Những người phụ nữ sớm khuya tần tảo, những người đàn ông vất vả mưu sinh vẫn thường thấy hàng ngày. Thời bấy giờ, nghèo đói xuất hiện nơi nơi, những con người suy nghĩ lệch lạc rất dễ lầm đường lạc lối.
Tại một ổ chuột ở vị trí thứ mười đếm từ đầu ngõ hẻm vào trong, nằm ở bên tay phải. Ánh nắng bỏng rát làm cho một cậu bé ra mồ hôi đầm đìa, lúc này, cậu đang cảm thấy hừng hực như thể đang bị thiêu trong chảo dầu vậy.
Cậu bé này có thân hình gầy còm vì không đủ chất dinh dưỡng, mặc chiếc áo ba lỗ màu đỏ nhem nhuốc vết bẩn, chiếc quần xà lỏn rách rưới. Cậu bé có làn da ngăm đen, trên mặt có nhiều vết thâm đen trông thật đáng thương. Trời nắng thì cậu ngủ buông thõng cả tay và chân, nhưng khi mưa cậu phải lủi thủi ngồi ngủ ở một góc được một mảnh tôn che chắn.
Công việc hàng ngày của cậu bé là bán vé số, nhưng hiếm lắm mới có một người mua. Đã bán ế, vậy mà đôi khi đang đi trên đường thì bọn cướp giật hết cọc vé số một cách hết sức đơn giản mà không cần dùng đến vũ lực, vì quá mỏng manh nên cậu không thể chống lại bọn cướp hung bạo ấy.
Thật không may cho cậu, hôm nay chính là ngày thu tiền ổ chuột. Vừa rồi cậu lại bị cướp giật, không chỉ bà chủ tạt nước sôi không mà ả còn gọi cho đàn em tới đánh bầm dập cậu, hầu như không một ai thương tiếc cho số phận của đứa trẻ tội nghiệp này mà họ chỉ mong nó mau chết đi để không bị đối xử như thế nữa.
Không hiểu vì lý do gì mà nó vẫn cứng đầu sống tiếp mặc cho cuộc sống nghiệt ngã.
Đã ba ngày rồi mà vẫn chưa có miếng gì lót bụng nên thân hình cậu ngày càng tiều tụy đi rất nhiều. Cậu bé ôm hai đầu gối, mặt úp xuống chờ đợi cái nắng gay gắt qua mau và hy vọng sẽ có một ngày tốt đẹp đến với cậu.
Bỗng một đám người xông vào, cậu bé không còn chút sức lực kháng cự nào nữa, đành để bọn người đó nắm mái tóc xoăn thô của mình kéo lê lết ra ngoài.
Một người đàn ông trong số người đó hét lên:
- Tháng này qua tháng nọ mày không chịu trả tiền cho tao là sao hả?
Cậu bé nằm bất động không dám nhúc nhích, cậu í ới muốn nói gì đó nhưng không còn chút năng lượng nào nữa.
Bọn chúng bất lực trước thằng nhóc nợ nần dai dẳng này. Cả đám xúm lại đá huỳnh huỵch vào người cậu bé như bầy sói đang xé xác con mồi.
Ở đầu con hẻm, một vị thầy tu lững thững bước vào. Vị thầy tu chừng ba mươi lăm tuổi, thân thể cường tráng như một lực sĩ cử tạ.
Đi sâu vào con hẻm, thầy thấy những thứ đau thương trước mắt mình hiện ra, nào là người nghiện thuốc phiện, nào là mại dâm và đầy rẫy những tội lỗi khó có thể tha thứ. Thầy cảm thấy xót xa trước khung cảnh như thế.
Tới chỗ một cậu bé đang bị đánh đập dã man, thầy trừng mắt nhìn đám người bọn họ nhưng có vẻ họ không hề để tâm đến vị thầy chùa sau lưng mình mà cứ ra sức đạp lên người cậu bé.
Thầy cảm thấy tức giận, máu sôi sùng sục trước cảnh tượng khó ưa đó. Thầy phóng tới nhanh như cắt và nhảy lên thọc hai chân sang ngang, đạp thẳng vào mặt hai người đàn ông khiến họ ngả sang hai bên đối nghịch nhau, trông có vẻ đã choáng váng sau cú phi cước nặng ký đó.
Thầy nhắm mắt lại, miệng lẩm nhẩm:
- A di đà Phật!
Một người đàn ông lồm cồm bò dậy, miệng chửi tục:
- Đ.. mẹ nhà ông. Muốn chết hả?
Thầy lắc đầu quầy quậy:
- Các cậu sao lại đánh đập một cậu nhóc chỉ mới năm tuổi như thế hả?
Người đàn ông đó phì cười:
- Nó nợ chúng tôi số tiền quá lớn mà không chịu trả mấy tháng rồi.
