“Bà chủ ơi, cho ta nửa cân đậu hũ đi!”
Nữ tử xinh đẹp trẻ tuổi mặc áo mùa xuân trắng như tuyết, tơ lụa mềm mại bao bọc lấy tư thái uyển chuyển, da thịt trắng nõn không hề thua kém hoa lê đầu cành, đôi mắt sáng lấp lánh như màu tuyết không tì vết, cho dù chỉ lơ đãng đứng nghiêng người ở đó thì cũng vô cùng phong tình không che giấu được.
Thẩm Dao ngẩng mặt cười một tiếng, dựa vào khung cửa nói: “Hết đậu hũ rồi, lấy đậu hũ chiên không? Còn lại một cân cuối cùng.”
Tiểu tử kia nhìn nụ cười của nàng, xương cốt đều mềm nhũn ra, vội vàng nói: “Lấy lấy, đừng nói là đậu hũ chiên, có là đá ta cũng lấy mấy cân.”
Hắn vừa nói ra lời này là đã khiến cho hàng xóm hai bên cười liên tục.
“Tiểu tử ngươi tới muộn rồi, Thẩm nương tử của chúng ta một ngày chỉ làm một trăm cân đậu hũ, mỗi ngày tờ mờ sáng là hàng đã xếp dài đến đầu hẻm, ngươi giờ Tỵ mới đến, đâu còn đậu hũ để bán nữa?”
Lại có một bà thím mắt sáng tiếp lời: “Ngươi nói vậy là sai rồi, người ta không phải đến mua đậu hũ đâu, người ta đến tạo niềm vui cho Thẩm nương tử đấy.”
Tiểu tử không những không ngại ngùng, ngược lại còn cong môi cười hào phóng, lấy ra bánh kẹp hành mua được ở phố Đồng La từ trong túi vải treo ở bên hông rồi vẫy vẫy tay với Thẩm Dao:
“Mang bánh kẹp hành đến cho bà chủ này, ngày mai giữ lại nửa cân đậu hũ trắng cho ta được không?”
Thẩm Dao tức giận liếc hắn một cái: “Quy tắc của cửa hàng ta thế này, không giữ hàng cho ai cả, ngươi muốn ăn thì lần sau đến sớm đi.” Sau đó dặn dò Bích Vân: “Gói hết số đậu hủ chiên cuối cùng còn lại đưa cho hắn.”
Bích Vân lưu loát dọn dẹp hòm xiểng, xách một cân đậu hũ chiên nhét cho tiểu tử kia, thuận tiện nhận lấy chiếc bánh hành, tiểu tử cười ha ha, treo đậu hũ lên cán rồi đẩy ra sau một cái, tiếng nước bì bõm vang lên, gợn sóng bị rẽ ra, hắn khẽ ngâm nga chậm rãi biến mất ở hướng đường sông.
Bán hết cân đậu hũ cuối cùng, Thẩm Dao và Bích Vân đóng cửa hàng: “Đi thôi Bích Vân, chúng ta đi ra phố.”
Đến phố Đồng La, xung quanh là chiêng trống vang trời, người trên đường như thủy triều.
Bích Vân kéo Thẩm Dao hỏi: “Cô nương, hôm nay là ngày tốt gì sao?”
“Không biết nữa.” Thẩm Dao đi xuyên qua đám người đến một cửa hàng sách, ông chủ là người quen, mỗi lần có sách mới ra là giữ lại cho Thẩm Dao, Thẩm Dao nhận lấy bao đồ ông chủ đưa tới rồi cẩn thận lật xem một lần, nói cảm ơn với ông ấy: “Đa tạ ông chủ Lưu.”
Ông chủ Lưu là một người đàn ông trung niên, năm ngoái thê tử ông ấy bị bệnh nặng, trong lúc vô tình đã được Thẩm Dao ra tay cứu giúp, hai bên qua lại như người thân, ông ấy vừa sai người dâng trà cho Thẩm Dao, vừa quan tâm hỏi: “Thẩm lão đệ thế nào rồi?”
Thẩm Dao cười: “Càng ngày càng chịu khó, hy vọng năm nay có thể đậu.”
Ba năm trước Mông Ngột xâm nhập phía Nam, khoa khảo bị hủy bỏ, rất nhiều con em nhà quyền quý bỏ văn nhập ngũ, ba năm sau chiến sự kết thúc, trước đó không lâu trong triều đã công bố văn thư, mở lại khoa khảo, Thẩm Triển giấu tài ba năm, chuyển từ Quốc Tử Giám sang thư viện Tung Sơn nghiên cứu, đã nửa năm rồi không về Kinh, cố gắng trúng bảng vàng trong năm nay.
