Rồi Tư Ngôn Tang làm động tác so ngang với môi dưới, khoa tay múa chân cười bảo: “Cao hơn nhiều rồi.”
Nói rồi anh cúi người nhìn cô, bất chợt dịch lại gần. Làn mi cô run lên, nhưng vẫn bình tĩnh để mặc anh nhìn; chỉ là giơ giá cắm nến cách xa ra, tránh làm cháy tóc anh.
“Cũng thay đổi nhiều rồi.” Một lúc sau, anh đột nhiên kết luận. Không biết là ám chỉ gương mặt cô hay là vì ánh mắt lạnh lùng của cô, “Đến mức suýt nhận không ra.”
“Thì cũng hai năm rồi mà. Sao anh vẫn không thay đổi gì thế.”
“Em không nhìn anh thì làm sao biết được anh có thay đổi hay không?”
Cô giơ cao giá cắm nến, quơ quơ trước mặt anh, nói: “Thì giờ nhìn, đúng thật là vẫn giống trước kia.”
Ngôn Tang bật cười, đưa tay toan nhéo mũi cô. Nhưng cô đã nhanh chóng lùi về sau một bước.
Tay anh cứng đờ giữa không trung. Thấy bảo vệ như con chuột đang tò mò quan sát từ trong bóng tối, đôi mắt bé tí sáng quắc.
Anh đành cười khan hai tiếng, chắp tay ra sau lưng.
“Sao trễ rồi mà anh còn tới đây?”
“Vừa cập bến là anh đã muốn đi tìm em ngay, nhưng vì có chuyện đột xuất nên giờ mới tới được.”
“Tới đây bằng gì vậy?”
Anh cười nói, “Còn thế nào nữa? Thì đi thôi.”
“… Đã muộn lắm rồi. Đây là Thượng Hải, luật pháp chỉ là bình phong, không phải Oxford xem trọng nhân tình.”
Anh híp mắt nhìn cô: “Sao em biết ở Oxford xem trọng nhân tình?”
“…” Cô im lặng, phát hiện mình đã lỡ lời, “Đọc trong sách.”
“Vì sao lại tìm hiểu về Oxford như vậy?” Trong mắt anh dần đong đầy ý cười.
Cô thở dài, “Bác Tư không cho anh đến tìm em đúng không?”
“Người ngày trước bảo anh cưới em cũng là ông ấy.”
“Chắc bác ấy có chỗ khó của mình, anh cũng nên thông cảm. Nếu biết anh không màng an nguy nửa đêm lén chạy ra ngoài, khéo bác lại trách tội em mất.”
Anh im lặng một lúc rồi gật đầu, “Là anh lỗ mãng. Lần này anh về không phải muốn làm khó em.”
Thấy anh có vẻ còn muốn nói, dừng một lúc rồi cô bảo: “Có lẽ anh Tạ cũng sắp đi rồi. Để em bảo anh ấy tiễn anh.”
Anh nhìn lên cầu thang chìm trong bóng tối, sửng sốt hỏi: “Anh ta… anh ta ở chung với em?”
Cô đáp: “Anh ấy là cảnh sát tuần tra ở tô giới, em lại ở Thượng Hải một mình nên cô út nhờ anh ấy chăm sóc em.”
Anh gật đầu, “Ừ.”
“Có nhiều người, chỉ vì giữa nam nữ hơi tiếp xúc thân mật là lại dèm pha với cái tưởng tượng bẩn thỉu của mình, gây nên hiểu lầm.”
Anh đột nhiên lúng túng: “Anh không có. Anh luôn tin tưởng em mà. Chỉ cần em giải thích thì anh sẽ tin em vô điều kiện.”
“Em không nói anh.” Cô nhìn bảo vệ mặt đỏ tía tai bên kia, nói: “Nhưng nếu em nói dối thì sao? Anh sẽ hiểu cho em chứ?”
