Không có bàn, chỉ có hai cái ghế đẩu hợp lại thành một cái bàn tạm thời, bên trên đặt vài cái bánh bao không khô khốc và một ít dưa muối, cộng với vài chai thoạt nhìn là biết là thuốc. Tôi hoàn toàn không dám tưởng tượng một ông lão bằng này tuổi đầu mà lại có thể sống trong hoàn cảnh khốn khó như vậy.
Bác Tôn vừa làm xong việc, đang nằm nghỉ trên giường, vì khí trời quá lạnh nên trong tay bác ta đang cầm một cái ly thủy tinh đựng nước nóng, thấy hai người lạ tiến vào, nét mặt bác ta thoáng vẻ ngạc nhiên. Chúng tôi không biết phải bắt đầu thế nào, ngay cả Bạch Dực cũng có vẻ hơi lúng túng.
Chúng tôi vốn cho rằng những chuyện quái dị gần đây là do bác ta tạo ra để khỏi phải đi khỏi đây, nhưng vừa nhìn thấy hoàn cảnh sống của bác ta thì tôi đã hoàn toàn đồng tình với ông lão có cuộc sống cơ hàn này.
Ông lão từ từ ngồi dậy, phủ ra ngoài một cái áo bông màu xanh bạc phếch, nhìn chúng tôi một chút rồi hỏi:
“Hai vị là khách mà quản lý Kỷ mời tới có phải không? Sao lại tìm tới chỗ tôi?”
Bạch Dực khách khí đáp:
“Chúng tôi tới là muốn hỏi bác chút chuyện trong quá khứ của ngôi nhà này.”
Ông lão cho chúng tôi hai cái ghế con rồi nói:
“Ai, tôi biết các vị cũng nghi ngờ là tôi làm. Nói thật tôi cũng không ưa gì họ Kỷ, nhưng chưa tới mức đem quỷ quái ra dọa người khác.”
Tôi gật đầu:
“Chúng cháu biết, chúng cháu chỉ muốn hỏi bác chút chuyện từ ngày xưa ở tòa nhà ngày, vì bác sống ở đây lâu nhất, có nhiều chuyện chắc chỉ có bác mới biết?”
Bác Tôn nhìn chúng tôi hồi lâu, sau đó ngẩng đầu lên nhìn bóng cây ngô đồng um tùm ngoài sân, nói bằng một giọng đầy hoài niệm:
“Tôi đã sống ở căn nhà này cả đời, cha tôi cũng trông nom căn nhà này cả đời. Năm xưa căn nhà này là do một phú thương người Tô Châu xây dựng nên. Ngài ấy từng đi du học, là nhóm du học sinh Trung Quốc đầu tiên ở nước ngoài, khi trở về ngài ấy kinh doanh sắt thép, từ từ trở thành một nhà đại phú hào thời bấy giờ. Họ Tôn chúng tôi theo ngài ấy từ Tô Châu đến đây. Nghe nói lão gia có ơn với nhà họ Tôn chúng tôi, nên cha tôi quyết định dòng họ chúng tôi sẽ theo ngài ấy cả đời. Cha từng nói với tôi, họ Tôn chúng tôi phải thay chủ nhân canh giữ căn nhà này cả đời, để báo đáp ân tình.”
Trong lòng tôi cảm động, bác Tôn đúng là một người biết ân biết nghĩa hiếm có. Bác ta nhìn tôi một chút rồi chợt mỉm cười:
“Phải rồi, trông cậu giống tiểu thiếu gia lắm, đặc biệt là khuôn mặt và môi.”
Tôi chỉ chỉ vào mình rồi nhìn sang Bạch Dực, anh ta vẫn không nói gì, chỉ chăm chú nghe bác Tôn nói tiếp. Bác ta mỉm cười:
“Đúng đúng, nhà này tổng cộng có ba thiếu gia, trong đó cậu nhỏ nhất sức khỏe rất kém, lúc đó tôi cũng chỉ là một đứa nhỏ, mà cậu ấy còn nhỏ hơn tôi mấy tuổi. Cho nên tôi coi như là bạn của cậu ấy vậy. Cậu ấy là một đứa trẻ rất nghịch ngợm, nhưng lại thích cùng tôi chơi đùa, tiếc là không được bao lâu, lúc tiểu thiếu gia được 12 tuổi thì bị một trận phong hàn, không sống được hết mùa đông năm đó đã vội đi…”
Ông lão trầm mặc hồi lâu mới tiếp tục nốt câu chuyện:
“Lúc mai táng cậu ấy, chính tôi là người tay y phục cho cậu… Nhớ những ngày cuối cùng, tôi còn nhận lời cậu ấy tới mùa xuân năm sau sẽ dẫn cậu ấy ra gốc ngô đồng phía sau nhà xem tổ chim én… cho cậu ấy nhìn chim én con… nhưng cậu ấy lại không sống được tới lúc đó…”
Căn phòng tối nhờ nhờ, bên ngoài ánh mặt trời tươi tắn, nhưng không chiếu vào nổi căn phòng nhỏ bé này, chỉ len vào được một vài tia sáng yếu ớt chiếu lên cái ly thủy tinh trên tay ông lão, lấp lánh sáng. Tôi nhìn sang Bạch Dực, thấy anh ta nhìn ông lão chằm chằm hồi lâu rồi mới mở miệng:
“Bác Tôn, cảm ơn bác đã giúp đỡ. Bác yên tâm, chúng tôi sẽ tìm cách giúp bác yên ổn ở lại ngôi nhà này.”
Bác ta vừa cười vừa nói:
“Cảm ơn các vị, nhưng già này cũng chẳng sống được bao lâu nữa mà kể.”
Tôi nghe thấy thế, tự nhiên cảm thấy cực kỳ khó chịu. Lúc này tôi đã có thể xác định, mấy trò quỷ quái tuyệt đối không phải do bác ta làm ra. Bác ta đã ở đây cả đời, nhất định sẽ không muốn nó bị bỏ hoang trước mắt mình.
