quân Phong Nguyệt. Hắn hiếm khi có dáng vẻ nghiêm túc như vậy, hắn nhíu mày nhìn hai bia mộ một cái rồi nhìn Dạ Tuyết.
Nàng lúc này khác xa hoàn toàn trong trí nhớ hắn. Trong trí nhớ hắn Dạ Tuyết luôn là một nữ tướng quân kiêu ngạo, nghiêm túc lại có chút tự luyến chứ không phải nữ tử chìm đắm trong đau khổ ái tình như vậy.
Kinh Thủy Hiên thở dài "Dạ Tuyết, đã lâu như vậy ngươi còn chưa dứt ra sao? Chiến loạn đã dấy lên lần nữa rồi, ngươi đành lòng ngây ngốc ở đây mặt kệ chúng sinh sao?"
Dạ Tuyết cười nhạt, giọng điệu tự giễu "Giải cứu chúng sinh? Ta cũng không phải thần tiên."
"Dạ Tuyết, ngươi nhớ cái chết của Phong Lãnh Nguyệt? Ngươi còn nhớ hắn vì sao chết?"
Dạ Tuyết đang uống rượu thoáng khự lại, rượu nương theo động tác nàng chảy ướt vạt áo.
"Phong Lãnh Nguyệt vì sao mà chết ắt hẳn ngươi là người rõ nhất. Dạ Tuyết, ngươi không nhớ đến lời hẹn thề ban đầu khi bước vào quân doạn cũng không thể phụ lòng Phong Lãnh Nguyệt!"
Dạ Tuyết đặt bình rượu xuống, cười nhạt, đúng vậy, A Nguyệt là vì nàng mới chết. A Nguyệt là vì nàng mới hi sinh bản thân!
Nếu khi đó nàng ở lại, liệu A Nguyệt có thể sống không?
"Dạ Tuyết, trước kia ngươi chẳng phải kiêu hãnh lắm sao? Ngươi bây giờ có khác gì đám nữ nhân lụy tình bên ngoài? Ngươi còn là tướng quân không?!"
Dạ Tuyết im lặng, đúng hơn là nàng không thể đáp lời hắn.
Kinh Thủy Hiên thở dài "Ma tộc đã tấn công toàn diện đại lục rồi... Dạ Tuyết, ta mong ngươi nhanh chóng thoát khỏi đau khổ, day dứt hiện tại."
Hắn dừng một chút, lại nói "Ta mong khi gặp lại lần nữa ngươi vẫn là Dạ Tuyết trước đây."
Sát phạt, quyết đoán, mạnh mẽ.
Dạ Tuyết của trước đây chính là như vậy. Liệu nàng có thể quay lại chăng?
Kinh Thủy Hiên nhìn nàng, cuối cùng thở dài rời đi.
Trong suốt thời gian qua cũng rất nhiều người đến khuyên nàng nhưng có mấy ai có thể khuyên nàng thành công?
Trước kia tham tướng Hồ Khâm ngày nào cũng đến khuyên nàng nhưng hiện tại đã mấy ngày không thấy mặt, huynh đệ Tiêu gia cũng vậy. Chiến loạn nổ ra lần nữa, Miên Trung là trung tâm của trận chiến, mọi người tối mặt tối mũi chống kẻ địch ngoại tộc. Đã sớm không còn tâm trí quan tâm đến Dạ Tuyết rồi.
Dạ Tuyết vuốt ve bia đá lạnh lẽo, khóe mắt ẩm ướt "A Nguyệt... Chàng nói ta phải làm sao đây?"
Dạ Tuyết ngây người đến chiều tối, ánh tà dương chợp tắt. Hôm nay không trăng cũng chẳng sao, bầu trời phủ đầu mây đen. Bầu trời tâm tối như hoàn cảnh đại lục vậy.
Bỗng phía xa xuất hiện đốm sáng nhỏ. Nàng nheo mắt nhìn về phía ánh sáng xanh lục lập lòe phía xa, đó là một ngọn lửa màu xanh trôi nổi giữa không trung. Nàng không biết đó là gì, thứ đó bay xung quanh nàng, cuối cùng dừng lại trước mặt nàng cách đó không xa.