“Em là người cực kỳ quan trọng trong sinh mệnh của anh. Cha, em trai, mẹ ruột… Thậm chí cha anh cũng nói, sau này nếu kết hôn, em còn quan trọng với anh hơn cả ông ấy. Không có gì quan trọng bằng.” Anh sốt ruột bộc bạch, có phần hốt hoảng, “Em hiểu không?”
“Anh coi trọng em đến thế, nếu em không xứng được như vậy thì sao? Em không hiểu anh, làm cản trở anh, thanh danh vấy bẩn khiến anh khó chịu, thật sự không xứng với sự tin tưởng của anh; liên tục chạm đến ranh giới cuối cùng của anh, không để ý đến cảm nhận của anh, như vậy anh sẽ làm gì em đây?”
Anh luống cuống, “Không phải anh nên chấp nhận toàn bộ của em sao?”
Cô nói: “Nhưng em là ai? Nếu không có hôn ước, giữa hai ta cũng chỉ có tình cảm anh em mà thôi, thậm chí mỗi người sẽ có cuộc sống của riêng mình, không nói chuyện với nhau mấy câu. Nhiều năm qua, những thứ chung giữa hai chúng ta cũng chỉ có mấy bức thư. Trên đời này còn có nhiều người có giao tình sâu đậm với anh, em có tài cán gì lại đáng để anh tin tưởng như vậy?”
“Nhưng…” Ngôn Tang có vẻ khó tin, “Em chính là em mà, từ năm mười lăm tuổi, em chính là người anh muốn nắm tay suốt đời.”
“Vậy anh có hiểu em không? Nếu em thật sự giống như người ta đồn đại, có chuyện mờ ám với người khác, nhưng bây giờ em đang lừa dối anh. Anh định xử như thế nào đây?” Nói đến đoạn kích động, môi cô trở nên khô khốc. Khẽ nhấp môi, cô nói, “Anh Tư, xin anh hãy nghĩ thật kỹ.”
Thấy anh im lặng đứng tại chỗ, cô nói tiếp, “Anh về đi.”
Anh ngơ ngác gật đầu, thần hồn lạc phách xoay người rời đi.
Nhìn theo bóng lưng ấy, bỗng dưng cô cảm thấy không đành lòng, bèn bước lên hai bước gọi anh lại, “Anh Tư.”
Anh ngoái đầu nhìn cô.
Lời đến bên môi, nhưng cuối cùng chỉ có thể nói, “Hôm nay muộn rồi. Nếu lần sau anh đến vào buổi sáng, nhất định em sẽ mời anh vào nhà chơi.”
Anh gượng cười, gật đầu rồi xoay người bước đi.
Cô nhìn theo bóng lưng dần khuất một lúc lâu.
Anh vẫn không thay đổi, vẫn là chàng trai của ngày trước.
Nhưng cô đã đọc hết cuộc đời của anh. Một chàng trai niềm nở đầy sức sống, đắc chí hăng hái, cho rằng một người đến chết sẽ không bao giờ thay đổi; có vô số người sẵn lòng sống chết vì anh, nhưng không ai hiểu anh, anh lẻ loi cô độc, chỉ mong có người thấu hiểu; để rồi thoái chí chán nản, trở nên điên dại; hết khóc lại cười…
Cuối cùng, anh đã tự sát trên đường ray trong một đêm tuyết ở Siberia.
Ra đi.
Mà nay anh vẫn mỉm cười, là chàng trai niềm nở đầy sức sống.
Vẫn còn kịp.
***
Cầm nến đi lên cầu thang, gió lớn ùa vào làm ngọn lửa tắt phụt. Đứng ở tầng hai cũng có thể cảm nhận được ngọn nến được thắp, ngẩng đầu nhìn lên, ở tầng ba vẫn mở rộng cửa, ánh sáng từ ngọn đèn dầu trong phòng hắt ra chiếu xuống bên dưới; cũng nhờ thế nên cô có thể dễ dàng đi lên cầu thang.