Thầy "a di đà Phật" một tiếng rồi nói:
- Chỉ vì một thứ tiền đó mà lại đi bắt nạt một đứa trẻ mồ côi như thế thì có đáng là con người nữa không? Thôi được, hôm nay tôi phải cho các cậu một bài học. Mong Phật Tổ hãy để con thế thiên hành đạo.
Dứt câu, không biết từ lúc nào thầy đã đấm ngất một người đàn ông. Cả đám cùng nhào tới đánh hội đồng, còn thầy thì vung tay đấm vòng cầu liên tục vào mặt của đám người đó. Cú đấm nào của thầy cũng đều nặng ký và đau rát. Chỉ mới một phút, cả đám đều choáng váng ngã xuống đất.
Sau khi thấy cả đám nằm im ỉm dưới đất, thầy ẵm cậu bé trên tay rồi đem về ngôi chùa của mình.
Ngôi chùa nhỏ và xơ xác, ở đây chỉ thờ ba tượng là: Phật Thích Ca Mâu Ni, Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, và phật Di Lặc.
Thầy bế cậu bé vào nhà trong. Một căn phòng u tối, xung quanh là bốn bức tường cách âm nên không gian rất tĩnh lặng.
Thầy đặt cậu bé nằm trên cái chõng tre rồi lấy khăn và nước lau khắp người cậu.
Sau khi làm xong, thầy đi xuống bếp nấu một bát cháo trắng. Vài phút sau, thầy đem bát cháo lên và nâng đầu của cậu bé thẳng dậy, thấy cháo vẫn còn bốc khói nghi ngút, thầy vừa múc lên vừa thổi cho đỡ nóng rồi mới đút cho cậu ăn.
Cậu bé lờ đờ tỉnh dậy rồi há to miệng ngậm luôn nửa cái muỗng và ngồm ngoàm miếng cháo như thể là người sắp chết đói tới nơi.
Hành động của nó khiến thầy cảm thấy buồn cười, đồng thời cũng cảm thấy ấm lòng vì nó đã khỏe lại.
Thời gian cứ thế trôi qua, mấy chốc đã bảy năm sau. Cuối cùng, cậu bé cũng có một cái tên cho mình, đó là Châu Hoàn Cách. Cái tên do cậu bé tự đặt.
Một buổi sáng sớm, tiếng chim ríu rít hót vang đầu ở bên cành cây gần cửa sổ, nhiệt độ vẫn còn giảm nên mọi người trong chùa đều có một cảm giác se se lạnh, có người không chịu nỗi, đành dậy sớm tập thể dục và nấu cơm cho bữa sáng. Những làn khói bếp, mùi thức ăn thơm phức lan tỏa khắp ngôi chùa đã xua tan đi cái giá lạnh.
Thầy thấy thật kỳ lạ. Châu Hoàn Cách như thường ngày vẫn thức khuya dậy trễ, thế nhưng hôm nay cậu bé lại dậy sớm, nó đang tập võ ở ngoài vườn hoa cùng với những vị sư huynh khác. Một trong số đó phải kể đến Thích Mai Hoa và Thích Nhị Lang, hai người này chính là hai vị sư huynh đã giúp nó luyện tập hằng ngày.
Thầy cảm thấy yên tâm hơn khi để cho họ cùng nhau luyện tập miệt mài đến như thế. Ở đây, thầy không hề dạy những bài quyền cho họ mà thầy muốn cho họ tiếp xúc với những gì mới mẻ hơn như tập Kickboxing và những môn võ hiện đại khác.
Thời gian qua, thầy cảm thấy Châu Hoàn Cách có một niềm đam mê mãnh liệt đối với võ thuật. Chắc hẳn là do quá khứ bị đánh đập quá nhiều, đến thầy cũng không ngờ thằng bé không chịu bỏ cuộc mà vẫn cố gắng sống sót, hình như nó vẫn đang nuôi một niềm hy vọng trong người. Một niềm hy vọng mãnh liệt của sự sống.
Đến giờ nghỉ ngơi, Châu Hoàn Cách cùng với các sư huynh đi đến nhà ăn. Cậu ngồi cùng với hai vị sư huynh của mình:
- Hai người tập hăng máu thật.
Thích Mai Hoa cười hì hì:
- Vì ta uống cô ca nên mới hăng máu đó.
Thích Nhị Lang đập vai anh ta:
- Cái thằng này! Từ nhỏ đến lớn thăm đáy giếng mấy lần rồi?
Thích Mai Hoa hậm hực xoa xoa vai của mình:
- Cái anh này, đùa chút cũng không cho.
Châu Hoàn Cách cười hớn hở:
- Hai người cứ xúm lại thì lúc nào cũng gây chuyện hết.
Thích Mai Hoa hất hàm về phía cậu:
- Nhóc thì biết gì? Ta đây bản tính phong lưu tao nhã, người lúc nào cũng thơm phức khiến cho muôn loài côn trùng vây quanh, ta khác một trời một vực với cái anh bên cạnh này.