Sau khi rời khỏi căn phòng nhỏ, cả hai chúng tôi đều trở nên trầm mặc, tâm tình đều không tốt lắm, đặc biệt càng thêm có ác cảm với tên gian thương Kỷ Quân Hào này, không ngờ vừa nhắc Tào Tháo thì Tào Tháo đã tới.
Kỷ Quân Hào giống như thái giám theo sau quý phi mà lếch thếch theo sau đuôi Bạch Nguyệt Linh. Nhìn thấy anh ta, tự nhiên tôi cảm thấy lạnh cả người, hắn còn ở đây tiêu dao khoái hoạt tán tỉnh mỹ nhân, trong khi ông lão đáng thương ngoài kia thì đã bị hắn làm cho bị xơ gan sắp chết! Kỷ Quân Hào không biết chúng tôi đã gặp bác Tôn, bèn cười ha ha tiến tới, nhưng tôi cảm thấy mọi sự thân thiết của hắn đối với chúng tôi hoàn toàn là vì muốn lấy lòng Bạch Nguyệt Linh mà thôi.
Hắn cười hỏi:
“Hai vị xem xét thấy thế nào?”
Tôi không muốn nhìn thấy mặt tên ngụy quân tử này nên quay đầu ra ngoài cửa sổ không thèm nhìn, Bạch Dực liếc nhìn hắn, lạnh lùng nói:
“Kỷ tiên sinh, tôi vốn tưởng là chỉ có chút vấn đề về phong thủy thôi, nhưng hiện tại xem ra quả thực có chút kỳ quái.”
Anh ta cố tình nói rất to, làm mấy vị khách ngồi gần đó đều nghe thấy, Kỷ Quân Hào vội vàng hạ giọng nói:
“Bạch tiên sinh, nói chuyện ở đây không tiện, ta vào phòng làm việc nói tiếp đi!”
Gian phòng làm việc của họ Kỷ sang trọng một cách bất thường, nhưng càng lộ vẻ nhà giàu mới nổi quê kệch của hắn lên, chỗ nào cũng nạm vàng khảm ngọc, giống như nhà của lão trọc phú Grandet trong tác phẩm của Honoré de Balzac vậy.
Hắn mời chúng tôi ngồi xuống một cái ghế sô pha rộng lót da rồi nhấc điện thoại sai phục vụ mang cà phê vào. Hiển nhiên câu nói lúc nãy của Bạch Dực đã làm hắn có phần khó chịu, hắn bóp bóp trán sau đó mở miệng nói:
“Bạch tiên sinh, An tiên sinh, tôi là một người có bằng đại học, thực sự không tin tưởng mấy cái chuyện thần ma quỷ quái này. Thế nhưng những tin đồn này gây ra ảnh hưởng quá xấu đối với việc làm ăn của nhà hàng.”
Hắn đan hai tay vào nhau, sau đó nói một cách quả quyết:
“Tuy tôi không tin có quỷ, nhưng có thể nói nhất định có người đang muốn phá rối. Đương nhiên tôi không muốn nghi ngờ chính nhân công của mình, nhưng nếu phong thủy không có vấn đề gì thì tôi nghĩ tôi có quyền nghi ngờ rằng có công nhân nào đó đang muốn tiến hành những hành vi trả thù có ác ý đối với tôi.”
Tôi thực sự phải khinh bỉ tên khốn này, hắn gọi hai chúng tôi tới hóa ra chỉ để làm màu, nếu chúng tôi nói là do phong thủy, vậy hắn sẽ sửa vài ba chi tiết trong nhà hàng để yên chuyện, nếu không phải, hắn sẽ bảo là do ai đó làm để có cớ đuổi việc những người mang tư tưởng chống đối, mà không cần nói ra cũng biết chính là bác Tôn, quả thực là vô liêm sỉ.
Tôi nhìn sang Bạch Nguyệt Linh, thấy trong mắt chị cũng là sự khinh bỉ rõ rệt. Bạch Dực thở dài rồi nói:
“Kỷ tiên sinh, nếu anh nghĩ chỉ cần đuổi một người thấp cổ bé họng khỏi nhà hàng là xong hết mọi chuyện thì xin lỗi phải nói thực, tôi nghĩ anh sẽ gặp rắc rối to đấy; tôi biết anh cực kỳ coi trọng nhà hàng này, vậy tôi muốn giúp anh một tay tiêu trừ phiền phức này, nhưng anh phải hứa với tôi một chuyện, đó là để cho bác làm vườn họ Tôn có thể ở lại đây đến hết đời.”
Kỷ Quân Hào cười nhạt:
“Hai người quả nhiên đã gặp ông già đó. Được thôi, nếu cháu trai của Bạch Nguyệt Linh đã lên tiếng yêu cầu thì tôi có thể nhận lời. Tất cả là vì tôi nể Nguyệt Linh thôi.”
Nói xong nhìn sang Bạch Nguyệt Linh cười cầu tài, chị ta liền đảo mắt, hừ lạnh một tiếng:
“Gì mà nể mặt tôi chứ, là do cậu cũng sợ chết đi ấy, sợ sự tình ầm ĩ ra thì không làm sao mà bưng bít nổi, đúng không?”
Bị Bạch Nguyệt Linh vạch trần, Kỷ Quân Hào xấu hổ cười cười, quay lại hỏi chúng tôi:
“Vậy hai người cần bao nhiêu người nữa? Hay có thêm yêu cầu gì không?”
Bạch Dực lạnh lùng đáp:
“Chỉ cần cho chúng tôi ở lại đây một đêm, cộng thêm một ít gạo nếp và muối diêm là đủ.”