Gần đến tầng ba, cô thấy Tạ Trạch Ích đứng trước cửa, tay cầm ngọn đèn dầu.
Cô nói: “Cám ơn anh.”
Tạ Trạch Ích đáp: “Không có gì, chỉ là lúc ở một mình tôi sợ tối nên mới thắp đèn, chứ không phải vì em.”
Tuy đã chối bỏ trách nhưng, nhưng nói thế, đến khi vào phòng thì cô lại áy náy. Phòng đã được dọn dẹp ngăn nắp, không khác gì lúc anh đi.
Cứ tưởng Tạ Trạch Ích sẽ hỏi chuyện ban nãy, không ngờ anh lại chẳng nói gì. Đợi cô vào phòng thì đóng cửa lại rồi rời đi. Nhưng cô bất giác đưa tay ngăn cửa, hai người một trong một ngoài cách nhau một khe cửa đủ một người lách qua, cùng ngẩn người.
Tạ Trạch Ích nói: “Sao thế?”
Sao anh lại tốt đến vậy?
Thật ra cô rất muốn hỏi câu đó, nhưng rồi cảm thấy, hỏi như vậy không khác gì những cô gái trẻ ỷ có chút sắc đẹp đã lên mặt. Có vẻ anh có hảo cảm với cô, cô có thể cảm nhận được; có lẽ cũng bởi vì bà Cát nhờ vả nên mới đặc biệt để ý, nhưng lại tốt quá rồi.
Vô công bất thụ lộc. Nếu cô cứ hưởng mãi thì không quá chân thật.
Nhưng có thể hồi báo gì đây? Dường như anh chẳng thiếu gì.
Nghĩ đến đây, cách khe cửa, cô cứ thế ngơ ngác nhìn Tạ Trạch Ích.
Trong phòng lay lắt tia sáng, trong tay anh cũng có ngọn đèn dầu. Cô ngẩng đầu lên, con ngươi phản chiếu hình bóng anh, ánh mắt có phần mông lung. Nếu không phải sớm biết cô thường xuyên thất thần, thì khéo anh đã tưởng cô muốn hôn anh.
Anh cố kìm nén, bàn tay siết chặt đè lên khung cửa.
Ngoài mặt vẫn cười nhạt bảo: “Có một việc nữa, muốn nghe không?”
“Là gì?” Hai mắt sáng lên.
“Sợ em.”
Cô suy nghĩ, đột nhiên phát hiện anh đang thay đổi cách mắng cô là chó, lập tức muốn nhấc chân đạp anh một phát. Nhưng Tạ Trạch Ích đã nhanh tay hơn, vội khép cửa lại. Chân cô đá vào cửa, *rầm* một tiếng, đau đến mức phải gập người.
Cách một cánh cửa, cô có thể nghe thấy Tạ Trạch Ích đang cười ở bên ngoài.
Cười được một hồi, dường như vì áy náy nên thấp giọng hỏi: “Có đau không?”
Cô tức giận: “Anh cứ thử đi!”
Bên kia lại bật cười. Chợt tiếng gõ cửa vang lên, anh nói, “Nhớ khóa kỹ cửa đấy.”
Cô đáp, “Biết rồi.”
Cô lại đứng đợi một lúc, nhưng bên ngoài không còn động tĩnh nào khác.
Tạ Trạch Ích xuống lầu, ngồi vào xe, bàn tay nắm vô-lăng đổ đầy mồ hôi. Bóng tối ở đường Ferguson dễ dàng khiến con người mất đi khả năng tự chủ, lúc nhìn vào ánh mắt sáng bừng ấy, anh suýt đã mất kiểm soát muốn kéo cô ra khỏi phòng, đè lên cửa hôn ngấu nghiến.
Sao có thể không sợ cô chứ?
