Cố Linh Dục xoay người ôm Phó Lan Quân vào ngực, người cô run lẩy bẩy: “Có chuột! Nó vừa mới bò qua chân tôi!”
Sống đến ngần này tuổi rồi, đây là lần đầu tiên cô có tiếp xúc “gần gũi” với một con chuột đến vậy, sợ tới mức nói năng lộn xộn, tay ôm ghì cổ Cố Linh Dục nhất quyết không buông, Cố Linh Dục rướn người với lấy chiếc đèn dầu đặt đầu giường và thắp lại bằng que diêm. Trong ánh đèn leo lét vàng vọt, một con chuột béo mập núp dưới gầm giường đang giương hai con mắt bé tí nhìn bọn họ chằm chằm, xem chừng nó không hề sợ người!
Phó Lan Quân lắp bắp ra lệnh cho Cố Linh Dục: “Đánh nó… đánh chết nó!”
Nhưng khi Cố Linh Dục toan xuống giường bắt chuột thì cô lại không chịu: “Ngộ nhỡ nó trèo lên giường thì làm sao bây giờ?”
Cố Linh Dục dở khóc dở cười: “Bằng không em đi ra ngoài trước, chờ tôi bắt chuột xong rồi hẵng vào.”
Phó Lan Quân vừa bực vừa sợ, nước mắt lưng tròng: “Ngộ nhỡ ngoài kia có nhiều chuột hơn thì làm sao bây giờ? Ngộ nhỡ ngoài kia còn có thứ đáng sợ hơn cả chuột thì làm sao bây giờ?”
Cố Linh Dục bất đắc dĩ nhìn cô bằng ánh mắt vô tội: “Vậy em nói xem, làm sao bây giờ?”
Phương pháp giải quyết cuối cùng, Cố Linh Dục lưng cõng Phó Lan Quân tay đập chuột, Phó Lan Quân dính sát vào lưng hắn, miệng không ngừng chỉ huy: “Ở đó, chạy tới đó mau!”
Hắn cõng cô chạy khắp phòng, tiếng “chít chít” của chuột và tiếng la hét rung trời đất của Phó Lan Quân hòa lẫn vào nhau, quả là một đêm náo nhiệt, đuổi rồi lại đuổi, bỗng Cố Linh Dục xì cười: “Chúng ta thế này làm tôi nhớ đến câu thành ngữ, đó là: Cấu kết với nhau làm việc xấu.”
Phó Lan Quân siết lấy cổ hắn, Cố Linh Dục vội vàng xin tha: “Tôi sai rồi, xin phu nhân tha mạng.”
Phó Lan Quân vênh váo nghênh ngang kéo tóc hắn: “Anh nhớ đến thành ngữ thì tôi cũng nhớ lại một câu chuyện.”
Cô hắng giọng rồi bắt đầu kể câu chuyện của mình: “Ngày xưa, có một vị Long Vương già muốn kén rể, yêu cầu của ông ta rất lạ lùng, không cần ruộng tốt ngàn khoảnh cũng chẳng thèm gia tài bạc triệu, chỉ cần cân nặng anh con rể không thừa không thiếu vừa đủ một trăm cân. Có một con rùa nhận thấy mình đúng vừa đủ một trăm cân liền hí hửng đi báo danh trúng tuyển, kết quả vừa vào cân thì chỉ có chín mươi chín. Rùa ta ủ ê ra về, trên đường về gặp một con rắn, khi này rắn mới hỏi rùa, chẳng biết anh rùa ra sao, chán nản thế nào? Và rùa buồn bã kể với rắn về chuyện kén rể, rắn bảo, cứ phải gọi là dễ như bỡn, tôi vừa vặn nặng một trăm cân, để tôi chui vào mai của anh rồi đi đến đó cân thì chắc chắn được một trăm tròn luôn, anh thấy sao? Rùa ta nghe xong vui tít mù, để rắn chui vào mai mình quay ra biển, lên cân thì đúng là một trăm, rùa khấp khởi, tuy nhiên Long Vương lại thấy con rùa này nhìn kiểu gì cũng quen quen, ban nãy được chín mươi chín cân thôi mà, sao giờ đã lên tới một trăm rồi? Ông ta vỗ mạng vào cái mai cứng như đá của con rùa, có con rắn nhỏ chui tọt ra ngoài, Long Vương tức giận hỏi, ngươi trú trong mai nó làm gì? Con rắn nhỏ nói…”
Lời còn chưa nói hết, bất thình lình trời đất đảo lộn, cô bị quẳng lên giường, Cố Linh Dục linh hoạt xoay người, hai cánh tay ôm cổ cô, cả người áp sát vào lưng cô, hơi thở nóng hổi phả bên tai cô, hắn đè thấp giọng cười bảo: “Con rắn nhỏ nói, tôi đang kể chuyện cho rùa nghe thôi mà.”