Ông chủ Lưu đã từng là học trò được cử đi thi, sau này gia cảnh sa sút, ông mở cửa hàng sách ở trong thành để duy trì cuộc sống, nghe thấy chí khí thiếu niên cao xa, ông nhớ đến sự huy hoàng thời trẻ, trong mắt hơi ẩm ướt: “Ngươi chờ một chút, ta tìm hai quyển sách cổ cho hắn, trong đó vẫn còn chú giải của ta năm đó.”
Không bao lâu sau, ông chủ lại mang tới một cái hộp gấm, nhìn ra được ông vô cùng trân trọng nó, Thẩm Dao ôm vào lòng nói cảm ơn.
Khi sắp đi ra ngoài thì người làm thuê trong cửa hàng sách chạy vội vàng, đầu đầy mồ hôi tránh Thẩm Dao, trên mặt cười vui vẻ, vội vàng chắp tay nói với ông chủ:
“Ông chủ, tiểu nhân nghe được, thì ra hôm nay Đại đô đốc về triều, cả triều văn võ đều nghênh đón ngài ấy ở cổng thành phía Nam, vì vậy mà trong thành khua chiêng gõ trống, đợi lát nữa chúng ta đến đường cái ở Chính Dương Môn xem đi, nói không chừng còn có thể chứng kiến phong thái của Đại đô đốc đó.”
Ông chủ tỏ ra kích động: “Năm đó ta đọc sách ở thư viện từng nghe Tạ lão thái gia giảng bài, cũng coi như nhận được ơn trạch của ông cụ, nếu là Đại đô đốc chiến thắng trở về, dù thế nào cũng phải đi quỳ nghênh đón.”
Bích Vân đỡ Thẩm Dao đi ra khỏi cửa hàng sách, ngoái nhìn hai chủ tớ ông chủ vội vàng đóng cửa, nổi lên sự tò mò:
“Cô nương, Đại đô đốc đó là ai vậy, chúng ta cũng đi xem náo nhiệt đi?”
Thẩm Dao ngước mắt nhìn trời, bầu trời kéo dài vô tận, chim nhạn bay qua, nàng uể oải cười một tiếng:
“Không cần đâu, chỉ là một người đàn ông thôi, cũng có hai mắt một mũi, có gì hay mà xem.”
Cuối cùng bước xuống bậc thềm, nàng lại cười một tiếng hiền hòa: “Ba năm đại chiến, dân chúng lầm than, bình an quay về là tốt rồi.”
Nhìn thấy một cửa hàng nhỏ bán hoa lụa ở ven đường, nàng mua một hộp cho tiểu nha hoàn coi như vỗ về nàng ấy rồi vui vẻ đi về:
“Lâm đại ca đã gửi tin trước, chắc là buổi trưa sẽ đến nhà, huynh ấy thích vỏ đậu hũ hành lá mà ta xào, hôm nay bán hết vỏ đậu hũ rồi, chúng ta nhanh về làm một ít đi.”
“Được ạ!”
*
Khói chiều như sương, bao phủ Minh Hi Đường từng tầng từng lớp.
Tạ Khâm đi qua cửa nhà mà không vào, ở trong triều bận rộn năm ngày năm đêm, cuối cùng cũng về phủ vào ngày mùng ba tháng Ba.
Chàng dập đầu thỉnh an lão thái thái, cùng mẹ già nói chuyện xong thì quay về chi sáu, mái hiên cao cao tĩnh lặng thấp thoáng trong rừng cây xanh biếc, sân nhỏ đã từng mở đèn đuốc sáng trưng giờ phút này lại im ắng tối tăm.
Tạ Khâm đứng ở sảnh lớn dẫn lối vào thư phòng và Cố Ngâm Đường.
Áo bào đen bay phần phật, làm nổi bật lên dáng vẻ chàng như vị thần cô độc.
Ba năm rồi, trong ba năm này chàng ở biên cương đã chồng chất từng lớp xương trắng, vẻ trong trẻo lỗi lạc đó đã bị biển máu núi thây rửa sạch, chỉ để lại một thân xác đĩnh đạc mang theo linh hồn của ngàn vạn tướng sĩ, như Diêm La quay về từ Địa Ngục.