Ở trước mặt cô, anh không biết thì ra mình lại là kẻ háo sắc đến vậy.
***
Tuy cô đã mời Ngôn Tang “ban ngày hôm khác lại đến”, nhưng cô cũng không có cơ hội ở nhà vào buổi sáng.
Tuy nồi hơi của viện nghiên cứu được chế tạo và thiết kế cùng một lúc, nhưng đến thời điểm này, về cơ bản xác lò đã được xác định: đường kính cuối cùng là 26 feet nên thanh cadmium điều khiển phản ứng dài 26 feet. Hình dạng cuối cùng là một hình cầu với đỉnh hình dẹt, nặng 1.400 tấn, tổng cộng 52 tấn uranium kim loại và uranium oxide, cộng thêm 57 lớp than chì và các khối uranium chồng lên nhau.
Lúc hoàn thành xây dựng thì vừa khéo tròn năm tuần, là ngày 27 tháng 3.
Sau khi Minh Trị đổi mới, Nhật Bản chịu ảnh hưởng nặng nề của châu Âu, do đó bọn họ có ý thức rất mạnh về nghi thức cho các sự kiện trọng đại. Vì vậy nên tuy nồi hơi đã hoàn thành, nhưng nghi thức khởi động chính xác được tổ chức và năm ngày sau, lúc 9 giờ sáng ngày 1 tháng 4.
Chính vì thế mà người Nhật đã chuẩn bị một bữa tối hoành tráng vào tối ngày 1 tháng 4, treo biểu ngữ là “Hợp tác nghiên cứu khoa học ba nước hảo hữu Nhật-Trung-Anh”, mời nhiều người nổi tiếng ở trong và ngoài tô giới đến, bao gồm các học giả, truyền thông và quân đội.
Lần nữa kiểm tra hết các số liệu của hạng mục “nồi hơi”, Sở Vọng chẳng buồn ngẩng đầu, nói với Sakuma Ichiro đến chúc mừng: “Có quá nhiều tính không xác định trong thí nghiệm, chưa chắc sáng thứ sáu đã có thể thành công. Nếu thất bại thì ai còn tâm trạng tham dự tiệc tùng nữa?”
Sakuma Ichiro nhướn mày, “Hết thứ sáu này là vừa tròn kỳ hạn sáu tuần. Người lúc đầu thề thốt nói nhất định sẽ hoàn thành trong sáu tuần cũng không phải là tôi.”
Sở Vọng cũng nhướn mày, liếc xéo hắn ta.
“Thỏa thuận Nhật Bản rút khỏi tô giới và hội đồng khu đã được ký. Nếu không thành công, cô muốn tạ tội với tổ quốc của cô thế nào đây?”
“Các người vừa không tin tôi lại vừa quá tin tôi. Cứ như thể nhất định sẽ thành công vào tuần này vậy. Từ lúc xây xong là hôm nay cho đến giữa thứ sáu, không cho tôi cơ hội để chạy thử hay điều chỉnh. Rốt cuộc các người tự tin vào điều gì?”
Nụ cười của Sakuma Ichiro dần biến mất. Nhưng một lúc sau, hắn đã lại bật cười.
Nhật Bản sẽ không dễ dàng từ bỏ mảnh đất Trung Quốc này.
Nếu cô thất bại, bọn họ càng có lý do để giết con tin, cô sớm biết rõ điều đó.
Mặc dù là thí nghiệm mang tính tượng trưng chỉ kéo dài năm tuần, nhưng trong lòng cô đã có sẵn câu trả lời tiêu chuẩn. Đáp án ấy đã được thực hiện thành công và không hề có lỗi.
Nhưng khi cô đứng trên đỉnh chóp của nồi hơi, cô bất chợt ý thức được vấn đề này liên quan đến sự an toàn của đất nước và mạng sống của vô số người, nếu có một lỗi nhỏ, thì dù có chết cũng không thể bù đắp nổi.