Ngày hôm sau, nắng sớm nơi chân trời vừa hé Phó Lan Quân đã thức, cô ngồi trên giường bó gối nhìn ngoài cửa sổ, ánh ban mai bao bọc dãy núi xanh ngát trập trùng xa xa, cảnh đồng quê buổi tinh mơ không ngờ lại đẹp đẽ đến vậy.
Cô quay đầu nhìn Cố Linh Dục, hắn còn say giấc, mày ngài sa tóc mai, sống mũi cao thẳng tắp, hắn trông còn đẹp hơn cả cảnh sắc thôn quê trong nắng mai ngập tràn.
Cố Linh Dục tỉnh dậy, hắn mở to mắt nhìn Phó Lan Quân, bên môi nở nụ cười khoan khoái: “Chào buổi sáng, Cố Phu nhân.”
Hiện tại hai người là đôi vợ chồng bình thường, không có nha hoàn người hầu, ở quê cũng chẳng có quán ăn sáng nên muốn ăn phải tự làm.
Hôm qua trước khi đi ông lão có nói phòng bên cạnh có củi lửa để họ dùng, bữa sáng này xem chừng không dễ dàng đây, phải đi lấy củi, nhóm lửa, thổi cơm,... Phó Lan Quân cau mày nét mặt sầu khổ, những việc ấy cô chưa từng làm, chuyện bếp núc đời này của cô duy chỉ có nấu mì thọ cho Cố Linh Dục, nhưng cách nấu là gì?
Bếp trong phòng bếp Cố gia cả ngày không tắt, mì cũng là nhờ Đào Chi nhào hộ, còn cô chỉ cần nặn bột rồi cắt thành sợi cho vào nồi, làm một bát mì thôi mà mất hết công sức của bao người…
Mà cô khá lo lắng về phòng củi kia, ai biết trong đó có ổ chuột không, nhớ lại con chuột to đùng hôm qua người cô không rét mà run.
Cố Linh Dục không kêu đói, cô cũng im ỉm, hai người cứ tiếp tục như vậy cho tới khi bụng Phó Lan Quân phát ra tiếng “ùng ục” vang dội, Cố Linh Dục bật cười đẩy đẩy cô: “Tôi cũng đói bụng, đi nấu cơm thôi.”
Phó Lan Quân bất mãn phản đối: “Sao anh không đi?”
Cố Linh Dục ngạc nhiên: “Quân tử xa nhà bếp, đàn ông xây nhà đàn bà xây tổ ấm, nào có ai đàn ông đàn ang lại xuống bếp?”
Phó Lan Quân ngoảnh mặt sang chỗ khác: “Đừng có mà xỏ lá với tôi, ở đây thì không có xây xiếc gì sất nhé.”
Nào ngờ Cố Linh Dục đáp lời, hắn nhảy xuống giường cầm lấy đòn gánh đặt ở bếp: “Được thôi, vậy tôi nấu nước em thổi cơm, để tôi đi nấu nước.”
Phó Lan Quân giận dữ trừng mắt, Cố Linh Dục đắc ý bước tới ngưỡng cửa thì quay đầu: “Đúng rồi, năm nay năm ngoái năm kia, tổng cộng em nợ tôi ba bát mì thọ, trưa nay tôi muốn ăn mì.”
Phó Lan Quân buột miệng: “Anh không sợ tôi bỏ độc vào à?”
Bờ vai Cố Linh Dục chợt cứng đờ, hắn không nói nữa, xỏ quang gánh lên vai gánh hai thùng nước đi thẳng.