Giữa năm ngoái, Nữ Chân đánh lén vào Vĩnh Bình Phủ, áp sát Kinh thành, trực tiếp dọa cho Hoàng đế qua đời, thất Hoàng tử gần mười tuổi vội vàng đăng cơ, Hoàng đế vừa chết, tất cả việc quân sự và chính trị trong triều đều dựa vào hắn, cơ thể thất Hoàng tử yếu ớt, lại là học trò của chàng, cực kỳ tin tưởng chàng không nghi ngờ, trên dưới một lòng, cuối cùng cũng hoàn toàn quét sạch biên cương.
Vừa giành thắng lợi quay về, nắm đại quyền trong tay, trên dưới triều đình không có ai là không nhìn sắc mặt chàng để làm việc.
Ánh mắt Tạ Khâm u ám nhìn về phía Cố Ngâm Đường.
Vô số ngói vỡ tường đổ, xương khô mồ mả cùng với sự tĩnh lặng trước mắt xoắn vào nhau, ánh đao bóng kiếm và đường phố bình yên đan xen trước mắt chàng, cuối cùng sa vào trong đôi mắt sâu thẳm như đầm nước kia.
Tạ Khâm lẳng lặng nhìn qua, mãi đến khi sương mù tản đi, con đường mòn đá xanh trước Cố Ngâm Đường chậm rãi hiện ra hình dáng, chàng mới thích ứng được với vẻ yên bình trước mắt.
Chàng vô thức cất bước đi về phía Cố Ngâm Đường, vừa đi được hai bước thì chàng bỗng dừng lại.
Quên mất.
Nơi đó đã không còn ai nữa.
Tạ Khâm ngây ra chốc lát, làm như thật mà gật đầu, sau đó quay về thư phòng làm việc.
Đã nhiều năm rồi chàng chưa từng ngủ ngon, thoáng cái trở nên rảnh rỗi, chàng mờ mịt không biết đây là đâu, sửng sốt hồi lâu rồi dặn dò Bình Lăng đưa công báo trong triều tới, chậm rãi lao vào chính vụ, chàng mới tìm được cảm giác quen thuộc.
Hôm nay chàng vẫn thỉnh an mẹ già như thường, lão thái thái muốn chàng đi cùng bà đến chùa Tây Sơn ngoài thành làm lễ tạ thần linh, Tạ Khâm cũng đồng ý.
Hộ tống mẹ già đi một mạch lên núi, lão thái thái lễ Phật ở trong phật đường, Tạ Khâm ngồi ở Trích Tinh Lâu nghe tiếng mưa, chùa Tây Sơn hương khói hưng thịnh, cho dù là trong ngày mưa dầm thế này thì vẫn có người đến người đi không dứt, Tạ Khâm ngồi yên lặng, nhìn mưa giăng đầy núi xanh, nghe tiếng khói lửa nhân gian bên dưới.
Đột nhiên tiếng cười vô cùng sáng sủa thoải mái đã hấp dẫn chàng, chàng không nhịn được mà ló người ra nhìn, không biết là cô nương nhà ai mặc một bộ váy đỏ như hoa hải đường ngã một phát trong ngày mưa, khiến cho mọi người cười vang.
Cô nương ấy không những không khóc, ngược lại còn thoải mái đứng dậy, nở nụ cười xinh đẹp với đám người.
Tạ Khâm bỗng dưng cười một tiếng, một lần nữa ngồi xuống.
Luôn cảm thấy có đôi câu vài lời hấp dẫn lấy chàng, ngẫm nghĩ kỹ lại không biết là gì.
Trên đường trở về, lão thái thái đột nhiên nhắc đến:
“Con đã gần ba mươi tuổi rồi, xuất tướng nhập tướng, bốn biển thái bình đều nhờ công lao của con, cả đời này con cũng không còn mong muốn gì khác nữa thì nên ổn định rồi, cố gắng thành thân sinh con, mẫu thân có chết cũng không tiếc nuối.”
Tạ Khâm nghe được bốn chữ thành thân sinh con, trong đầu thoáng cái trống rỗng, một lúc lâu không trả lời.
Nghỉ ngơi trọn một ngày, hôm sau vào triều, việc đầu tiên là ở điện Văn Hoa cùng Hoàng đế trẻ chấp chính, triều thần lần lượt bẩm báo công việc ở các bộ cần được giải quyết, ngoài mặt là nói với Hoàng Đế, thật ra chuyện gì cũng chờ chỉ thị của chàng, Tạ Khâm bận rộn hồi lâu, thấy vẻ mặt Hoàng đế suy yếu thì sai người đưa hắn đến điện Phụng Thiên, mình thì ở lại Nội các tiếp tục chủ trì.