Khi những nghiên cứu viên khác rời đi, cô vẫn ngồi trên đỉnh thí nghiệm, xem xét bản nháp các tính toán, hòng đảm bảo không có bất cứ bất trắc nào xảy ra.
Ngày 27 tháng 3 là ngày có tầm quan trọng rất lớn đối với cô. Suốt đời này cô sẽ nhớ mãi việc xây dựng lò phản ứng chậm ở Thượng Hải, cùng với lần đầu tiên thử vận hành vào năm ngày sau.
Chính vì chuyện này đang nằm trước mắt nên cô không nhớ được mấy tháng trước, từng có người nói với cô rằng, vào ngày 27 tháng 3 sẽ có một con tàu du lịch đến từ Pháp chậm rãi cập bến sông Hoàng Phố.
***
Nghe nói Tư đại công tử mới từ châu Âu về Thượng Hải, thư mời từ các tòa soạn Bắc Bình và Thượng Hải được gửi đến nhà họ Tư nhiều như tuyết rơi, thư còn nhiều hơn cả của Tư Ưng.
Bà Tư cười nói: “Đúng là Trường Giang sóng sau xô sóng trước ông à.”
Tư Ưng cười lạnh, “Bà không đọc báo thấy bên ngoài khích bác nó thế nào à. Trong hộp thư ngoài nhà, có mười bức thì cũng hết bảy tám bức nói nó ‘thổ địa nước ngoài không nuôi dưỡng dược văn nhân Trung Quốc’.”
Bà Tư nói: “Tôi có thấy rồi. Nhưng không phải sau khi đọc xong, cậu ấy đã phát biểu bài văn ngôn “Địa phủ chúng sinh” đầy thâm sâu châm chọc lũ người thích giảng đạo đó sao?”
“Còn có người nói nó ‘nay non sông suy đồi, tri thức nên dùng chữ khuyên người hối cải chứ không nên vì tư lợi bản thân, viết ra những cuốn tiểu thuyết thương mại mang tính giải trí như thế này’.”
Bà Tư tìm được một bài trong số tạp chí mình sưu tầm, mỉm cười đưa cho Tư Ưng: “Ông xem đây là cái gì?”
Tư Ưng định thần nhìn lại, thì ra là bài văn hùng hồn mà con trai ông dùng tiếng Anh viết để châm biếm đám quân phiệt hại nước hại dân. Tiêu đề bài viết là: Tư Ngôn Tang ở Bắc Bình năm 1924.
Lúc ấy, thằng bé chỉ mới mười lăm tuổi.
Tuy Tư Ưng thường cố ra vẻ nghiêm túc dạy con, nhưng thấy con trai có tiền đồ như vậy, khóe môi không kìm được cong lên.
Bà Tư nhanh chóng nói: “Con trai cũng đã lớn rồi, có suy nghĩ chủ trương của mình. Nếu nó thích viết văn thì hay mình cứ tùy nó đi?”
Tư Ưng thôi cười: “Cũng chỉ là mới học viết được mấy chứ, có tiền đồ cái gì!” Dứt lời lại cầm lấy một bức thư đưa cho bà Tư: “Cả “Ngữ Ti” lẫn “Nhân Vật Hiện đại” đều là tạp chí biên tập dẫn đầu chỉ trích nó. Nay thư gửi đến mời nó đến Thượng Hải tham gia ‘hội liên hoan’ ở khách sạn lớn. Nếu nó đi, chắc chắn đó sẽ là Hồng Môn yến. Nhưng nếu không đi, sau này nếu dựa vào nghiệp văn thì đừng hòng mơ có địa vị ở Trung Quốc. Nếu nó đã là con trai tôi thì cứ mặc nó, nhà ta cũng không đến nỗi không nuôi nổi một miệng cơm. Nhưng hai nhà Tư Lâm còn có ước hẹn đó, nó không chỉ là con trai của một mình tôi, nó còn có thể là tấm chồng mà con gái bảo bối nhà họ Lâm dựa dẫm. Dù hôm nay anh Lâm nghĩ thế nào, thì tôi cũng phải có giao phó với nhà họ.”