Kỷ Quân Hào nhanh nhẹn gật đầu:
“Được, tôi lập tức chuẩn bị phòng cho hai vị, thứ hai vị cần tôi sẽ liên hệ với nhà bếp chuẩn bị.”
Bạch Dực cắt ngang:
“Khỏi cần phòng, chúng tôi ở trong đại sảnh là đủ.”
Kỷ Quân Hào hoài nghi nhìn chúng tôi, lại nhìn sang Bạch Nguyệt Linh, thấy chị ta không thèm nhìn mình nửa cái, liền suy nghĩ hồi lâu rồi gật đầu:
“Được, lúc đó trong nhà hàng cũng không còn ai. Nhưng tôi chỉ có thể cho hai vị một cơ hội thôi, tôi sẽ không thể để nhà hàng của mình cứ ma ma quỷ quỷ thế này được nữa.”
Tôi nhịn không được cũng lạnh lùng xen vào:
“Kỷ tiên sinh yên tâm đi. Chỉ cần anh giữ lời để cho bác Tôn có một chỗ ở thì không ai ngăn cản anh làm giàu hết!”
Kỷ Quân Hào gật đầu. Chúng tôi căn bản không muốn ở cùng một nơi với hắn ta, nên đứng lên về trước. Kỷ Quân Hào muốn giữ Bạch Nguyệt Linh lại chơi, nhưng bị chị ta cười nhạt từ chối:
“Bạn cũ, chúng ta cần nói gì thì đã nói hết rồi, nhiều năm không gặp lại, cậu quả nhiên đã thay đổi rất nhiều.”
Chúng tôi rời khỏi gian phòng của Kỷ Quân Hào, vừa bước ra khỏi đó tôi đã nhịn không được mắng to:
“Đúng là một tên gian thương khốn kiếp mà!”
Bạch Nguyệt Linh cũng xấu hổ nói:
“Xin lỗi, tôi chỉ định gọi hai cậu tới chơi, nhân tiện kiếm một mớ hời, ai ngờ lại thành thế này… Ai, bởi người ta mới nói, tiền đi liền với bạc mà.”
Tôi bình tĩnh lại quay sang Bạch Nguyệt Linh nói:
“Chị Nguyệt Linh, cái này không phải tại chị, tên khốn này chắc ăn nhiều đậu hũ quá nên não cũng nhũn ra như đậu hũ rồi, không biết tư duy giống người nữa đâu!”
Bạch Nguyệt Linh phá lên cười:
“Cháu dâu đúng là hài hước nha, mắng người mà còn có thể mắng một cách thú vị như vậy.”
Tôi mệt mỏi xua tay:
“Chị Nguyệt Linh, đừng gọi em là cháu dâu được không? Được rồi lão Bạch, anh xác định đây không phải do con người làm?”
Bạch Dực dường như đang suy tư cái gì đó, nãy giờ không hề nghe chúng tôi đùa bỡn qua lại. Lúc này nghe tôi hỏi trực tiếp mới như hoàn hồn mà đáp lời:
“Ừ, có khả năng lớn là không phải con người. Dù sao nếu không giải quyết tốt chuyện này thì ngoài Kỷ Quân Hào ra, những người phải chịu rắc rối lớn nhất chính là bác Tôn và các cô phục vụ.”
Tôi gật đầu, không thể chỉ vì tên khốn Kỷ Quân Hào này mà mặc kệ những người khác, lúc này cũng chỉ có nước giúp hắn một lần. Bạch Dực nói tiếp:
“Chị Nguyệt Linh về trước đi, ở đây đã có em và nương tử nhà em ở lại giải quyết rồi. Chí ít thì bây giờ chị cũng biết chân tướng họ Kỷ rồi đấy.”
Bạch Nguyệt Linh mỉm cười vẫy tay tạm biệt. Chờ chị ta đi khuất, tôi lập tức cho Bạch Dực một cú vào đầu. Tên này đúng là không sợ thiên hạ đại loạn mà, nương tử cái đầu anh! Chúng tôi không muốn ở đây chờ tới tối, chủ yếu là vì không muốn nhìn mặt Kỷ Quân Hào.
Tôi và Bạch Dực đi dạo xung quanh rất lâu, thậm chí bữa tối cũng là ăn ở ngoài, vì thực sự không muốn cùng tên gian thương kia ngồi ăn một bàn. Cho dù hắn có cho chúng tôi ăn thịt rồng đi nữa thì nếu phải nhìn cái bản mặt hắn chắc tôi đến ói mất.
Thật không biết phải làm sao, đi lòng vòng ngoài đường hứng gió lạnh một hồi, cuối cùng tôi quyết định mua một cái bình giữ nhiệt ở một cửa hàng tạp hóa nhỏ ven đường định tặng cho bác Tôn, dù sao trời lạnh thế này nên uống nước nóng mới có lợi cho sức khỏe của bác ấy.
Chờ trời tối sụp xuống, chúng tôi mới quay lại nhà hàng. Đón chúng tôi ở cửa chính là bác Tôn, hóa ra tên hỗn đản Kỷ Quân Hào tuy mở miệng ra là nói không tin có quỷ, nhưng trời vừa tối xuống là đã vội vàng bỏ chạy khỏi nhà hàng mà về nhà riêng rồi.
Vì thế trong nhà hàng cũng rất lộn xộn, chủ vừa chạy về nhà là mọi người cũng xôn xao ồn ào đòi về hết. Không ai muốn ở lại nhà hàng bị ma ám này vào buổi tối cả, cho nên cả ngôi nhà rộng mênh mông rốt cuộc chỉ có một mình bác Tôn ở lại trông coi.
Bác ta vẫn mặc cái áo bông màu lam bạc màu mở cửa cho chúng tôi. Nhà hàng sang trọng lộng lẫy ban ngày lúc này đã chìm hẳn vào bóng tối, u ám thâm trầm. Bác Tôn bật đèn pin cầm tay, nhẹ nhàng nói:
“Hai cậu vào mau đi, không thôi lạnh.”