Nhìn bóng lưng Cố Linh Dục qua khung cửa sổ, Phó Lan Quân có hơi hối hận, tại sao lại cứ phải nói ra những câu tổn thương đó? Cho dù trong lòng còn hận còn oán, nếu đã đồng ý buông bỏ oán hận làm đôi vợ chồng bình thường với hắn trong ba ngày, đáng ra cô nên hết lòng tuân thủ hứa hẹn.
Cô xỏ giày đi qua phòng bên lấy củi mà kinh hãi vô cùng, may mắn ban ngày không phải thời điểm đám chuột hoành hành, cô vội ôm một mớ củi rồi chạy bay ra ngoài.
Nhóm lửa là một môn khoa học, sau khi dùng hết ngót nửa hộp diêm mà vẫn chẳng thấy lửa đâu, Phó Lan Quân quệt trán tinh thần uể oải.
“Em làm thế không được đâu, chỉ dùng diêm thì sao nhóm lửa được.” Giọng Cố Linh Dục truyền từ sau lưng đến, Phó Lan Quân sửng sốt quay lại: “Sao anh nhanh thế?”
Cố Linh Dục đi tới và rút mấy que diêm trong hộp, nói giọng nhẹ nhàng bâng quơ: “Lúc chọn nhà tôi đã chọn căn nhà gần giếng nước nhất trong thôn.”
Tên lính gian xảo này!
Cố Linh Dục kéo cô sang bên, hắn quan sát lòng bếp, nhét từng khúc một rồi đẩy lên hai bên, ở giữa tạo thành lỗ hổng lấp đầy bởi những nhánh cây nhỏ và rơm rạ lá khô nhặt được ven đường, sau đó ném diêm vào, tức khắc có làm khói đen tỏa ra, về sau khói đen mỗi lúc một ít, lửa trong lòng bếp cũng dần dần bốc lớn.
Mở hết cửa và cửa sổ để khói đen tản đi, Phó Lan Quân kinh ngạc: “Không ngờ anh còn biết mấy cái này.”
Cố Linh Dục lau mặt, gương mặt chỗ đen chỗ trắng trông tếu cực kỳ: “Sao không biết được, tôi đã học rất chăm chỉ đấy.”
Phó Lan Quân thuận miệng hỏi: “Mới học mấy ngày trước à?”
Cố Linh Dục khẽ đáp: “Học hồi năm Bính Ngọ.”
Phó Lan Quân ngẩng đầu nhìn hắn, hắn cũng đang lẳng lặng nhìn cô.
Phó Lan Quân quay đi, cổ họng nghẹn ứ. Năm Bính Ngọ… Năm ấy hắn vì cô mà tạo nên cung điện kính nhỏ, trong ánh sáng chói lọi của hàng ngàn hàng vạn “vì sao”, cô từng nói với hắn, cô muốn về quê ở một căn biệt uyển sông nước yên bình, hắn nói hắn sẽ sửa mái nhà tranh cho cô, cùng cô ngồi nghe tiếng mưa rơi đầu giường.
Cố Linh Dục ra ngoài đổ nước vào lu, Phó Lan Quân lấy cái muôi múc bột trong hũ ra bắt đầu nhào mì, cán bột xong, Cố Linh Dục nói cô nợ hắn ba bát mì, vậy là cô lại cặm cụi nấu ba bát mì cho hắn, mỗi bát đều có đầy đủ hành thái trứng chần, tựa như bát mì thọ đầu tiên cô nấu cho hắn.
Cố Linh Dục lặng lẽ ăn hết ba bát mì, Phó Lan Quân ngồi bất động nhìn hắn ăn.
Ăn đến bát thứ ba, Cố Linh Dục đột nhiên nâng mắt nở nụ cười với Phó Lan Quân, hắn nhẹ nhàng nói: “Đây chính là nửa đời còn lại.”
Cơm nước xong, Cố Linh Dục đi rửa chén. Chạng vạng, hai người ra vườn rau sau nhà tưới nước chăm bẵm, mướp và cà tím sinh trưởng rất tốt, Phó Lan Quân hái hai mớ cải xanh giữ làm cơm tối.
Trước ngôi nhà tranh có cái ao, trước ao có cây hoa hạnh, đáng tiếc đã qua mùa hoa nở, mà quả hạnh vẫn chưa độ chín.
Đến sớm có hoa, tới muộn có quả, lần nào cũng như vậy.