Buổi trưa, đường quan [1] các bộ tụ tập ở điện Văn Hoa dùng bữa, không biết là gã sai vặt nhà ai đưa hộp cơm tới, Trịnh Các lão uống trà cười hỏi:
“Lão Liễu à, nhiều năm qua rồi vẫn không thay đổi, thích thật đó.”
[1] Đường quan (堂官): Những người đứng đầu các bộ.
Liễu Thị lang của Lễ bộ cười mỉm trả lời: “Đâu có, đồ ăn này không thể bằng món khác được, là đậu hũ cay mới ra ở hẻm Cửu Dương, mọi người biết không, đậu hũ còn có thể làm cay đó, ta từng ăn một lần, ôi chao, nhớ đến mà thèm.”
Một vị đường quan khác cũng tiếp lời: “Hóa ra là đậu hũ ở hẻm Chính Dương, ta cũng đã được nghe nói, đậu hũ của quán đó cực kỳ ngon, nổi tiếng toàn thành, đáng tiếc mỗi ngày chỉ làm một trăm cân, nhiều hơn cũng không có, nhà ai muốn ăn còn phải đến sớm xếp hàng.”
Trịnh Các lão không tán thành, ghét bỏ nói: “Nhìn các ngươi xem, đường đường là quan tam phẩm lại ham ăn tục uống.”
Vị quan viên kia liếc nhìn qua sắc mặt của Tạ Khâm ngồi ở đầu, vội vàng lấy lòng nói:
“Đâu có đâu có, trước kia đâu có dám, bây giờ Thủ phụ đại nhân giữ cho thiên hạ an ổn, chúng ta mới có thể hưởng cái phúc này.”
Trịnh Các lão nhớ đến ba năm gian nan này, chút oán trách trước đó đột nhiên tan thành mây khói: “Ăn đi ăn đi.”
Liễu Thị lang đó cũng không tiện độc hưởng, đã nói ra rồi nên dứt khoát mở hộp cơm ra:
“Các vị cũng nếm thử đi.”
Trước mặt mỗi vị quan đều bày biện đồ ăn tinh xảo mà Ngự thiện trù đã làm, trước mặt Tạ Khâm còn có nhiều hơn người khác hai món.
Liễu Thị lang kia hoàn toàn không mong đợi Tạ Khâm sẽ nể mặt, chỉ khách sáo dâng hộp cơm đến trước mặt chàng thôi, chẳng biết tại sao mà ánh mắt Tạ Khâm lại rơi trên miếng đậu hũ hình vuông, trong mắt bỗng hiện lên ánh sáng, chàng vô thức gắp một miếng.
Liễu Thị lang lấy làm kinh hãi, Tạ Khâm chưa bao giờ để ý đến những thứ này, triều thần đều biết, hôm nay nể mặt ông ấy quả thật là việc vui rất lớn, ông ấy vui vẻ nâng hộp cơm một lượt, mọi người đều gắp một miếng.
Tạ Khâm gắp miếng đậu hũ cay kia nhìn thoáng qua, cuối cùng đưa vào miệng.
Mới nhai hai cái, một mùi vị quen thuộc xa xưa bốc lên.
Nếu chàng nhớ không nhầm thì chàng từng nếm qua món này rồi.
Trái tim lập tức siết lại, chàng ép chính mình bình tĩnh chậm rãi ăn hết miếng đậu hũ đó, sau đó thản nhiên lau miệng, nhìn về phía Liễu Thị lang:
“Mùi vị của món đậu hũ cay này độc đáo, quả thật không tầm thường, Liễu Thị lang vừa nói mua ở đâu ấy nhỉ?”
“Hẻm Cửu Dương!”
Tạ Khâm nhàn nhạt gật đầu, không hỏi thêm nữa.
Ánh hoàng hôn dày đặc trải lên ánh sáng vàng trên quan đạo, Tạ Khâm đã sớm cởi áo bào đỏ, thay sang trường sam màu đen xuất cung, chàng cũng không biết mình muốn đi đâu, cưỡi ngựa chẳng có mục đích mà đi đến Thành Nam, chạy đến đầu một con phố với dòng người tuôn ra, chàng đột nhiên tóm lấy một người hỏi:
“Hẻm Cửu Dương ở đâu?”
*
Đây là chén trà thứ bảy Tạ Khâm uống ở quán trà Cửu Dương.
Tay chàng nâng chiếc chén sứ trắng, thứ chàng uống không phải là trà thô không được tinh chế, ánh mắt lại nhìn về phía cửa hàng đậu hũ ở chếch đối diện không động đậy.