Chúng tôi gật đầu, bước vào phòng mới nhận thấy trong này thực sự rất âm u, máy điều hòa đã tắt nên nhiệt độ trong nhà lúc này thấp hơn hẳn ban ngày, thực sự không ấm áp hơn ngoài đường tí nào, những tấm khăn trải bàn màu trắng bị gió thổi bay phấp phới như cuộn sóng, rèm cửa sổ cũng lay động, trong phòng không để đèn, chỉ có ánh trăng lạnh như nước tràn vào từ những cánh cửa sổ chưa buông rèm, nên nhìn vào chỉ thấy những đường nét mơ hồ của gian phòng, còn lại toàn là bóng tối.
Bác Tôn đi trước dẫn đường, bác ta đã ở đây cả đời, nên không cần đèn đuốc cũng có thể đi lại bình thường như ban ngày.
Cái đèn pin trên tay bác ta chỉ là vì chúng tôi mà thôi, cầu thang tối đen được soi rọi một khoảng tròn bằng thứ ánh sáng trắng vàng lù mù của cái đèn pin, phần còn lại chìm thành những đường viền tối sẫm. Chúng tôi cẩn thận leo từng bước một, trong nhà hàng cực kỳ tĩnh lặng, ngoại trừ những tàng cây bị gió thổi xào xạc ngoài vườn thì cũng chỉ có tiếng bước chân rất khẽ của ba người mà thôi.
Ngôi nhà này có lịch sử quá lâu đời, nên cho dù có sửa sang trang hoàng thế nào vẫn không giấu nổi một thứ hơi thở u ám nặng nề đặc trưng, thứ hơi thở đã bị dồn nén lại qua không biết bao nhiêu là thăng trầm của thời cuộc.
Bác Tôn đi rất từ tốn, vừa đi vừa nói về tòa nhà cổ này, hình như bác ta rất có cảm tình với tôi, không biết có phải vì trông tôi giống tiểu thiếu gia trong câu chuyện ban chiều của bác ta hay không? Bác chỉ vào phía cuối dãy lầu hai, chỗ gần cánh cửa sổ thủy tinh sát đất mà nói:
“Chỗ đó trước là gian phòng cũ của tiểu thiếu gia, cơ thể cậu ấy yếu nên lão gia cho cậu ấy ở trong gian phòng quay về hướng nam, ấm áp một chút, mới có lợi cho sức khỏe của cậu ấy.”
Nhìn về phía ánh đèn pin chiếu tới, chỗ đó đã không còn là một căn phòng nữa mà là một sảnh ăn lớn, ngồi đó ăn có thể nhìn thấy khu vườn phía dưới và toàn bộ quang cảnh xung quanh nhờ cái cửa sổ kính lớn.
Tôi đột nhiên cảm thấy sự hoài niệm và tiếc nuối của bác Tôn, bác ta đã ở đây gần cả đời người, vậy mà phải chứng kiến nó thay đổi thành xa lạ thế này, tuy nói là ở đây để lưu lại ký ức cho ngôi nhà, nhưng thực ra, mọi ký ức đều đã bị khóa chặt bên trong những bức tường cả rồi. Đột nhiên nhớ tới thiếu niên mặc đồ đỏ sáng nay, tôi vội hỏi bác ta:
“Bác Tôn, bác có biết một thiếu niên rất đẹp, hôm nay mặc toàn đồ màu đỏ không?”
Bác Tôn lắc đầu:
“Không biết, những người ở đây đều lần lượt bỏ đi cả rồi, chỉ còn lại một mình tôi thôi.”
Trong mắt bác ta tràn ngập cô đơn lẫn nhớ nhung, tôi quay lại nhìn Bạch Dực, nhưng anh ta đang cúi đầu suy nghĩ gì đó, không đáp lại tôi. Ông lão đưa chúng tôi tới một gian phòng rõ ràng cũng là phòng nghỉ cho nhân viên, trên bàn bày hai cái túi to, bên trong đựng nếp và muối diêm đúng theo yêu cầu của Bạch Dực.
Trên bàn còn đặt hai cái đèn pin, có lẽ Kỷ Quân Hào thực ra khá trông đợi vào kết quả hành động lần này. Ông lão nhìn quanh gian phòng một chút rồi lo âu nói:
“Hai vị, thực sự trong nhà này không có quỷ quái gì cả đâu. Tôi ở đây cả đời mà chưa từng thấy bao giờ…”
Nhưng bác ta còn chưa nói dứt lời thì một cái bóng màu đỏ đã nhanh như chớp lướt qua cửa phòng. Cả tôi lẫn Bạch Dực đều nhìn thấy, nhưng bác Tôn đưa lưng về phía cửa nên không để ý thấy, bác ta thấy chúng tôi đồng loạt biến sắc liền quay lại sau lưng nhìn, nhưng ngoại trừ một mảnh tối đen thì không còn thấy gì nữa, bên ngoài gió thổi ù ù, trong phòng, ba chúng tôi thở nặng nề.
Bạch Dực gật mạnh đầu, nhanh chóng trộn gạo nếp và muối diêm lại thành một đống, sau đó chia làm hai phần, một phần đưa cho tôi, một phần tự mang theo. Rồi quay lại nói với chúng tôi:
“Bác Tôn, bác ở yên trong phòng này chờ, Tiểu An, chúng ta chia nhau ra đi tìm con quỷ kia!”
Tôi gật đầu, nhưng sau đó lại lập tức lắc đầu quầy quậy:
“Không… tôi không đi một mình đâu… tôi đâu có biết bắt quỷ?!”
Bạch Dực cười xòa:
“Chỉ cần thấy nó thì lập tức ném gạo nếp muối diêm vào nó, nó sẽ chạy không thoát nữa.”