Trong đầu Dạ Tuyết đột nhiên xuất hiện ra hai chữ "hỏa hồn".
Đại lục Huyễn Lam có ma giới, nhân giới, thiên giới ắt cũng có quỷ giới. Nhưng quỷ giới này được người đời gọi là âm tào địa phủ, là điểm đến của những linh hồn đã khuất.
Hồn hỏa không phải hiếm gặp, ít ra không phải chưa có phàm nhân nào gặp chỉ được nghe trong truyền thuyết.
Dạ Tuyết ngồi xuống trước bia mộ Phong Lãnh Nguyệt, đưa tay đón lấy ngọn hỏa hồn yếu ớt kia "Ngươi... Là đang theo ta sao?"
Hồn hỏa không biết nói, nó chỉ yên vị ở trên bàn tay Dạ Tuyết. Tuy là ngọn lửa nhưng lại mang cảm giác lạnh đến thấu xương, là một loại âm hàn đến từ địa ngục.
Dạ Tuyết mỉn cười "Hồn hỏa... Địa ngục? Là muốn đưa ta đi theo sao? Ta cũng không ngại..."
Ngọn hồn hỏa bay ra khỏi tay Dạ Tuyết, bay xung quanh nàng.
Dạ Tuyết cũng không màng đến nó nữa, rượu đã thấm dần, men rượu xông thẳng lên não khiến thần trí nàng mơ hồ. Nàng cũng mặc kệ xung quanh, tựa đầu vào bia đá lạnh băng mà ngủ.
Hồn hỏa bay xung quanh Dạ Tuyết cho đến khi nàng an giấc, nó như biết được đến gần nàng sẽ khiến nàng không thoải mái liền dịch chuyển ra ra, bay xung quanh mộ phần của Tử Dạ.
"Cô nương này đánh đàn rất hay nha. Không biết Tiêu phủ mời cầm sư này từ đâu?"
"..."
"Dạ Tuyết, cái kia... Y là nam tử."
"Vị công tử này, thật xin lỗi! Dạ Tuyết ăn nói lỗ mãn mạo phạm đến người rồi."
"..."
Lần đầu gặp mặt, Dạ Tuyết nhận nhầm Phong Lãnh Nguyệt là nữ nhân.
Lần đầu gặp mặt liền bắt đầu một nghiệt duyên vốn không nên có.
Một tháng lộ trình từ Nam Cương đến kinh lăng, từng hình ảnh, từng kí ức dần dần tái hiện ngay trước mặt. Từng động tác, từng ánh mắt, lời nói của người thương năm xưa nay nhớ lại càng thêm đau buồn.
Còn nhớ năm đó tuyết rơi, thiếu niên ngượng ngùng đỏ hoe vành mắt cùng tướng quân sắp ra trận hứa hẹn
"Đợi ta trở về"
"Được"
Thế mà lần đó ly biệt, là lần cuối cùng hai người có thể ở trên cương vị bạn bè, tri kỉ mà nói chuyện. Lần nữa gặp lại chính là chiến trường của hoàng thất, khói lửa vây quanh, xác chết ngỗn ngang, huyết tinh tanh nồng.
Ngày đó, nữ tướng quân quay lưng rời đi, vì nghĩa quên thân, vì an nguy xã tắc bỏ mặc người mình thương nhớ. Ngày đó thiếu niên sống tạm bợ cả một đời, lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng tự đưa ra lựa chọn cho bản thân. Thiếu niên ngã xuống, tướng quân một đi không quay đầu.
Khóe mắt Dạ Tuyết ướt át, nàng đã tỉnh say cơn say nhưng không vội mở mắt. Nàng cảm nhận nỗi đau, cảm nhận từng sự tinh tế của đất trời, cảnh nhận được sự thay đổi trong trời đất do chiến loạn mang lại.