Thỉnh thoảng có một góc áo thoáng hiện bên trong cửa sổ, như thật như giả.
Giống nàng mà lại không giống.
Chỉ có một tiểu nha hoàn mặc áo xanh dựa vào cửa sổ của quầy hàng chào hỏi những người lui tới.
Bà chủ của quán trà thấy khí chất của Tạ Khâm không tầm thường, lại cứ nhìn chằm chằm vào tiệm đậu hũ, bỗng nhiên bật cười, mắt thấy mặt trời sắp xuống núi, bà cũng sắp dọn hàng, cầm khăn lau lau bàn, bà nhìn theo ánh mắt Tạ Khâm rồi cười tủm tỉm hỏi thăm:
“Vị gia này cũng đến xem Thẩm nương tử à?”
Lông mày Tạ Khâm hơi động đậy: “Thẩm nương tử?”
Quả nhiên là nàng.
Bà chủ cười: “Đúng vậy, từ khi Thẩm nương tử mở cửa hàng, hẻm Cửu Dương của chúng ta liền trở nên náo nhiệt, trong số những người đàn ông lạ mặt đi ngang qua, mười người thì có đến tám người đến nhìn nàng ấy.”
Sắc mặt Tạ Khâm lập tức sa sầm.
“Có ai bắt nạt nàng không?”
“Ai dám chứ?” Bà chủ nhìn sang với ánh mắt khoa trương: “Gia không biết đâu, Thẩm nương tử đó lợi hại lắm, lúc nàng ấy mới đến, có vài tên lưu manh muốn trêu chọc chòng ghẹo, tên đầu tiên bị nàng ấy đánh mù mắt, tên thứ hai bị gãy một chân, trông Thẩm nương tử xinh đẹp như hoa vậy thôi chứ võ công nàng ấy tốt lắm đấy, Thẩm nương tử giỏi buôn bán, ngay cả chúng ta cũng được thơm lây, dần dà đều kính nể nàng ấy.”
Sau đó thì kể rõ về mấy chuyện trượng nghĩa của Thẩm Dao.
Nàng thật sự là một cô nương tài giỏi, đi đến đâu cũng được người ta yêu thích.
Tạ Khâm nghiêm túc nghe, uống một ngụm trà nhưng chẳng biết mùi vị ra sao.
Bà chủ thấy chàng mất hồn thì chỉ cho rằng chàng si mê sắc đẹp của Thẩm Dao, hít một hơi:
“Thẩm nương tử này luôn khiến người ta yêu thích, nhưng số lại khổ, người đàn ông của nàng ấy chết ở biên cương, để lại một mình nàng ấy làm quả phụ không có con cái bên cạnh.”
Tạ Khâm nghe được lời này thì sặc một ngụm trà.
“Nàng ấy nói với người khác như vậy sao?”
Đây là đang mắng chàng à?
Trong lòng Tạ Khâm dâng lên cảm giác mừng rỡ mà chính mình cũng không hay biết.
Bà chủ thấy Tạ Khâm kích động thì kịp thời giội nước lạnh cho chàng:
“Có điều vị công tử này, chuyện khác thì ngài đừng trông mong vào, từ trước đến nay, số người làm mối cho Thẩm nương tử đã đạp vỡ ngưỡng cửa rồi, ánh mắt nàng ấy cực cao, nhân vật tầm thường không lọt vào mắt xanh của nàng ấy nổi đâu, trong ngõ nhỏ bên cạnh có một vị Viên ngoại lang lục phẩm, con trai nhỏ trong nhà coi trọng nàng ấy, cứ muốn cưới nàng ấy mà người còn chưa gả đâu, mãi cho đến gần đây…”
Tạ Khâm nghe đến đây, trái tim rơi lộp bộp: “Gần đây làm sao?”
Đúng lúc này, bà chủ đột nhiên chỉ vào cửa hàng đối diện nói:
“Mau nhìn xem, Thẩm nương tử dọn quán rồi.”
Tạ Khâm ngước mắt nhìn sang, một bóng dáng trắng như tuyết bước ra khỏi mái hiên, nàng vừa xuất hiện, xung quanh có không ít người chào hỏi nàng, có người thò đầu ra khỏi cửa, có người ló ra từ chiếc thuyền ô bồng [2], còn có người vui vẻ nhảy đến kéo tay nàng đưa nàng vào trong con hẻm nhỏ phía sau.
[2] Thuyền ô bồng (乌篷船): là một loại công cụ giao thông đặc biệt của vùng sông nước Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, vì mui thuyền được sơn đen nên có tên gọi như thế.