Tôi nuốt nuốt nước miếng, cuối cùng đành gật đầu:
“Được, chia nhau ra hành động, bác Tôn, bác chờ ở đây nhé, đừng đi lung tung mà nguy hiểm!”
Nói xong tôi và Bạch Dực cầm đèn pin chia làm hai hướng. Lúc chỉ còn một mình trong căn nhà tối đen mới bắt đầu cảm thấy trống ngực đánh lô tô, tôi nhìn thấy mấy thứ khác thường, cho nên so với người thường càng cảm thấy sợ hơn, tôi húng hắng giọng, bàn tay vô thức siết chặt thêm túi gạo nếp trộn muối.
Bất giác ngẩng đầu lên nhìn cái chụp đèn thủy tinh trên trần nhà, cái chụp đèn lộng lẫy xa hoa ban chiều lúc này không được mở lên, nhưng vẫn có ánh trăng rọi vào phản chiếu thành muôn vàn tia sáng li ti huyền ảo, càng thêm đáng sợ.
Khi vừa bước ngay dưới cái chụp đèn, chợt… tôi nhìn thấy trên chụp đèn một chiếc hài trẻ con màu đỏ khẽ đung đưa. Da đầu tôi tê dại đi, nhớ tới chiếc hài rơi xuống cầu thang lúc chiều. Chiếc hài này đung đưa một lúc, phía trên nó bị bóng tối phủ kín không biết là ai hay cái gì, đột nhiên nó dừng lại, lẳng lặng lơ lửng phía dưới chụp đèn.
Tôi sợ đến mức không dám chớp mắt, chỉ e mình mà chớp mắt thì con quỷ sẽ lập tức bỏ chạy. Tôi từ từ vòng qua cầu thang cuốn bước lên lầu, hi vọng có thể nhìn thấy tận mắt thứ quái dị kia là cái gì. Ngay khi sắp tới nơi, bất chợt cái hài đỏ biến mất.
Tôi nhất thời sốt ruột vội vàng nhìn quanh quất xung quanh cái chụp đèn thủy tinh, đột nhiên… một gương mặt tái nhợt thình lình hiện ra ngay trước mặt tôi! Bởi chuyện xảy ra quá đột ngột nên tôi thực sự không kịp phản ứng, chỉ có kinh hoàng cùng hãi sợ. Gương mặt trắng bệch tới mức tái xanh đó nheo nheo mắt cười với tôi.
Hai chân tôi mềm nhũn, ngã vật ra sàn. Lập tức gương mặt nọ biến mất, một cái bóng màu đỏ tươi nháng lên một cái lao vội xuống cầu thang. Tôi sợ tới mức ngưng thở, một hồi lâu sau khi tỉnh lại thì mặt đã muốn tím bầm đi vì thiếu dưỡng khí. Tôi thở phì phì nặng nhọc, xác định lại: đó là gương mặt của một cô bé gái, tái nhợt như một cái mặt nạ, mái tóc dài bím thành hai bím hai bên.
Tôi lấy lại bình tĩnh, lập tức chạy xuống cầu thang định đuổi theo con quỷ nhỏ kia. Nhưng nó chạy rất nhanh, khi tôi xuống tới nơi thì cái bóng đỏ đã biến mất đâu không rõ. Tôi tìm khắp nơi, thậm chí chui vào gầm bàn kiểm tra vẫn không thấy.
Bất tri bất giác mà đuổi tới ngoài cửa lớn, đối diện với mặt tường ốp kính lưu ly thật lớn kia. Đột nhiên tôi nhìn thấy trong gương, bên cạnh mình là một tiểu cô nương đứng đó, mặc sườn xám màu đỏ, tóc bím hai bên, sắc mặt tái nhợt như tờ giấy, tôi hốt hoảng nhìn sang bên cạnh, nhưng không có ai, chỉ mơ hồ nghe vẳng từ trong nhà truyền tới tiếng cười của con nít, nghe tới đâu tóc gáy phải dựng đứng tới đó.
Đột nhiên, cái bóng màu đỏ lại xuất hiện ở chỗ cánh cửa sổ thủy tinh chạm đất trên lầu hai. Tôi tự nhiên có cảm giác bị con nít đùa bỡn, con quỷ con này rõ ràng là đang chơi trốn tìm với tôi mà!
Lúc này ngoài cửa sổ nổi lên một cơn gió to, lá cây soàn soạt nổi sóng, cái bóng đỏ vẫn đứng im trên lầu hai không động đậy. Tôi cắn chặt môi chạy hộc tốc lên lầu hai, trong lòng nghĩ, cứ thế này chắc là đau tim mà chết mất. Nhưng khi lên tới nơi thì thấy rõ hoàn toàn không phải là cô bé con lúc nãy mà là thiếu niên xinh đẹp mặc áo đỏ trông thấy lúc chiều.
Ban ngày nhìn xa không trông rõ lắm, đến lúc này được nhìn kỹ mới thấy, cậu ta quả thực xinh đẹp phi thường, nhưng giữa đôi chân mày lại hiện lên nhàn nhạt bi thương. Gương mặt tuy trắng nhợt, nhưng lại không khiến người ta cảm thấy sợ hãi mà chỉ thấy tràn đầy thanh lệ.
Cậu ta vẫn nhìn tôi cười nhẹ, xung quanh âm u sương mù, không khí dường như được bao phủ bởi một mùi hương rất nhẹ rất nhã. Cảm thấy thiếu niên không có ý định tấn công, tôi cũng thở phào một hơi, sau đó từ từ tới gần cậu ta, cậu ta vẫn không tránh né.