Đứng dưới tàng cây, Phó Lan Quân có chút thương cảm.
Cố Linh Dục ngồi trước ao bỗng thổi lên một khúc sáo,
Thổi xong, Cố Linh Dục đột nhiên cất lời, hắn lẩm bẩm như độc thoại: “Em nói xem, ngày mai trời có mưa hay không?”
Sáng ngày thứ hai trời không mưa.
Ngày thứ ba cũng thế.
Chập choạng tối, mây đen chợt tụ lại phía chân trời, làn gió hiu hiu lượn lờ thôn xóm chợt giật mạnh, Phó Lan Quân mở rộng vòng tay đón gió, lòng thanh thản mãn nguyện.
Lá hạnh xanh đầu cành khẽ đung đưa, Cố Linh Dục cầm sáo đứng dưới gốc hạnh, dường như hắn đang đợi thứ gì đó, đợi lâu thật lâu, đợi đến lúc ngây dại.
Trời sập tối, mây đen tan dần, khoảng không khôi phục lại sự tĩnh lặng ban đầu.
Cố Linh Dục lẳng lặng đứng dưới tàng cây xòe rộng, không nói năng gì.
Nửa đêm Phó Lan Quân thức giấc thấy hắn ngồi ở đầu giường, mắt cứ nhìn mãi về cửa sổ ánh lên vẻ si mê ngây dại, mặt trăng phía ngoài treo tít trên cao, vầng sáng vàng nhạt êm dịu trải dài tới Cố Linh Dục và tạo thành “chiếc lồng” bao quanh hắn, bóng của những song cửa đổ nghiêng in lên người hắn, chừng như hắn đã bị ánh trăng đầy tham vọng ấy bắt nhốt đến một cõi hư vô tách biệt với thế giới thực tại.
Phó Lan Quân nhắm hai mắt lại.
Ngày mai, bọn họ phải quay về Ninh An.
Năm 1913, ngày rời thôn, trời không mưa, quang đãng trong vắt.
Họ tạm biệt đôi vợ chồng chủ nhà rồi khăn gói lên thuyền, dọc đường đi chẳng ai lên tiếng, may mắn gặp chiều gió tốt nên đường về khá thuận lợi, tiết kiệm thời gian hơn nhiều so với lúc đi.
Thuyền cập bến tàu Ninh An, Cố Linh Dục nhảy xuống vươn tay đỡ Phó Lan Quân xuống thuyền, hắn nói với cô, ba ngày sau, chờ khi cô chuẩn bị rời khỏi Ninh An hắn sẽ giao đứa nhỏ cho cô.
Ngày ba tháng sáu năm 1913, Phó Lan Quân gặp Cố Linh Dục lần cuối cùng.
Ngày ấy cô đưa linh cữu rời Ninh An về với ông bà, quan tài của cha và di nương đã được nâng lên thuyền, tất cả hành lý cũng đã sắp xếp đóng gói xong xuôi, Đào Chi chờ cô trên thuyền, theo thỏa thuận cùng Cố Linh Dục trước đó, Phó Lan Quân ở nhà A Bội chờ hắn đưa đứa nhỏ đến.
Cô đợi cho tới khi sắc trời chuyển tối, rốt cuộc Cố Linh Dục cũng đến.
Phó Lan Quân tựa vào cửa ngóng hắn, dưới ánh tà dương, có dáng người cao lớn đang dắt một đứa bé con nhỏ xíu dần tiến gần, trái tim Phó Lan Quân vọt lên chạm tới cổ họng, cô muốn bước lên đón nhưng hai bàn chân lại nặng trĩu như đeo chì. Cuối cùng một lớn một nhỏ cũng đi đến trước mắt. Cố Linh Dục ôm lấy đứa nhỏ, Phó Lan Quân mê mẩn nhìn ngắm gương mặt Tuyết Nhi thương yêu, chỉ mới nửa tháng kể từ lần trước cô gặp thằng bé, nhưng trông nó có vẻ lớn hơn rất nhiều. Cố Linh Dục thấp giọng nói: “Đi thôi.”