Bà Tư lấy làm ngạc nhiên: “Không phải đã đăng báo hủy hôn rồi sao?”
“Nhà họ Tư không thể mất nhà họ Lâm, nhà họ Lâm cũng không thể mất nhà họ Tư. Hôn ước chỉ là lý do, tuy đã bỏ hôn ước với con bé ba, nhưng theo tôi thấy, có lẽ anh Lâm có ý định khác.”
Bà Tư khó chịu: “Không lẽ Lâm lão gia muốn…”
“Nhiều năm trước trên đường đến Thiệu Hưng, tuy tôi thấy ông ấy có vẻ thương con bé ba còn trẻ, nhưng kỳ thực lại cố ý muốn hứa gả con hai cho Ngôn Tang. Đăng báo hủy hôn, không biết ẩn tình trong này có liên quan gì đến điều đó không.”
Hai mắt bà Tư sáng lên: “Bao giờ thì thuyền nhà họ Lâm sẽ đến Thượng Hải?”
“Hôm nay.”
“Vậy có thể để tôi tự chủ trương gửi một bức thư, mời cả cô ba lẫn cô hai cùng đến Thượng Hải trong ngày tham dự ‘tiệc liên hoan’ có được không? Chọn một chỗ bên cạnh, cùng xem xem Hồng Môn yến một lần?”
Tư Ưng nhìn vợ một lúc lâu, có vẻ vẫn chưa hiểu lắm.
“Nếu Ngôn Tang có thể tự củng cố được địa vị cho mình thì cứ để con nó theo văn, và ông cũng phải hứa với tôi là từ nay không được can thiệp vào chuyện của nó nữa. Nếu đến lần này nó cũng không đảm đương nổi thì cứ để thấy cảnh nó thoái chí, có lẽ có thể biết Ngôn Tang không phải là bạn đời thích hợp. Nếu nó sẵn sàng bỏ xã hội theo tự nhiên vì ai đó, thì ấy cũng là chủ ý của nó; nếu nó vẫn cố chấp theo ý mình, biết đâu vẫn có người chịu đồng cam cộng khổ bầu bạn cùng nó trong quãng đời còn lại. Có lẽ hôn ước hai nhà Tư Lâm đến đây là hết, lòng người nào người nấy rõ, không cần phải mang nhiều gánh nặng hay oán hận.”
Hai mắt Tư Ưng sáng rực, rất tán thưởng trước ý kiến này, lập tức gật đầu bảo được, cầm giấy bút đến viết một bức thư rồi cho người gửi sang nhà họ Lâm bên cạnh.
***
Một chiếc xe Buick chạy theo sau mấy chiếc xe chở hành lý, chậm rãi tiến vào tô giới công cộng, dừng lại trước cửa biệt thự nhà họ Lâm.
Chủ nhân đã rời đi hai năm, căn nhà để không, gia cho lão quản gia đón từ Thiệu Hưng lên trông nom.
Cửa xe Buick mở ra, Lâm Du bước xuống từ vị trí ghế phụ. Ngày trước ông ta thích mặc quái bào Trung Hoa vì từng du học Nhật Bản. phái du học Nhật năm xưa về nước đa số đều làm quan, nên bọn họ cũng xưng là “phái quan liêu”. Các ông lớn sĩ đồ thông thuận trong phái đều thích các kiểu quái bào bằng gấm như thế, có lẽ vì mặc vào thì có thể đem lại điềm lành.