Thích Nhị Lang cảm thấy như bị ong chích, liền hầm hầm quát:
- Muốn gây sự à? Thơm như mùi hôi nách thì có.
Thích Mai Hoa mỉm cười đầy ẩn ý:
- Huynh đây thơm hơn đệ! Bản tính hiền lành như con cọp vậy.
Câu nói đầu khiến anh Lang có phần thích thú, ai ngờ qua câu sau anh lại muốn đấm cho cái thằng này mấy đấm.
Châu Hoàn Cánh hí hửng:
- Hai người cứ giỡn hoài. Mà thời gian qua hai người ở trên trên thành phố học được những gì rồi?
Thích Mai Hoa vội nói:
- Nhiều thứ lắm, mà thấy những phụ nữ ngày càng đáng thương.
Thích Nhị Lang cau mày:
- Sao lại đáng thương?
- Vì họ mặc ít vải che thân quá, tôi nghĩ sớm muộn gì họ cũng bị cảm lạnh.
Thích Nhị Lang đấm một phát đau điếng vào vai anh Hoa rồi quát:
- Tao mà kể chuyện này với sư phụ là coi như mày đi xuống lòng đất luôn đấy. Sao bao nhiêu thứ đẹp không ngắm lại đi ngắm phụ nữ hở hang thế hả?
Thích Mai Hoa gãi gãi đầu, mỉm cười:
- Giỡn chút thôi! Mặc dù đi ngao du ở trên thành phố nhưng em cảm thấy ở đó có nhiều tội lỗi khó mà tha thứ được.
Thích Nhị Lang cũng từng lên thành phố nhưng anh ở một nơi khác Thích Mai Hoa, hầu như cả ngày anh chỉ tụng kinh niệm Phật và tự nhốt mình ở trong phòng trọ, hiếm lắm mới ra ngoài nên anh cũng ít hiểu biết bằng anh Hoa.
Thích Mai Hoa sa sầm nét mặt:
- Những tội lỗi mà em thấy là trộm cắp, giết người, mại dâm, thuốc phiện, xã hội đen và còn rất nhiều thứ nữa.
Thích Nhị Lang thở ra một hơi dài, đồng thời chập hai tay lại:
- A di đà Phật!
Châu Hoàn Cách suy nghĩ một lát rồi nói:
- Em không ngờ xã hội ngoài kia lại như thế.
Thích Nhị Lang xoa xoa đầu cậu, cười tủm tỉm:
- Nhóc có muốn thay trời hành đạo chứ?
Châu Hoàn Cách phấn chấn:
- Em muốn trở thành hiệp sĩ đường phố.
Hai vị sư huynh nhìn nhau ngờ ngợ trước câu nói của cậu bé. Nhưng vài giây sau, họ cũng trở lại với nét mặt thân thiện.
Thích Mai Hoa khe khẽ cười:
- Vậy cũng tốt nhưng muốn trở thành một hiệp sĩ, nhóc phải rời khỏi đây đó.
Châu Hoàn Cách gãi gãi cái đầu trọc của mình tỏ vẻ khó hiểu:
- Tại sao em phải rời khỏi đây?
Thích Nhị Lang vội giải thích:
- Đây là nơi thanh tịnh, khi nhóc trở thành một hiệp sĩ đường phố thì có thể nhóc phải đánh đập những tên gây mất trật tự xã hội. Lúc ấy, nếu không may nhóc có thể cướp luôn sinh mạng của người khác hoặc là để bọn chúng cướp đi sinh mạng của mình.
Châu Hoàn Cách cúi gằm mặt suy nghĩ một hồi mới nói:
- Em không sợ, dù là phải rời khỏi đây em cũng muốn thay trời hành đạo.
Dứt câu, cậu ăn vội ăn vàng tô cơm của mình. Thoáng chốc đã ăn sạch tô cơm.
Buổi chiều, Châu Hoàn Cách thường có thói quen thích đi dạo trong vườn hoa một mình. Nếu có người xuất hiện, cậu sẽ tự đi tìm một chỗ nào đó vắng vẻ hơn để tự thư giãn, vì lúc ấy sẽ không có ai nói chuyện và sẽ không làm phiền đến công việc ngắm mẹ thiên nhiên tuyệt đẹp.
Châu Hoàn Cách bứt vài bông hoa, bứt hết cánh hoa rồi ném lên cao. Các cánh hoa rơi lã chã xuống đất như thể tiết trời đang thả một thứ sắc màu sặc sỡ và đẹp đẽ nhất của thượng đế ban xuống cho cậu.
Đêm đến, Châu Hoàn Cách nằm giữa hai vị sư huynh của mình trên cái giường gỗ màu nâu sẫm. Mỗi khi màn đêm buông xuống, cậu thường thức khuya suy ngẫm lại cuộc đời. Cậu phẫn uất số phận, căm hận những tên đòi tiền nhà man rợ đó và phẫn nộ trước những kẻ trộm vé số của mình.