Họ bắt một chiếc xe kéo đến bến tàu, chiếc xe kéo có tí mà ngồi hẳn hai người lớn một trẻ em, có hơi chật chội, hai người đành phải kề sát vai vào nhau, đứa nhỏ đã ngủ say, Phó Lan Quân bế thằng bé đặt vào lòng, ánh mắt vẫn không thể dứt khỏi nó dù chỉ là một giây. Cố Linh Dục vừa vỗ về đứa nhỏ vừa dặn Phó Lan Quân: “Tuyết Nhi không uống được sữa bò, uống vào là trớ ngay, thậm chí còn có thể nổi mẩn, tuyệt đối không được cho nó uống sữa. Thằng bé rất dễ đói, một ngày phải ăn bốn bữa cơm, tuyệt đối không được để nó đói…”
Tất cả mọi thứ liên quan đến đứa nhỏ hắn đều vô cùng cẩn thận tỉ mỉ, nhất định là hắn vô cùng yêu đứa nhỏ, chợt nhớ lại cảnh tượng năm đó hắn quỳ gối trước Phật Tổ cầu nguyện cho thằng bé, tự dưng Phó Lan Quân cảm thấu được phần nào nỗi xót xa của hắn.
Dọc đường lắc lư xóc nảy, lờ mờ thấy được bến tàu đã bắt đầu xuất hiện.
Cố Linh Dục ôm con dìu Phó Lan Quân xuống.
Phó Lan Quân ôm đứa nhỏ về, vừa định xoay người đi thì Cố Linh Dục đột nhiên cất tiếng gọi, cô quay đầu, Cố Linh Dục xòe bàn tay ra, một cây trâm hoa hồng vàng nằm lặng im ở đó, hắn cầm kim trâm cúi người cài vào vạt áo Phó Lan Quân: “Xin lỗi, tôi không thể trả lại cậu ấy cho em, chỉ có thể trả lại cho em cây trâm này.”
Hơi thở của hắn phả vào cổ cô, ấm áp vô cùng, khiến họng cô bất chợt nghẹn lại như có thứ gì mắc kẹt.
Phó Lan Quân siết chặt con, Cố Linh Dục vẫy tay: “Đi đi.”
Đi đến mạn thuyền Phó Lan Quân lần nữa quay đầu, Cố Linh Dục đã an vị trên xe kéo, nhìn thấy được mỗi nửa người chứ không nhìn được nét mặt của hắn.
Phó Lan Quân bước chân lên thuyền.
Thuyền cứ trôi theo dòng sông dập dềnh, cuộc sống vì vậy mà khó tránh khỏi buồn tẻ đơn điệu, người lớn còn không chịu nổi huống chi con nít. Tuyết Nhi khóc suốt ngày đòi cha đòi mẹ, Phó Lan Quân bỗng nghĩ tới Trình Bích Quân.
Cố Linh Dục sẽ ăn nói thế nào với Trình Bích Quân? Nuôi nấng hai năm trời, nhiều ít gì thì cô ta cũng dành tình cảm cho Tuyết Nhi, đùng một cái Tuyết Nhi bị cướp đi, cô ta sẽ đau lòng, sẽ uất hận ư?
Đào Chi ra sức khuyên lơn: “Tiểu thư đúng là thánh mẫu, đứa nhỏ vốn dĩ là cô rứt ruột sinh, bọn người đó tàn nhẫn đẩy hai mẹ con cô vào cảnh chia cắt trái ngang, nay thằng bé về bên cạnh cô rồi thì sao gọi là cướp được? Hơn nữa cô ta đối xử tốt với đứa nhỏ tám chín phần là vì lấy lòng cô gia, giờ thằng bé không ở đó nữa có khi cô ta mừng còn chẳng kịp ấy chứ, nửa năm nữa tự sinh cho mình một đứa rồi thì chắc thèm vào mà nhớ nhung tiểu thiếu gia.”
Lời cô ấy nói không phải không có đạo lý, Phó Lan Quân thoáng yên lòng.
Bôn ba cả nửa tháng cuối cùng cũng trở lại “cố hương”, xuống thuyền, Phó Lan Quân có hơi mông lung.
Mặc dù là quê mình nhưng thực tế số lần cô đặt chân đến đây đếm trên đầu ngón tay, từ nhỏ cô đã theo chân Phó Vinh chạy khắp nẻo trời Nam đất Bắc, chỉ có lần dời mộ ông nội và lâu lâu được mấy ngày được nghỉ phép thì mới đến, tất cả mọi thứ ở nơi này - bao gồm cả phong tục tập quán - với cô mà nói hoàn toàn lạ lẫm, như thể bước tới một vùng trời hoàn toàn mới.