Nhưng càng tới gần tôi càng cảm thấy xung quanh lạnh buốt đi, đường nhìn cũng bị sương mù che phủ, thiếu niên khẽ vươn tay ra, tôi phát hiện bàn tay cậu ta rất gầy, làn da trong suốt. Tôi ngơ ngác đưa tay cầm lấy tay cậu ta, đột nhiên bên tai vang lên tiếng ho khan, nhìn lại thì thấy con quỷ nhỏ lúc nãy đã đứng bên cạnh cánh cửa thủy tinh, một thân đỏ chói, nó bình thản nhìn tôi, một bàn chân đi hài đỏ tươi, chân còn lại để trần, bàn chân nhỏ bé tái nhợt.
Tôi vén vén tay áo, từng bước từng bước tiến về phía cửa sổ, cẩn thận đề phòng nó lại bỏ trốn, nhưng khi tôi bước tới gần mới phát hiện ra, con tiểu quỷ đứng ở đằng sau tấm gương, làm sao mà bắt cho nổi hả trời!
Tiểu quỷ cười cười ác độc nhìn tôi, nụ cười cực kỳ quỷ dị, sau đó, từ hai khóe mắt của nó từ từ chảy xuống huyết lệ đỏ tươi, nó đang khóc. Bên trong cánh cửa sổ thủy tinh phản chiếu một quang cảnh xa lạ, đó là một căn phòng, bày biện xung quanh rất cũ kỹ, nhưng có thể nhận thấy rất cao quý.
Ở trên chiếc giường chính giữa phòng là một đứa bé đang vùi mình trong đống chăn dày, mặt mày cực kỳ thanh tú, nhưng rất yếu ớt, nó chốc chốc lại che miệng ho kịch liệt, thậm chí ho ra máu. Đứa bé có vẻ rất cô độc, cả gian phòng to lớn trống không chỉ có mình nó cô đơn nằm trên giường, lúc này cửa phòng chợt mở ra, một thiếu niên bước vào, mặc trường sam kiểu cũ, đứa bé nhìn thấy thiếu niên đột nhiên mỉm cười tươi, có thể thấy nó rất hài lòng.
Thiếu niên sờ sờ đầu đứa bé, lau mặt và hai tay cho nó, thấy chút máu còn đọng lại trong lòng bàn tay thì nhíu mày, nhưng sau đó lại lập tức mỉm cười:
“Tiểu thiếu gia, chờ cậu hết bệnh rồi, chúng ta ra sân sau xem tổ chim én được không?”
Đôi mắt đen như nhung của đứa bé tỏa ra ánh sáng mong chờ lẫn khát vọng mãnh liệt, ra sức gật đầu:
“Quý Sinh nhớ đấy nhé, chờ đầu xuân năm sau, ngươi nhất định phải mang ta leo cây xem tổ chim én đấy nhé!”
Thiếu niên mỉm cười dịu dàng vuốt má đứa bé:
“Vâng, chắc chắn đấy, chờ cơ thể tiểu thiếu gia khỏe lại rồi chúng ta cùng đi xem chim én con.”
Những giọt sương đọng trên lan can ngoài cửa sổ đóng lại thành băng, một giọt nước đá đọng lại trên mép cánh hoa Xá tử trông như một giọt nước mắt. Tôi những muốn nhìn cho rõ hơn, nhưng những cảnh tượng bên trong cánh cửa thủy tinh càng lúc càng nhòe đi, thiếu niên và đứa bé đều lần lượt biến mất.
Tôi tự nhiên cực kỳ khao khát muốn biết chuyện gì xảy ra tiếp theo, nên vô thức bước về phía cánh cửa, nhưng lập tức lại bị ai đó kéo mạnh vào. Tôi chợt hoàn hồn nhìn lại, thì ra là Bạch Dực, anh ta đang hốt hoảng nhìn tôi. Tôi ngẩn người hồi lâu mới phát hiện ra, mình đang đứng ngay rìa cầu thang cuốn, chẳng có cánh cửa thủy tinh nào trước mặt cả, nếu bước tới trước một bước thì lập tức sẽ ngã lăn xuống cầu thang ngay.
Tôi sợ tới mức cả người đầy mồ hôi lạnh, thối lui một bước cuộn người trong lòng Bạch Dực run rẩy không ngừng. Bạch Dực thấy thế nhíu mày, dùng tay vỗ vỗ sau lưng tôi trấn an, nhưng sắc mặt vẫn cực kỳ nghiêm trọng, có lẽ là do bị chọc giận:
“Con quỷ nhỏ này còn ở trong nhà, nó thoát không được. Hôm nay nhất định phải bắt cho được nó!”
Tôi từ từ phục hồi lại, chỉ ngơ ngơ gật đầu, Bạch Dực đột ngột vỗ vỗ hai bên má tôi mỉm cười:
“Vui vẻ lên nào. Đi, tôi biết nó ở đâu rồi!”
Nói xong liền đỡ tôi đến dãy phòng dành cho nhân viên ở lầu hai, tôi vừa sợ tới bủn rủn cả người, nhưng đầu óc vẫn còn tỉnh táo, nên tự nhiên nhớ ra rằng dạo này cần Bạch Dực đỡ hơi nhiều, đột nhiên mặt lại đỏ bừng lên.
Bất quá không cho tôi có thời gian suy tính vì sao lại đỏ mặt, Bạch Dực đã bôn bả mang tôi về phòng bác Tôn đang đợi, ông lão nhìn thấy vẻ mặt sợ hãi đến xám ngoét lại của tôi cũng thất kinh, lập tức hỏi có chuyện gì xảy ra? Trong nháy mắt chợt tôi phát hiện phía sau lưng bác ta hiện lên một cái bóng màu đỏ, trong lòng tôi hoang mang tự hỏi lần này là ai?
Là đứa bé gái hay là thiếu niên? Tôi nghi hoặc nhìn sang Bạch Dực, chỉ thấy anh ta gật đầu:
“Đúng, ngôi nhà này thật là ‘vui nhộn’ khác thường đấy, cả yêu lẫn quỷ đều tập họp.”