Cũng may, nỗi thù hận sâu sắc của cậu chỉ xuất hiện vào ban đêm. Khi sáng, hầu như bao muộn phiền sầu não đều tan biến hết mà thay vào đó là những tiếng cười đùa của các vị sư huynh, sư đệ, những thứ đẹp tuyệt trần của mẹ thiên nhiên ban cho loài người.
Sáng hôm sau, Châu Hoàn Cách bị đánh thức bởi tiếng chuông chùa. Cậu tỉnh dậy thờ thẫn nhìn xung quanh, sau khi thấy các sư huynh ra ngoài luyện công thì cậu mới đi đánh răng rửa mặt rồi bắt đầu tập luyện.
Đến giờ ăn trưa, Châu Hoàn Cách tiếp tục chen lấn để ngồi cùng với hai vị sư huynh thân thiết của mình.
Cậu hớn ha hớn hở vừa xới cơm cho hai vị sư huynh vừa nói:
- Em có một nỗi khó hiểu không biết hai vị sư huynh có biết không?
Thích Mai Hoa mỉm cười:
- Có chuyện gì sao?
Châu Hoàn Cách hỏi với giọng lí nhí nhưng đủ nghe:
- Sư phụ tên thật là gì ạ?
Châu Nhị Lang lúng liếng nhìn xung quanh. Sau khi không thấy ai ở gần, anh mới thầm thì:
- Thích Thành Chim.
Châu Hoàn Cách nhịn không được nữa, ôm bụng cười hô hố.
Hai vị sư huynh hốt hoảng trước tiếng cười to và thô lỗ của Châu Hoàn Cách. Anh Hoa vội vã cốc một phát vào đầu cậu rồi làu bàu:
- Để cho những người khác biết là toi cả mạng đấy.
Châu Hoàn Cách bị anh Hoa cốc mới ngừng cười, cậu lấy hai tay bịt miệng của mình và cười khùng khục.
Thích Nhị Lang thở dài vẻ rầu rĩ:
- Chuyện này kể ra cũng rất là bất tiện. Chỉ có ta và Mai Hoa là hai người đồ đệ thân nhất đồng thời cũng là học trò đầu tiên của thầy nên ông mới tiết lộ cho ta biết tên thật. Nhưng vì cái tên rất buồn cười nên thầy dặn chúng ta phải im lặng không nên đọc tên thầy trước đám đông. Đặc biệt là nhóc, vì thân mật với tụi ta nên mới tiết lộ cho nhóc biết đó.
Châu Hoàn Cách cau mày:
- Sao không giả một tên khác ạ?
Thích Mai Hoa khom người về phía trước:
- Sư phụ rất nghiêm về quy tắc, ông ấy đã nhất quyết không nói dối thì sẽ không bao giờ nói dối.
Châu Hoàn Cách "ồ" lên một tiếng:
- Không biết ai đặt tên cho sư phụ nhỉ?
Thích Nhị Lang mỉm cười:
- Sư tổ đặt đấy. Hồi xưa, sư phụ có bảo, cái tên không nói lên một con người mà chính con người mới thực sự làm nên chính họ. À, còn nhóc, cái tên mà nhóc tự đặt cho mình có ý nghĩa gì?
Châu Hoàn Cách nói với vẻ tự trào nhưng vẫn cố tình làm ra vẻ ta đây là người dẫn một câu chuyện lôi cuốn:
- Thật ra..
Hai vị sư huynh thấy đối phương ngập ngừng chưa chịu trả lời, lòng lại nôn nóng muốn biết cái tên đó thực sự có ý nghĩa gì. Khoảng một phút sau, hai người mất bình tĩnh và cùng đồng thanh:.
========== Truyện vừa hoàn thành ==========
1. Cô Dâu Bảy Tuổi: Làm Dâu Âm Phủ
2. Chúng Ta Bắt Đầu Lại Nhé
3. Quý Thứ Năm
4. Nhất Niệm Thành Kỳ
=====================================
- Thật ra là sao?
Châu Hoàn Cách nhếch mép cười hì hì, đôi mắt tỏ ra đăm chiêu:
- Thật ra là..
Thích Nhị Lang nổi nóng cốc vào đầu cậu một cái rồi quát:
- Thật ra là thật ra cái gì?
Châu Hoàn Cách xoa xoa cái đầu trọc của mình:
- Thật ra em thấy hay thì đặt vậy thôi.
Hai vị sư huynh ngồi xuống bất lực:
- Trời ơi là trời!
Thấm thoát đã hai mươi năm trôi qua, Châu Hoàn Cách đã ngót nghét hai mươi mốt tuổi, cậu không còn ngô nghê như lúc nhỏ nữa mà bấy giờ đã trở thành một cậu thanh niên chững chạc hơn nhiều. Đi kèm với sự trưởng thành của cậu là một thân thể cường tráng sau bao nhiêu năm khổ luyện cùng với các sư huynh đệ của mình.