Nghe tin cô về, mấy người trong họ liên tiếp kéo nhau đến thăm hỏi, có người quan hệ thân tình thỉnh thoảng liên lạc đôi câu, tới ăn vạ vòi tiền cũng có… Chưa đầy nửa tháng mà đã phải chi hết bao nhiêu là thứ tiền toàn vào chuyện đâu đâu, Đào Chi nhăn tít mặt khó chịu: “Tiểu thư, cứ tình hình này là hỏng rồi, đám thân thích đó có kẻ xa lắc xa lơ, bình thường cũng chẳng thấy hỏi han gì, vậy mà giờ người nào người đấy nối đuôi tới xin tiền, số của cải lão gia để lại đâu thể mặc họ lãng phí được.”
Phó Lan Quân cũng nhức hết đầu.
Không dừng ở đó, một sáng nọ Đào Chi mang đến tin tức Hồ Bắc lại có cách mạng bạo phát và được Lê Nguyên Hồng đứng ra đàn áp.
Tân Hợi trụ chưa được mấy năm, sao tự dưng loạn lên cả rồi?
Lòng Phó Lan Quân rối bờ, từ trước đến nay Hồ Bắc chính là trung tâm bão táp của cách mạng, hai mẹ con họ cô nhi quả phụ, ngộ nhỡ xảy ra chuyện thì làm sao bây giờ? Cả dòng họ ai ai cũng lăm le duỗi tay đòi tiền, một khi xảy ra chuyện thì không ai có thể giúp được.
Thấy cô lo lắng, Đào Chi ấp úng muốn nói lại thôi, Phó Lan Quân bảo: “Muốn nói gì cứ nói đi.”
Bàn tay đang vòng sau lưng của Đào Chi đưa ra trước: “Thực ra, cách đây ít lây lúc thu dọn đồ đạc ở Ninh An em có phát hiện cái này.”
Là một phong bì lớn, Phó Lan Quân ngờ vực nhận lấy rồi đổ đồ bên trong ra.
Cô ngây người.
Có ba bản hộ chiếu đi Anh: Của cô, của Đào Chi, và của đứa nhỏ.
Ngoài ra còn một tấm giấy ghi chú với hàng chữ ngắn gọn: Trong nước rối loạn, biến động bất ngờ, bảo vệ Tuyết Nhi, xuất ngoại tị nạn.
Rõ ràng, có người đã bỏ vào hành lý của bọn họ.
Phó Lan Quân áp chặt phong thư vào ngực, trái tim co thắt nghẹt thở, thật lâu không thốt lên thành lời.
Mùa thu năm 1913, Phó Lan Quân dẫn Đào Chi và đứa nhỏ sang Anh.
Trước khi đến cô đã liên lạc với vợ chồng Smith và Daisy, Cố Linh Dục nghĩ rất chu đáo, biết cô có bạn cũ ở Anh nên mới chọn nơi đó.
Phó Lan Quân ở tạm nhà Smith một tháng. Sau, cô mua được một căn nhà nho nhỏ và chuyển khỏi gia đình họ.
Sau khi tới Anh cô mới biết, hóa ra thứ Cố Linh Dục lén cất vào hành lý không đơn giản chỉ là ba bản hộ chiếu mà còn có một cuốn sổ tiết kiệm ngân hàng Hối Phong với số tiền dành dụm khiến kẻ khác giật mình. Trong sổ tiết kiệm cũng kẹp tờ giấy viết vắn tắt: Để dành sau này cho Tuyết Nhi đi học.
Phó Lan Quân không nghe ngóng tin tức của Cố Linh Dục.
Cô nhớ rõ lời hắn từng nói, từ nay về sau, chúng ta không liên quan gì tới nhau nữa.