Dạ Tuyết bất chợt nhớ đến ngày đầu tiến vào quân doanh, ngày đầu tiên ra chiến trường giết địch, ngày nhận binh phù của tướng quân. Thời gian trôi qua nhanh như chớp mắt, còn nhớ năm đó ánh mắt kiên định thốt nên lời thề độc "nguyện đời này bảo vệ tổ quốc, sống trong vinh vang, chết trên chiến trường."
Dạ Tuyết mở mắt, nàng lau đi lệ dài trên má.
A Nguyệt cũng vì thành toàn cho tín ngưỡng, thành toàn cho lời thề của nàng mà hi sinh bản thân. Cho dù nàng có ngây ngốc ở đây bao lâu thì A Nguyệt cũng chẳng trở về được. Chẳng lẽ nàng muốn A Nguyệt hi sinh một cách vô ích?!
Nhưng... Đến cả nam nhân mình yêu còn không bảo vệ được thì làm sao bảo vệ bách tính chứ? Ngươi một lòng một dạ muốn tốt cho giang sơn xã tắc... Cuối cùng vẫn không giữ được A Nguyệt vậy giang sơn này còn có ý nghĩa gì?!
Dạ Tuyết thở dài, tâm nàng thật sự loạn. Dạ Tuyết biết, nàng đã sinh tâm ma!
Trong thời loạn lạc, tâm ma là điều tối kị của nhân tộc. Tâm ma dễ sinh nhưng chẳng dễ dàng dứt đi bao giờ. Ma tộc có thể lợi dụng chấp niệm của con người, mê hoặc con người trở thành nô lệ của ma tộc.
Dạ Tuyết nhắm chặt mắt, nàng tựa đầu vào bia đá lạnh lẽo sau lưng lẩm bẩm không ngừng "A Nguyệt, chàng nói ta phải làm sao đây?"
Đương lúc ác tâm và thiện tâm của nàng tranh đấu không ngừng, ý niệm thù hận giang sơn một phần nàng bảo vệ suốt bao nhiêu năm dần hiện rõ, lúc này nàng nghe thấy tiếng đàn.
Dạ Tuyết hơi sửng sốt, tiếng đàn có chút quen thuộc. Nàng không biết tiếng đàn từ đâu vọng tới hay thực chất vọng lại từ trong kí ức trước kia của nàng.
Là bài chiến ca...
Là bài chiến ca năm đó A Nguyệt đàn trong cuộc so tài ở hành cung. Là bài chiến ca năm đó y ngồi trên tường thành đàn, tiễn nàng một đoạn đường đi hành quân.
Chiến ca...
Dạ Tuyết bỗng chợt bật cười nhưng đôi mắt lại nhòe đi "A Nguyệt... Là chàng sao?"
Dạ Tuyết biết người nàng thương đã sớm không còn nhưng nàng cảm nhận được y vẫn ở đây, vẫn ở bên cạnh nàng như lúc đầu.
"A Nguyệt.... Ta hiểu rồi!"
Dạ Tuyết đứng dậy, nàng nhìn ba chữ "Phong Lãnh Nguyệt" khắc trên bia mộ, nở nụ cười đẹp nhất "A Nguyệt, lần này chàng đi cùng ta... Có được không?"
Phong Lãnh Nguyệt đã chết nhưng A Nguyệt của nàng vẫn còn sống. Ít nhất vẫn mãi mãi còn sống trong tim nàng...
A Nguyệt, kiếp này đã không có duyên nợ vậy hãy để kiếp sau ta bù đắp cho chàng... Không! Đời đời kiếp kiếp bù đắp cho chàng miễn chàng nguyện ý!
Ngày hai mươi tư tháng hai năm tân nguyên thứ 1448, Dạ Tuyết vận thân áo giáp bạc, vai khoát áo choàng đen thêu kì lân bằng chỉ kim tuyến, vác theo trường thương bạc trở lại chiến trường trung tâm đại lục-Miên Trung.
Chiến loạn hồi hai vừa bắt đầu, ba tộc toàn đại lục tham gia chiến tranh. Thời gian hãy còn dài, khúc nhạc dạo đầu chỉ vừa dứt. Tiếp theo chính là võ đài của toàn bộ tộc nhân trong toàn đại lục.
—Hoàn Chính Văn—