Ngược lại, vị sư phụ cũng như trụ trì của ngôi chùa Pháp Tâm này càng ngày càng già hơn so với lúc trước, ông có một nguyện vọng duy nhất đối với những đứa trẻ ngoài kia không cha không mẹ sẽ sớm tìm được gia đình một ngày nào đó, và tự chúng sẽ tự nuôi sống bản thân khi cô độc chẳng có ai ở bên.
Không biết tại sao, khi nuôi Châu Hoàn Cách ông lại có một linh cảm không mấy tốt đẹp đối với đứa trẻ này. Đó không phải là một linh cảm xấu, mà là một linh cảm một ngày nào đó sẽ không thể gặp lại cậu bé ấy nữa.
Đôi khi ông hay lén lút nhìn Châu Hoàn Cách từ xa để quan sát biểu hiện lành tính của nó. Thế nhưng một ngày, ông nhận ra cái "ác tính" của nó. Nói ác thì cũng không phải lắm, nếu nói là "công lý" thì có lẽ là hợp hơn.
Lúc ấy, lũ chuột không biết từ đâu xuất hiện, chúng phá hoại mùa màng, những thức ăn trong nhà bếp đều bị chúng ăn sạch hoặc có con chết bốc mùi hôi thối trong đống lương thực. Có lúc vì đói quá nên những người trong chùa đã ăn vội vàng mà không để ý đến những con chuột đã chết trong đó, thế là gây ra một vụ ngộ độc liên hoàn.
Châu Hoàn Cách đang chơi đùa với những bông hoa ở ngoài vườn, khi nghe thấy các vị sư huynh có biểu hiện bị ngộ độc thực phẩm. Thằng bé tức đến sục sôi máu, nó lập tức lên kế hoạch giết chuột. Mặc dù kế hoạch của nó đã thành công làm cho các vị sư huynh được yên lòng và không còn bị chúng phá hoại nữa, nhưng nó đã phạm phải trọng tội khi đang tu hành.
Lũ chuột ấy không có tội, nếu như thời ấy không quá khó khăn thì đâu đến nỗi khiến cho lũ chuột và con người trở nên đói khát. Mà khi chúng quá đói thì phải tự đi kiếm ăn ở nhiều nơi khác nhau cũng giống như con người vậy, mục đích cũng chỉ để sinh tồn. Bây giờ, chúng đã về với cõi bồng lai, ông đành phải bất lực coi đó là một sự giải thoát cho lũ chuột ấy.
Còn một chuyện khiến ông cảm thấy xót xa hơn nữa. Đó là cái năm mà ông ân hận nhất, đồng thời cũng là một thứ ám ảnh ông qua từng ngày, thậm chí là từng giờ.
Cái năm đó, cả chùa xôn xao vì bức tượng Phật Di Lặc bằng vàng đã bị lấy cắp sau một đêm. Cảnh sát cũng vào cuộc nhưng tạm thời vẫn chưa có kết quả khả thi, Châu Hoàn Cách thấy vậy liền vào cuộc điều tra. Nó tự đo dấu giày và xác định có bao nhiêu người và họ cao bao nhiêu, sau đó, nó tìm thấy vết xe tải chở hàng rồi lần theo dấu vết, đồng thời kết hợp với lời nói của người dân. Nhưng kết quả vẫn chưa tiến triển, nó phải đi đến những tiệm vàng ở khắp nơi để điều tra. Kết quả cho thấy có rất nhiều mảnh vàng bị người nào đó chặt ra đem đi bán, vì có ấn tượng với đám người thanh niên đó nên bà chủ tiệm vàng mô tả khá chi tiết.
Chỉ sau hai tuần, Châu Hoàn Cách đã tìm thấy đám người đó. Nó không tha thứ hay gửi bọn chúng cho pháp luật, mà tự nó dùng võ của ông đánh bầm dập, đến nỗi cả đám không còn ai nhúc nhích được nữa, thậm chí có người chết.
Châu Hoàn Cách đã làm sai lời dạy của ông, võ thuật mà ông dạy cho nó là để "cứu người, giúp người", chứ không phải là để thực thi ác tính trong người.
Khi Châu Hoàn Cách trở về, ông hốt hoảng khi thấy bàn tay nó dính đầy máu tanh. Ông đã biết chuyện gì đã xảy ra với nó:
- Con đã đánh nhau với bọn chúng sao?
Châu Hoàn Cách thản nhiên đi vào rửa tay, vừa đi vừa nói:
- Dạ phải! Con đã dạy cho chúng một bài học.
Khắp cơ thể ông run lên bần bật khi nghe thấy những lời nói từ miệng nó thốt ra. Nó đã làm sai như thế, nhưng vẻ mặt bình tĩnh như không có chuyện gì xảy ra của nó đã làm cho ông cảm thấy thấp thỏm.