Tạ Khâm đi qua theo.
Nắng chiều rực rỡ, bóng người thon dài uyển chuyển kia in dấu trên con đường lát gạch, đầy màu sắc sặc sỡ như ánh nắng, chưa bao giờ phai màu, Tạ Khâm giẫm lên chiếc bóng của nàng, đi theo nàng đến trước cửa một căn nhà.
Ngồi xổm trước cổng là hai con hổ đá ngốc nghếch đáng yêu, có một bà lão cầm giỏ thức ăn ngồi trên con hổ đá nhặt rau, nhìn thấy Thẩm Dao và Bích Vân quay về thì chào hỏi như thường, ánh mắt không biết thế nào lại rơi trên người Tạ Khâm, bà hỏi Thẩm Dao:
“Tứ Tứ à, đó là ai vậy? Đã đi theo con cả đoạn đường rồi.”
Thẩm Dao ngoái đầu thì nhìn thấy một đôi mắt sâu thẳm u ám.
Ba năm không gặp, thời gian tràn khắp khuôn mặt chàng, khuôn mặt chàng thâm thúy, mặt mũi sâu sắc mà bén nhọn, chàng vẫn khôi ngô tuấn tú đến mức không dính khói lửa trần gian, trước khi đến, Tạ Khâm bị ma xui quỷ khiến thế nào mà cố ý sửa soạn một phen, rũ đi sự tang thương do bão cát sa mạc để lại, cố gắng hết sức duy trì diện mạo lúc ban đầu.
Nhưng bóng hình này càng ngày càng xa vời trong trí nhớ của Thẩm Dao, xa đến mức nàng nhất thời không nhớ được chàng là ai.
Hồi lâu sau, tiếng gọi Tứ Tứ khàn khàn của Tạ Khâm đã khiến nàng lấy lại tinh thần, kinh ngạc cười một tiếng:
“Tạ đại nhân? Thật sự là ngài à?”
Rất ngạc nhiên cũng tràn đầy vui vẻ.
Nhưng sự vui vẻ này lại để lộ phần lạnh nhạt và khách sáo.
Trái tim sục sôi của Tạ Khâm co rút lại, chàng đứng sững sờ ở đó.
Quá khứ trước kia cuồn cuộn tuôn trào theo tiếng gọi “Tứ Tứ” này, Thẩm Dao nhìn Tạ Khâm với tâm trạng phức tạp, hai người nhìn nhau không nói gì.
Mấy năm nay nàng sống rất tốt, dần dần, sự oán trách đối với Tạ Khâm cũng phai nhạt, thậm chí còn biết ơn chàng, cảm ơn chàng đã cho nàng tự do, khiến nàng tìm được vùng trời thuộc về mình, vùng trời vui vẻ sung sướng.
“Đến vừa đúng lúc, ta có món đồ đưa cho ngài, mau vào đi.”
Thẩm Dao không giới thiệu thân phận của Tạ Khâm, Bích Vân cũng không dám hỏi.
Đón chàng vào căn nhà không rộng lớn nhưng lại ấm áp, Thẩm Dao ra hiệu cho Tạ Khâm ngồi, Bích Vân lập tức dâng trà, Thẩm Dao nhìn thoáng qua nước trà kia rồi cười nói: “Đổi sang Bích Loa Xuân đi.”
Bích Vân chỉ có thể một lần nữa đi pha trà.
Để lại Thẩm Dao và Tạ Khâm ngồi đối diện nhau.
Từ lúc gặp lại, ánh mắt Tạ Khâm chưa từng rời khỏi Thẩm Dao, mang theo sự mừng rỡ thấp thỏm lại cẩn thận.
Năm tháng chưa từng để lại dấu vết trên người Thẩm Dao, chàng trải qua gian nan vất vả, nàng lại không có chuyện gì, thậm chí sắc mặt càng thêm tốt, vẻ phong lưu trên khuôn mặt không giảm, quyến rũ đa tình.
Vừa nhìn là biết đây chính là một cô nương sống rất tốt và vui vẻ.
Thẩm Dao cũng phát hiện ra Tạ Khâm trở nên hơi khác, trước kia mặc dù chàng lạnh lùng nhưng dù gì cũng là người sống, bây giờ cả người đều lạnh lẽo cứng rắn, trong mắt u ám không có ánh sáng, cho dù là ai gặp chàng thì cũng sẽ sinh ra sự sợ hãi.
Người đàn ông bò lên từ trong núi thây biển lửa, một mình gánh vác toàn bộ giang sơn xã tắc.