Mà nay đi châu Âu mấy năm, có người vợ mến yêu chăm sóc cuộc sống cho ông ta, hằng ngày đều là ủi sơ mi âu phục, từ đó ông ta cũng bắt đầu học người đến Âu Mỹ mặc âu phục thắt cà vạt vô cùng phóng khoáng, thế là ném hẳn bộ quái bào ra sau đầu.
Nước ở châu Âu không tốt, uống hai năm nên đầu tóc có xu hướng hói dần, đỉnh đầu nhọn hoắt trông chẳng khác gì chuột. Trước đây ông ta khá gầy, nhưng nay có lẽ vì ăn nhiều thịt bò nên đã biến thành chuột béo má hồng.
Ông ta không hài lòng lắm về diện mạo bây giờ của mình, nhưng không ngăn được vợ ông ta nói: “Tướng mặt chuột là tướng chủ quý đấy.” Câu này nghe đúng là quá xuôi tai. Mỗi lần soi gương, ông ta càng lúc càng thích tướng tá của mình, như thể cảm nhận được bản thân thật sự “quý”.
Ông ta mỉm cười, cực kỳ ga-lăng mở cửa sau ra. Một cô gái cử chỉ tao nhã, mặt mũi xinh xắn bước ra. Đã lâu rồi không đặt chân lên mảnh đất tổ quốc, cô ta thấy mặt đất nhầy nhụa vì mưa dầm dề mà ai oán: “Người trong nước đúng là chả chú trọng vệ sinh tí nào.”
Cô ta cẩn thận xách vạt áo, cẩn thận tìm một chỗ sạch sẽ để đặt chân. Cô ta nôn mửa trên thuyền nhiều ngày liên tiếp, có vẻ gầy và xanh xao hơn so với lúc ở châu Âu. Có điều dạo này cô ta đang giảm cân nên đây chính là kết quả cô ta mong muốn, cho nên còn có vẻ đắc chí khi bản thân gầy gò tái nhợt.
Lúc cha mở cửa xe bên kia đón vợ yêu xuống, Doãn Yên trông thấy quản gia đang cầm hai bức thư. Được cha cho phép, cô ta đi tới nhận lấy thư.
Nhanh chóng xé bức thư viết “kính gửi anh Lâm”, ký tên “Tư” ra, đọc lướt một lượt, hai mắt cô ta sáng lên, cười nói: “Mẹ! Ba*! Bà Tư mời con ngày mai đến Thượng Hải dự tiệc…”
(*Trước đây Doãn Yên gọi Lâm Du là cha, nay đổi cách gọi hiện đại là ba.)
Vị phu nhân trong xe cười nói: “Trọng điểm không phải là bà Tư mà là cậu Tư đúng không? Ở châu Âu ngày nào cũng cậu Tư cậu Tư, hai tai mẹ mọc kén rồi đây này. Giờ đã về nước, người khác có thể hiểu con nói gì đấy, đừng có như vậy nữa.”
Cô ta nháy mắt, cười cười tiếp tục mở bức thư thứ hai ra.
Nhưng vừa đọc được hai hàng thì cứng người, môi trắng bệch hét lớn: “Ba!”
Người phụ nữ kia bước ra khỏi xe, bà ta khoác áo đen bên ngoài bộ sườn xám màu xanh thẫm, bên dưới bắp chân thon thả và mắt cá chân là đôi giày cao gót nhọn hoắt, lên giọng quở mắng: “Đã bảo bao nhiêu lần rồi, là con gái thì phải nhỏ nhẹ, dù gặp chuyện gì cũng không được quá ngạc nhiên. Nhắc con mấy lần rồi hả. Sao?”
Cô ta nuốt nước bọt, đưa thư cho Lâm Du.
Lâm Du như đã có lường trước, nhưng lúc nhận thư đọc, sắc mặt không khỏi biến đổi.
Đó là một bức thư của luật sư viết cực kỳ chi tiết, truy vấn đến tận mười bảy mười tám năm, trăm phương ngàn kế muốn ông ta phải táng gia bại sản.