Bây giờ nghĩ lại, ông cảm thấy bồi hồi. Hình như số trời đã sắp đặt số phận của thằng bé như vậy, dù là một bậc thầy tu hành đắc đạo đi chăng nữa thì cũng không dám cãi lại ý trời. Thế nên một ngày ông hẹn Châu Hoàn Cách ra vườn hoa cùng nói chuyện với nhau.
Bình minh chỉ vừa mới he hé, ánh mặt trời còn chưa lên cao nhưng vẫn đủ thắp sáng cả một vùng trời trong xanh. Buổi sáng sớm vẫn còn se se lạnh, hai người một ông lão đã chừng tuổi ngoài năm mươi và một cậu thanh niên chững chạc không tránh khỏi xuýt xoa khi nhiệt độ đã giảm mạnh hơn so với nhiều năm qua.
Ông mỉm cười, hỏi:
- Con cảm thấy những ngày tháng ở đây như thế nào?
Châu Hoàn Cách cười tủm tỉm:
- Rất tuyệt ạ! Ở đây con thấy những cảnh đẹp của thiên nhiên, được gặp những vị sư huynh thân thiện và vui tươi. Ngoài ra còn có những đêm thức để tụng kinh, còn nhớ con đã ngủ gật nhưng sư phụ không trách cũng không phạt con, mà sư phụ lại lấy mền và gối cho con ngủ nữa. Đó là những thứ khiến con nhớ cả đời.
Ông cười hì hì:
- Ta cũng không ngờ trong lúc ngủ con cũng biết ta lấy gối cho con nằm đấy chứ.
Châu Hoàn Cách thở dài thườn thượt:
- Sư phụ đối xử tốt với con như thế, con lại làm cho sư phụ phải lo lắng hằng ngày vì con đã mắc một lỗi lầm.
Ông sa sầm nét mặt:
- Chắc cũng đã đến lúc, con trở về với cuộc sống xô bồ đó rồi.
Châu Hoàn Cách vẫn chưa hiểu ý nên ông vội bổ sung:
- Ngày này cũng đến, cũng đã đến lúc con phải rời xa nơi này. -Ông tháo chuỗi tràng hạt màu nâu sẫm trên cổ tay trái ra rồi nói. – Con hãy đeo nó vào, nó sẽ là món quà cuối cùng của ta dành cho con cũng như là một sợi dây xích kiềm hãm con quái vật trong con.
Châu Hoàn Cách đón lấy và vội đeo vào cổ tay, cậu quỳ xuống, cúi đầu:
- Cảm ơn sư phụ đã cho con biết hai chữ gia đình là như thế nào.
Ông cảm thấy ấm lòng và thanh thản, nhưng cũng đã đến lúc phải rời xa trần thế này rồi, ông chỉ còn cách lặng lẽ đặt hết niềm hy vọng vào đứa bé tội nghiệp năm nào ấy. Mong rằng sau này thằng bé sẽ hiểu được ý nghĩa của chuỗi tràng hạt mà ông đã đưa cho nó.
Một năm sau, ông qua đời. Anh Cách sau khi bôn ba ở nhiều nơi để học hỏi và kiếm công việc làm ổn định, nghe tin sư phụ của mình qua đời, lòng anh như co thắt lại.
Đứng trước cổng chùa, anh thấy ngôi chùa ngày nào mình ở nay đã đổi mới, nó được xây thêm một tầng nữa, ngoài ra còn có nhiều bức tượng Phật to được đặt ở những vị trí phong thủy. Một khung cảnh thanh tịnh làm cho người ta khi bước vào cũng cảm thấy dễ chịu phần nào.
Thế nhưng anh Cách bấy giờ trông ủ rũ như người thiếu sức sống. Anh quỳ gối trước cổng chùa, khóc rưng rức, đồng thời lạy một cái, sau đó lê lết hai đầu gối của mình vào trong.
Các vị sư huynh thấy vậy vội chạy ra đỡ, nhưng đã bị anh vùng vằn, trông bộ dạng rất kiên quyết khiến họ bất lực lắc đầu nhìn anh tiếp tục lết vào trong.
Khi vào tới nơi, anh Cách đã hết khóc mà ẩn hiện trên khuôn mặt là bộ mặt thẫn thờ. Trước mặt anh là bàn thờ đầy khói nhang bốc lên nghi ngút, sau làn khói ấy là một tấm hình trắng đen, một khuôn mặt của một người đã từng là cha là mẹ, đồng thời là người thầy vĩ đại nhất trong lòng anh hiện ra.
Anh nói với giọng khản đặc:
- Sư phụ, một lần nữa đệ tử xin cảm ơn công ơn to lớn của người. Con đã hiểu ý nghĩa của cái vòng này là gì rồi. Con sẽ tiếp nối ngọn lửa trong người cho thế hệ sau cũng như tiếp nối hy vọng một tương lai tốt đẹp với những đứa trẻ ngoài kia.
Nói xong, anh Cách vái lạy ba cái rồi đứng dậy thắp ba cây nhang lên bát hương.