Làm khó cho chàng rồi.
Thẩm Dao tìm một chiếc hộp gấm từ phòng trong đưa cho Tạ Khâm:
“Cảm ơn ngài năm đó đã giúp đỡ ta mười ngàn lượng, bây giờ trả hết lại cho ngài, ở đây còn có mười ngàn lượng tiền lời, coi như là tấm lòng của ta, ta biết ngài không để ý, nhưng ta không muốn nợ ân tình của ai, như vậy thì hai chúng ta thanh toán xong, không ai nợ ai cả.”
Lời này giống như một chậu nước lạnh, hoàn toàn dập tắt sự vui sướng khi gặp lại.
Tia sáng duy nhất trong mắt Tạ Khâm lập tức trở nên ảm đạm.
Ánh mắt chàng cuối cùng chuyển sang chiếc hộp gấm kia, không lên tiếng.
Lúc trước người đề nghị hòa ly là chàng, chàng không còn gì để nói.
Thẩm Dao không phân biệt rõ được sắc mặt của chàng, cười hỏi: “Ở biên quan có ổn không? Không bị thương chứ?”
Tựa như quan tâm bạn cũ, giọng điệu qua loa bình thường.
Đầu óc Tạ Khâm giống như bị rỉ sét, chậm rãi lấy lại tinh thần, sự chua chát dâng lên đáy mắt, chàng đáp một tiếng: “Không bị thương.”
Vết thương chắc chắn là có, không trí mạng thôi.
Thẩm Dao yên tâm.
“Vậy là tốt rồi.”
Sau đó nàng cười một cái, không nói thêm lời thừa thãi nữa.
Nàng không nói lời nào, Tạ Khâm càng không biết nên nói gì.
Chốc lát sau, Bích Vân đưa trà bánh đến, Thẩm Dao khách sáo bảo chàng ăn một chút lót dạ, Tạ Khâm uống một ngụm trà.
Thẩm Dao khoanh hai tay dựa vào ghế bành, nét mặt ôn hòa.
Tạ Khâm đã biết nàng đang đuổi người.
Nhưng chàng không muốn rời khỏi, cố gắng tìm chủ đề nói chuyện:
“Nàng thì sao, ba năm nay có tốt không?”
Thẩm Dao cười một tiếng, vén tóc mai ra sau tai: “Tốt lắm, cầm bạc của ngài mở một cửa hàng đậu hũ, bây giờ tiếng tăm ngày càng vang xa, không lo ăn lo mặc, cái gì cũng tốt.”
Cổ họng Tạ Khâm vô cùng khó chịu, một lúc sau chàng hỏi: “Vẫn một mình sao?” Hỏi xong, ngón tay thon dài chống lên quai chén trà không dám di chuyển.
Đôi mắt Thẩm Dao hiện ra vẻ phong lưu đầy hàm ý không nói rõ được:
“Bên cạnh có một người hợp ý, cả đời sẽ sống yên ổn với nhau cho qua ngày.”
Trái tim Tạ Khâm hẫng một nhịp, đầu ngón tay trượt xuống theo quai cầm chén trà: “Ai vậy?”
Thẩm Dao nhắc tới người đó là trên mặt lộ vẻ ngượng ngùng, hai tay quấn lấy tóc mai rũ xuống, giải thích:
“Huynh ấy họ Lâm, buôn bán, việc làm ăn từ Nam chí Bắc huynh ấy đều làm, bọn ta quen biết được ba năm rồi, huynh ấy đã từng cầu hôn, lúc đó ta bận mở cửa hàng, không nghĩ đến việc xuất giá, ba năm nay cửa hàng ổn định, Triển Nhi cũng thúc giục ta quyết định, nửa năm trước ta gặp phải kẻ xấu, huynh ấy liều mình cứu ta, ta nghĩ đời này chỉ nhận định người như vậy thôi, ngày ngài chiến thắng trở về, huynh ấy đi Tây Bắc về, hôm qua vừa phát kẹo mừng cho hàng xóm gần đây, tháng sau sẽ thành thân.”
Tạ Khâm im lặng lắng nghe, cứng đờ người uống từng ngụm trà, một lúc lâu sau mới ồ một tiếng.
Ý thức được phản ứng của mình vô cùng lạnh lùng, chàng bèn cong khóe môi nói:
“Chúc mừng.”
“Cảm ơn ngài.” Thẩm Dao nói ra lời từ tận đáy lòng.