Thật ra cô cũng không có ý dò la tin tức của bất kì ai, mọi thông tin về quê hương mà cô biết đều đến từ những tập báo giấy. Từ đó cô biết được trong nước đang xảy ra chuyện gì: Viên Thế Khải làm việc ngang ngược, quân Viên khắp nơi bắt tay nhau cấu kết khởi xướng cách mạng lần thứ hai và kết quả bị lực lượng vũ trang của Viên Thế Khải đàn áp. Tôn Văn, Hoàng Hưng qua Nhật Bản lánh nạn, Viên Thế Khải trở thành tổng thống chính thức của Trung Hoa dân quốc…
Đúng y như lời Cố Linh Dục nói, thời buổi rối ren mưa gió bất chợt, không chỉ Trung Quốc mà trên toàn thế giới.
Năm 1914, năm thứ hai sau khi đến Anh, chiến tranh thế giới lần thứ nhất nổ ra vào tháng bảy, tháng mười hai Viên Thế Khải đăng cơ xưng đế…
Vô luận thế giới có rung chuyển thế nào, Phó Lan Quân và đứa nhỏ sống trong khu người giàu ở London vẫn được an toàn.
Đôi khi cô ngồi ngẩn ngơ bên cửa sổ cả ngày trời, tâm trí không ngừng nghĩ về quê hương đất nước. Cố Linh Dục ở đâu? Hắn đang làm gì? Thế cục trong nước bấp bênh như thế, hắn chọn đứng về phe ai?
Cô quyết định mở trường học nhận những đứa trẻ gốc Hoa cù bất cù bơ không chốn nương tựa, hằng ngày dạy bọn chúng đọc sách viết chữ.
Cô tình cờ gặp lại Tiểu Tiền - con trai của quản gia Tiền - trong trường học.
Đó là một ngày thu năm 1923, người đàn ông trung niên nọ trong bộ áo quần sờn cũ tồi tàn dẫn một đứa trẻ đến trường xin hiệu trưởng Phó Lan Quân cho nó cơ hội được học tập. Phó Lan Quân vừa liếc mắt đã nhận ra ngay: “Tiểu Tiền!”
Người đàn ông trung niên nghe cô gọi thế bèn nhìn kỹ cô hơn, sau khi nhận rõ thì vẻ mặt ông ta thay đổi rõ rệt vội vàng kéo đứa trẻ quay người bỏ chạy.
Phó Lan Quân ngăn ông ta lại: “Anh không nhớ tôi sao? Tôi là Phó Lan Quân đây. Chú Tiền đâu rồi, sao anh cũng tới nước Anh xa xôi này?”
Tiểu Tiền cười mỉa: “Là đại tiểu thư à. Không ngờ quý bà Trung Quốc tốt bụng mọi người thi nhau ca ngợi ấy lại là cô… Tôi thật không còn mặt mũi nào để gặp cô, lăn lộn bao năm thân tàn ma dại, ôi…”
Phó Lan Quân mời họ ăn bữa cơm, qua cuộc trò chuyện thì cô biết năm 1910 Tiểu Tiền sang Anh, trong nước ông ta đích thị là con nghiện cờ bạc chẳng được tích sự gì, sau khi nhập cư trái phép đến Anh thì chỉ có thể đi làm cu li khuân vác mướn cho người ta, vất vả tới tận giờ, nhà có vợ có con, tuy nhiên cuộc sống cũng không khấm khá được là bao, làm việc quần quật ngoài đường cả ngày. Ông ta nghĩ không thể để con đi vào vết xe đổ của mình, vì thế bèn tìm cách đưa nó đến đây học.
Phó Lan Quân hỏi lý do ông ta đến Anh, còn chú Tiền đi đâu rồi, ông ta cứ ngập ngừng không chịu trả lời thẳng, chỉ nói cha ông ta đã qua đời trước khi đến Anh, hỏi tại sao lại mất cũng không nói, Phó Lan Quân nghĩ bụng, chắc phần nhiều là mất vì bệnh.
Lần cuối cùng gặp mặt chú Tiền đã nói với cô về chân tướng việc cha cô bị vu oan hãm hại, khi đó ông vẫn khỏe mạnh cường tráng lắm, ai ngờ chớp mắt đã buông tay trần thế. Chỉ đành thở dài thán câu, mệnh trời khó dò.
Phó Lan Quân nhận dạy con trai Tiền Tiểu Thiện của Tiểu Tiền, con trai của người bạn cũ nên cô hết sức dụng tâm, Tiền Tiểu Thiện vốn thông minh lanh lợi, dưới sự dạy dỗ của cô thằng bé tiếp thu các bài học rất nhanh.