Các vị sư huynh gật đầu đầy mãn nguyện. Đứa trẻ ngày nào, chỉ mới chớp mắt nó đã được hai mươi chín tuổi rồi, tất nhiên những thế hệ trước như họ cũng sắp rời xa trần thế này. Người ra đi chỉ có một nguyện vọng duy nhất, đó là muốn người ở lại hãy sống thật hạnh phúc là đủ rồi.
Anh Cách rời xa ngôi chùa để trải nghiệm một cuộc sống vất vả hơn ở ngoài kia.
Một ngày, khi ở trên chuyến xe buýt đi từ Ninh Thuận lên tỉnh Lâm Đồng, Bảo Lộc thì bị lật ở đoạn đèo. Anh Cách may mắn sống sót sau vụ lật xe đó. Sau khi thoát ra được, anh mặc kệ vết thương mà không ngần ngại cứu được một cặp vợ chồng, nhưng họ chỉ còn lại một chút hơi thở.
Người vợ lật áo ở phần bụng lên, một đứa bé 5 tháng tuổi xuất hiện trên tay bà đang khóc o oe. Bà ôm nó vào lòng ngực của mình rồi đưa cho anh.
Anh Cách nhận lấy, tay anh run lẩy bẩy vì không thể cứu được hai vợ chồng đó và cảm thấy vui mừng khi đứa bé vẫn còn sống.
Bà mẹ rệu rã nói lí nhí:
- Nó tên là Nguyễn Thế Gia, hãy chăm sóc nó giùm chúng tôi. Đứa con của mẹ hãy sống thật tốt và..
Dường như khi nói ra từ "và" bà đã chìm vào giấc ngủ, một giấc ngủ không thể nào tỉnh dậy được nữa. Những nỗi niềm muốn nói với đứa con của mình trong giây phút cuối cùng, giờ đây đã không còn cơ hội nào nữa.
Anh Cách động lòng thương xót ôm đứa bé vào lòng của mình, sau đó, đưa mắt nhìn về phía chiếc xe buýt đang lật ngửa ấy. Hầu như những vị khách trên xe và tài xế đều đã im ỉm không nhúc nhích.
Đội cứu hộ cứu nạn cũng đã có mặt, họ xác định mười người đã tử vong bao gồm cả tài xế. Anh Cách cùng với đứa bé là nạn nhân may mắn nhất còn sống.
Sau ngày đó, anh Cách chăm sóc đứa bé như người con ruột thịt của mình. Khi nó lớn, anh cố gắng dạy cho nó võ thuật và đưa nó đến trường học như những gì mà sư phụ khi còn sống đã làm tất cả cho anh nên người.
Đứa bé ấy khi lên mười tuổi, anh rất vui vẻ vì có thể dạy cho nó chữ "đạo" làm người, ngoài ra còn dạy võ thuật cho nó. Đó cũng chính là những điều vinh hạnh nhất của anh.
Một hôm, anh đang bắt một đám tội phạm ở ngoài đường phố để giao nạp cho công an thì bắt gặp hai người một đứa trẻ khoảng mười tuổi và một người đàn ông ngoài ba mươi đang chạy hối hả vào trong một ngõ hẻm. Ở đằng sau họ là một đám thanh niên côn đồ, đầu cắt húi cua đang cầm gậy sắt rượt đuổi hai người.
Anh Cách không do dự mà chạy băng qua đường, vào trong con hẻm nhỏ đó rồi đấm túi bụi vào mặt của đám thanh niên. Mấy chốc bọn chúng đã ngã khụy bất tỉnh dưới đất.
Nhưng người cha mặt máu me bê bết, anh ta đang cố gắng bò về phía trước, trông bộ dạng rời rã hết sức đáng thương.
Anh ta đưa hai tay ôm lấy chân của anh Cách và thở hổn hển:
- Tôi có một người vợ đã qua đời vì bị bệnh ung thư, tôi cũng là người đang mắc lao phổi, chắc tôi không qua khỏi. Vì muốn nuôi đứa con của mình được đi học nên tôi đã vay nợ giang hồ, bây giờ tôi không còn sức để trả nợ nữa. Anh hãy giúp tôi nuôi đứa con này giùm tôi, tôi cảm ơn anh rất nhiều, tên của nó là Trần Đại Phương..
Nói xong, anh ta nằm bất động dưới đất và không một tiếng kêu nào cất lên nữa. Đứa con của anh ta bắt đầu khóc to ầm ĩ như muốn xé toạc cả con hẻm.
Thời gian cứ trôi mãi, những vết nhăn nhúm bắt đầu xuất hiện trên khuôn mặt của Châu Hoàn Cách. Nhiều năm qua, ông đã cật lực âm thầm nuôi Trần Đại Phương tại một ngôi nhà sâu trong một con hẻm. Nhưng ông nhận ra thằng bé khác xa với Nguyễn Thế Gia.