Tạ Khâm không biết mình làm thế nào để ra ngoài, lần theo ký ức của cơ thể quay về đầu hẻm Cửu Dương, dắt ngựa của mình, xoay người leo lên đi về.
Đoạn đường này, chàng cũng không về phủ mà trở lại hoàng cung.
Khu làm việc đèn đuốc sáng trưng, chàng ngồi trong phòng người đến người đi mới tìm được chút cảm giác.
Quan viên dưới quyền nhìn thấy sắc mặt chàng không tốt lắm: “Tạ đại nhân, sắc mặt ngài hơi tái, có phải là không thoải mái không?”
Tạ Khâm đặt tay lên bàn, gian nan nhìn hắn: “Hình như ta có chút không thoải mái.”
Quan viên dưới quyền lập tức đi mời thái y.
Chưởng viện của Thái y viện đang sắp ra khỏi nơi làm việc về phủ, nghe người ta bẩm báo nói Tạ Khâm không thoải mái, không nói hai lời mà một lần nữa mặc vào quan phục trong tay, cầm hòm thuốc lên rồi vô cùng lo lắng chạy đến Lại bộ.
Đầu tiên là thỉnh an, ngồi đối diện Tạ Khâm hỏi:
“Thủ phụ, ngài không thoải mái chỗ nào?”
Tạ Khâm vô hồn nhìn ông ấy, chỉ vào lồng ngực mình: “Ở đây không thoải mái, vừa buồn bực vừa căng trướng, tức ngực lắm…”
Nhưng rõ ràng là bên trong đó chẳng có gì cả, trống rỗng thì làm sao lại nghèn nghẹn như vậy.
“Thậm chí còn có loại cảm giác chua xót tê dại.”
Đôi mắt Tạ Khâm nhìn Thái y một cách trống rỗng, miêu tả cảm giác của mình một cách rõ ràng chính xác.
Thái y nghe nói như thế thì sắc mặt vô cùng nghiêm túc, lập tức bắt mạch cho chàng.
Nhưng bắt một hồi lâu, thật sự không phát hiện ra cơ thể chàng có vấn đề ở đâu:
“Tạ… Tạ đại nhân, ngài chắc chắn là cơ thể không thoải mái chứ?”
Thái y thấp thỏm nói:
“Có khi nào trong lòng không thoải mái không?”
*
Tạ Khâm chật vật quay về phủ.
Vòng qua con đường đá, đi qua cửa trong, vào đến trong sân của Cố Ngâm Đường.
Bốn phía yên tĩnh.
Sân nhỏ quen thuộc tựa như đã dãi gió dầm mưa, phủ bụi trong giấc mộng xưa cũ.
Từ khi về Kinh thành, chàng càng ngày càng lặng lẽ ít nói, mỗi một người đến chào, không ai là không nở nụ cười rạng rỡ, cung kính lấy lòng, thậm chí còn cẩn thận phỏng đoán tâm tư của chàng, chàng sinh lòng chán ghét.
Khi đứng ở trên đỉnh của điện Phụng Thiên, nhìn tất cả cung điện lầu các trải đầy dưới chân, chàng không hề cảm thấy vui vẻ, chỉ có sự buồn tẻ và trống trải vô biên vô tận.
Chàng mãi không rõ vì sao trong lòng không thoải mái, mãi đến giờ phút này đứng trong Cố Ngâm Đường vắng vẻ, ngũ tạng trống không, xung quanh mịt mù, loại cảm giác hiu quạnh đến cực hạn đó nhấn chìm chàng.
Lý tưởng triều đình đã chống đỡ chàng bao năm qua đã được thực hiện, bốn biển thái bình, trời yên biển lặng, chàng làm một vị tướng công thành được lưu danh muôn đời.
Chàng đã trở thành một người cô đơn.
Đâu đó trong trái tim có một cái động không đáy, càng giống như một lỗ thủng bị đào rỗng.
Chàng rất muốn dùng cái gì đó để lấp vào, theo bản năng đi vào Cố Ngâm Đường, đi vào hậu viện đã từng tràn đầy tiếng cười nói này, sự dịu dàng mềm mại mà chàng từng không để vào mắt, nhưng sau khi mất đi lại là thứ an ủi chàng trong vô số đêm tối ở biên cương.
Chàng theo bản năng ngóng trông nơi này có một ngọn đèn, nhàn nhạt chiếu sáng đường về.
Vô thức chờ mong một khuôn mặt xinh đẹp hoạt bát, lơ đãng đẩy cửa sổ nhỏ ra nhìn chàng một cách quyến rũ.
Đáng tiếc là không có.