Bạch Dực vừa dứt lời đã lập tức ném gạo nếp về phía lưng của bác Tôn, chỉ nghe thấy một tiếng trẻ con thét lên chói tai, ông lão lập tức quay lại, phát hiện sau lưng mình là con bé mặc sườn xám đỏ tươi đang ngồi sụp đó.
Tôi vừa nhìn thấy nó thì đã phát cáu, gạt tay Bạch Dực bước ra chỉ thẳng vào con quỷ con mà mắng:
“Hay cho đồ tiểu quỷ nhà mi, dám đùa giỡn với ta!”
Nhưng khi định tới gần nó thì đột nhiên quanh đó chợt nổi lên sương mù dày đặc kèm theo một mùi hương u nhã lạnh lùng. Bạch Dực chỉ lạnh lùng cười cười:
“Chỉ có nhiêu đó đạo hạnh mà cũng dám ra tay trước mặt ta?”
Giữa làn sương mù thơm ngát chợt truyền tới những tiếng khóc rấm rứt, trước mặt chúng tôi xuất hiện hai người, Bạch Dực lập tức lôi trong túi ra một cái túi vải gấm, tôi nhận ra nó là thứ lần trước đối phó với đám Thủy Mị, liền nhanh chóng chặn tay anh ta lại:
“Từ từ, đừng vội vàng chưa nói gì đã tiêu diệt người ta.”
Không hiểu sao, tôi có cảm giác hai người này không phải là ác quỷ, tất cả những hành động của bọn họ đều khiến người ta có cảm giác bi thương. Bạch Dực dở khóc dở cười nói:
“Tôi đâu có ý định tiêu diệt bọn họ, chỉ muốn xua tan mớ sương mù này thôi.”
Giữa đám sương trắng có thể nhìn thấy bóng thiếu niên áo đỏ kia, tôi gật đầu với cậu ta:
“Có gì thì cứ nói đi, chúng ta không muốn làm hại tới các ngươi.”
Sương mù dần dần tan hết, dưới ánh trăng trong trẻo là hai bóng người, tuy trông có vẻ hơi nhợt nhạt nhưng rõ ràng đang đứng trước mặt chúng tôi. Bạch Dực liếc nhìn hai người bọn họ, vẫn không nói gì nhưng cái túi gấm trên tay đã biến mất.
Bác Tôn bị chuyện đang xảy ra trước mặt làm cho choáng váng, nhưng lúc này đã dần dần bình tĩnh lại, từ đôi mắt mờ đục tự nhiên chảy ra hai dòng nước mắt, bác ta run run hỏi con quỷ con:
“…Tiểu thiếu gia?”
Tôi ngạc nhiên nhìn lại, khóe miệng giật giật, sau đó hỏi Bạch Dực:
“Rõ ràng là một con nhóc mà? Sao lại là tiểu thiếu gia?”
“Đây là một tập tục cổ xưa ở một số địa phương Giang Nam, cho những đứa bé trai có sức khỏe kém ăn mặc như con gái, để cho dễ nuôi.”
Bạch Dực nhún vai đáp thản nhiên, nhưng mắt vẫn trừng trừng nhìn tiểu quỷ. Bác Tôn run run đến gần tiểu quỷ kia, nhưng nó có vẻ sợ gạo nếp trên tay Bạch Dực nên nhanh chóng lẩn ra trốn vào sau lưng thiếu niên áo đỏ, lén nhìn Bạch Dực một cái rồi lại phụng phịu cúi đầu xuống, trên chân chỉ có một chiếc hài, trông có vẻ rất đáng thương.
Tôi không đành lòng hỏi nhẹ nhàng:
“Chính là ngươi phá rối trong nhà sao?”
Con quỷ con cắn chặt môi gật đầu, lại chảy huyết lệ, làm cho khuôn mặt tái nhợt trông càng thêm quỷ dị. Nhưng ông lão dường như hoàn toàn không sợ nó, chậm rãi đến bên cạnh tôi mà kích động nhìn nó.
“Quả nhiên ngươi không hề rời khỏi căn phòng của bác Tôn, nhưng vì sao lại làm ra nhiều chuyện như vậy?”
Bạch Dực đẩy đẩy kính mắt, trong mắt ẩn ẩn tia sáng lạnh. Đứa bé lui sát lại gần tôi, một hồi lâu mới khiếp sợ lên tiếng, giọng nói thô sắc như tiếng nhị hồ bị lạc âm:
“Ai bảo… ai bảo bọn chúng muốn đuổi Quý Sinh đi, bọn chúng đã phá nát phòng của ta bây giờ còn muốn đuổi Quý Sinh đi…”
Nói xong lại nhìn về phía thiếu niên áo đỏ:
“Ta nhờ ca ca giúp ta trừng phạt đám người dám bắt nạt Quý Sinh… Ca ca đã ở đây từ lâu lắm rồi, anh ấy nhìn ta sinh ra, cũng nhìn ta chết đi…”
Bác Tôn run rẩy mím mím môi, nước mắt trào ra, thì thầm gọi:
“Tiểu thiếu gia…”
“Thật sao?”
Bạch Dực hừ lạnh một tiếng:
“Thế đẩy người ngã xuống cầu thang là thế nào?”