Nguyễn Thế Gia thì hiền lành, dễ tính, còn đứa bé này thì có một sát khí đang tỏa ngùn ngụt ra bên ngoài và luôn tuân thủ quy tắc do nó tự đặt ra. Mặc dù cả hai đứa đều có một điểm chung là muốn trở thành một cảnh sát hình sự nhưng tính cách thì hoàn toàn khác nhau.
Vài năm sau, biết là không thể sống được bao lâu nữa. Ông Cách đành phải nói ra một sự thật cho Nguyễn Thế Gia biết:
- Con là người kế thừa ý chí của ta, vì thế ta cũng nên nói cho con biết một sự thật.
Bầu trời buổi sáng trong vắt không một đám mây, ánh mặt trời khuất sau tán cây me le lói rọi xuyên kẽ lá. Một ngọn gió đung đưa những chiếc lá nhỏ làm cho chúng rụng rời.
Nguyễn Thế Gia ngờ ngợ hỏi:
- Có phải thầy đang nuôi một đứa trẻ khác không?
Ông Cách ngẩn người trước câu nói này của thằng bé, nhưng chỉ một lát sau ông đã bình tĩnh lại:
- Con chắc cũng biết hết rồi nhỉ?
Nguyễn Thế Gia thở ra một hơi dài:
- Sau khi thấy thầy đi lâu chưa về nên con đã đi tìm và thấy thầy ngấm ngầm nuôi một đứa trẻ khác, có vẻ thầy không muốn cho con biết có phải không?
Ông Cách mỉm cười:
- Đúng vậy, những động tác võ thuật mà ta dạy cho con là khắc tinh của những gì ta dạy cho đứa trẻ ấy.
- Tại sao gọi là khắc tinh ạ?
Ông Cách nhẻ nhót:
- Những động tác võ thuật của con chỉ đơn giản là ôm, vật, xiết và đấm, hiếm khi ta dạy đá cho con. Còn đứa bé ấy thì chỉ có đấm và đá đơn giản nhưng lại rất uy lực, ta thấy tài năng học hỏi của nó rất sắc sảo. Lý do ta không dạy nó như con vì ta biết thằng bé ấy có chứa một con quái vật trong người nó. Cũng chính vì thế, ta hy vọng sau này hai con sẽ trở thành một đôi bạn thân với nhau, con sẽ là người kiềm chế con quái vật trong nó. À, lại đây ta bảo.
Nguyễn Thế Gia vâng lời, đi đến bên cạnh ông trông vẻ hồi hộp không biết thầy sẽ nói hay cho mình một thứ gì.
Ông Cách tháo chuỗi tràng hạt từ cổ tay trái ra và đưa cho cậu:
- Hãy nhớ sau này khi thằng bé ấy không còn là chính mình nữa hãy thuyết phục nó và đưa thứ này cho nó.
Nguyễn Thế Gia cầm lấy:
- Cái này là sao ạ? Sao thầy không tự tay mình đưa cho cậu ta.
Ông Cách cười khe khẽ:
- Ta nghĩ tình bạn sẽ là thứ đẹp đẽ và thiêng liêng nhất mà ta tin tưởng.
Mặt trời đã lên cao, ánh nắng chói chang chiếu xuống khắp vườn cây sau nhà Nguyễn Thế Gia như thể muốn thiêu rụi tất cả.
Nguyễn Thế Gia ngước nhìn ánh mặt trời, ánh mắt lim dim cảm thấy chói. Nhưng cậu thấy thoắt ẩn thoắt hiện hình ảnh của mình trong tương lai và thấy mình chính là người kế thừa ý chí của thầy.
Ông Cách lụ khụ bước vào nhà rồi nói vọng lại:
- Con bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?
- Dạ mười sáu tuổi.
- Cố gắng lên, hãy thực hiện ước nguyện của con. Nhưng mà bây giờ phải lấp đầy cái bụng đã.
- Vâng ạ! - Nguyễn Thế Gia cười tủm tỉm.
Đội trưởng Gia lấy từ trong hộc tủ gỗ ra một cái chuỗi tràng hạt. Thứ này là tuổi thơ của anh cũng như là những kỉ niệm đẹp đẽ với sư phụ của mình. Chuỗi tràng hạt này không dành cho anh, mà nó dành cho người bạn thân của anh, người đó chính là phó đội trưởng trong tổ trọng án Trần Đại Phương. Nhưng bây giờ chưa phải lúc để đưa nó cho anh ta, vì anh biết lúc này đã có một cô gái thừa hưởng hương sắc trời đang ở bên cạnh và giúp kiềm hãm con quái vật khiếp đảm trong người anh ta.
Cốc cốc..
Đội trưởng Gia cất chuỗi tràng hạt vào lại trong hộc tủ, sau đó hất hàm về phía cửa:
- Vào đi..
Một tiếng "cọc cạch" vang lên, đội trưởng Gia hốt hoảng quay phắt lại. Anh sững sờ khi thấy trước mặt mình là một nụ cười đáng sợ.