Phó Lan Quân còn để Tiểu Tiền vào làm nhân viên trong trường, dù tiền lương không cao nhưng vẫn tốt hơn đi làm cu li bên ngoài, gia đình nhỏ của họ dọn vào ở ký túc xá dành cho nhân viên trường học, tốt hơn nhiều so với khu ổ chuột xập xệ ẩm ướt cứ mỗi mùa mưa là dột lụt nhà.
Tiểu Tiền vô cùng biết ơn, vì thế mà càng ra sức làm việc, nhưng dường như ông ta có vẻ sợ Phó Lan Quân, lúc nào cũng tránh né cô, Phó Lan Quân thấy rất hoang mang nhưng cũng không tiện hỏi nhiều.
Cho đến năm 1928, rốt cuộc Phó Lan Quân cũng hiểu được nguyên nhân.
Năm 1928, trường học được trùng tu, Tiểu Tiền bất cẩn té khỏi nóc nhà, lúc đưa tới bệnh viện thì người đã thoi thóp hơi tàn.
Vợ Tiểu Tiền quỳ rạp trước giường nắm chặt tay chồng mà khóc, Phó Lan Quân nắm tay Tiền Tiểu Thiện đứng trong phòng bệnh, Tiểu Tiền nằm trên giường nghiêng đầu mở to hai mắt nhìn Phó Lan Quân, Phó Lan Quân dắt Tiền Tiểu Thiện bước tới cúi người nói với ông ta: “Anh yên tâm, tôi sẽ giúp anh chăm sóc chị dâu và Tiểu Thiện.”
Tiểu Tiền gắng gượng kéo giãn cơ mặt nở nụ cười cảm kích, rồi ánh mắt ông ta hướng về phía vợ mình, cổ họng phát ra tiếng “ừng ực” khó khăn, mặt chị đẫm lệ siết chặt tay chồng: “Em hiểu cả.”
Tiểu Tiền mãn nguyện mỉm cười.
Rồi hai mí mắt dần dần khép lại, cánh tay buông thõng trút hơi thở cuối cùng.
Lo liệu xong đám tang cho Tiểu Tiền, có hôm nọ vợ ông ta bất ngờ tới tìm Phó lan Quân.
Chị quỳ trên đất kính cẩn dập đầu: “Một cái, cảm tạ cô đã chỉ dạy cho Tiểu Thiện nhà chúng tôi; một cái, cảm tạ cô thu nhận giúp đỡ cả nhà chúng tôi; một cái, cảm tạ cô đã tổ chức tang lễ cho chồng tôi; một cái cuối, tôi thay ông ấy và cha chồng tôi gửi lời xin lỗi đến cô.”
Phó Lan Quân sững sờ, xin lỗi? Xin lỗi về cái gì?
Đôi mắt in hằn dấu vết thời gian của chị đong đầy nước mắt chực tuôn trào: “Trước lúc đi Tiểu Tiền đã nói sự thật với tôi, ông ấy nói nếu không kể ra thì dưới âm ty địa phủ ông ấy cũng không sống yên ổn được.”
Chị chậm rãi thuật lại hết tất cả. Nghe xong, cả người Phó Lan Quân lạnh buốt run bần bật, cô ngồi chết lặng trong phòng hồi lâu như thi thể đã đông cứng. Cuối cùng không kìm nén nổi nữa, cảm xúc chợt vỡ òa, cô gào khóc thật to.
Cố Linh Dục bị oan.
Hắn không hề hại Phó Vinh, hắn không hề tham dự vào kế hoạch mưu hại Phó Vinh. Những lời chú Tiền nói chẳng khác nào đổ toàn bộ tội lỗi lên đầu hắn, mà cô, thế nhưng lại tin sái cổ vào lời bịa đặt ấy, và lợi dụng tình yêu của hắn để tiến hành cái gọi là “trả thù”, cũng vì bảo vệ chú Tiền - người cô coi như chính thân nhân của mình. Chú Tiền vào Phó gia làm việc từ khi cô chưa ra đời, cô coi ông như người nhà, nhưng nào nghĩ ông lại vì người nhà chân chính của ông mà bán đứng cha cô!
(còn tiếp)