Gương mặt bé nhỏ của con quỷ tự nhiên trông có vẻ cực kỳ phẫn nộ, nhưng bị Bạch Dực nhìn chằm chằm thì đành dịu lại, chỉ nhỏ giọng đáp:
“Bởi vì cô ta dám mắng Quý Sinh là lão già đáng chết, lại còn đánh Quý Sinh nên ta mới muốn thay Quý Sinh trả đũa thôi…”
Thiếu niên áo đỏ không nói gì, chỉ chằm chằm nhìn tôi, trong mắt tràn ngập lo lắng cùng van xin, tôi cũng gật gật đầu, nhanh tay gạt hết mớ gạo nếp trong tay Bạch Dực xuống đất. Bạch Dực ngẩn người nhìn hai bàn tay trống không, lại nhìn sang tôi lắc lắc đầu, nhưng tôi chỉ đảo mắt ngó lơ coi như không thấy. Bác Tôn rốt cuộc bật khóc nức nở:
“Tiểu thiếu gia, cậu cần gì phải làm vậy! Cần gì…”
Đứa bé con nghiêng đầu nhìn bác Tôn mỉm cười cực kỳ ngây thơ:
“Bởi vì Quý Sinh luôn bảo vệ cho ta và ngôi nhà này, cho nên ta cũng muốn bảo vệ Quý Sinh chứ sao.”
Bàn tay thô ráp của bác Tôn run run chạm tới gương mặt trong suốt của đứa bé, nó vẫn bình thản mỉm cười. Tôi đột nhiên cảm thấy hình ảnh ông lão và đứa bé lúc này dường như đã hòa làm một với bóng hình thiếu niên và đứa bé trước khung kính, nhân sinh phảng phất như đã quay lại lúc ban đầu, đứa bé thinh lặng mà cô độc nọ, thiếu niên đơn thuần chỉ muốn bảo vệ người quan trọng nhất đối với mình nọ, tất cả, tất cả đều quay lại lúc ban đầu, đồng thời, cũng là kết thúc…
Bác Tôn chùi nước mắt, vỗ vỗ đầu đứa bé:
“Tiểu thiếu gia, cậu đừng làm ầm ĩ nữa, nơi này đã không còn là nhà chúng ta nữa rồi. Cả tôi nữa, cũng sẽ rất nhanh… rất nhanh gặp lại cậu thôi…”
Đứa bé cười híp mắt nhìn cực kỳ ngoan ngoãn:
“Được, ta không nghịch nữa, Quý Sinh, mùa xuân năm sau lại mang ta đi xem chim én nhỏ được không?”
Bác Tôn dịu dàng mỉm cười:
“Được, Quý Sinh hứa với cậu.”
Thiếu niên áo đỏ chậm rãi thả vai đứa bé ra, bóng dáng của cậu ta càng lúc càng mờ nhạt, cuối cùng, chỉ vương lại trên sàn một cánh Xá tử hoa, bị cơn gió lạnh ban đêm thổi qua, cuốn bay ra ngoài cửa sổ, biến mất vào bóng đêm của vườn hoa bên dưới.
Bạch Dực đứng bên cạnh cũng vỗ vỗ vai tôi ra hiệu, tôi nhìn anh ta rồi cùng anh ta rời khỏi gian phòng, lúc quay người đi, thấy ánh trăng dịu dàng che phủ hai bóng người bên trong, cơ thể của đứa bé trong suốt sáng bừng. Hai người bọn họ đang mỉm cười nhìn nhau.
Lúc ra cửa, tôi nhìn lại vườn hoa một lần nữa. Dưới ánh trăng, thiếu niên áo đỏ vẫn thinh lặng đứng đó, lẳng lặng nhìn lên cánh cửa sổ phòng nhân viên, bên khóe mắt cậu ta âm thầm rơi một giọt lệ trong suốt. Cậu ta quay sang nhìn chúng tôi, mấp máy môi, rõ ràng là đang nói cảm ơn.
Tôi cảm thấy mắt mình cũng hơi ươn ướt, bèn khụt khịt mũi, Bạch Dực đi bên cạnh kín đáo nhét vào tay tôi một cái khăn tay, nhưng tôi đẩy tay anh ta ra, quật cường nói:
“Tôi không có khóc, chỉ là gió lạnh quá nên khóe mắt hơi rát mà thôi.”
Anh ta thấp giọng ừ một tiếng, sau đó đột ngột ôm chầm lấy tôi từ phía sau. Tôi không kịp phản ứng, thoáng chốc ngây người ra, rồi khẽ đẩy đẩy anh ta:
“Lão Bạch, anh làm gì vậy?”
Anh ta im lặng một lúc, sau đó cười khẽ một tiếng:
“Có lạnh không?”
Chết tiệt, cái này… cái này không phải quá rõ rồi sao… lạnh cứng cả người rồi. Tôi gật đầu, đưa tay xoa xoa cổ, tên này… đừng có nói sát vào cổ người ta như vậy, ngứa lắm có biết không… Anh ta không chịu buông, chỉ ôm tôi chặt thêm:
“Lúc về nhớ gọi điện thoại cho nhà đi.”
“Sao vậy?”
Tôi ngạc nhiên quay lại nhìn anh ta. Anh ta làm ra vẻ thần bí cười hì hì với tôi:
“Mẹ cậu làm thịt bò muối còn ngon hơn đồ ăn ở nhà hàng này làm, nói mẹ cậu làm một ít gởi tới đi. Tự dưng muốn ăn quá.”
Hơi thở ấm áp chỉ cách gang tấc, tôi ngại ngùng nghiêng nghiêng đầu tránh đi, nhưng vẫn không quên thật thà gật đầu. Bạch Dực liếc nhìn tôi một cái, sau đó ôn hòa cười, buông lỏng tay. Tôi dường như còn nghe thấy anh ta thì thầm câu gì đó… nhưng vừa lúc một cơn gió thổi qua, đã cuốn câu nói ấy đi mất.
Tôi nghi hoặc nhìn anh ta, nhưng anh ta chỉ thản nhiên vỗ vỗ vai tôi như không có chuyện gì, giục tôi về mau. Tôi tự nghĩ có lẽ mình nghe lầm, nên cũng khỏa chặt áo khoác bước vội theo sau Bạch Dực về nhà.
Một tuần sau, mọi người đều ở trong nhà mừng năm mới, ngoài cửa treo một phong pháo dài, một mảnh xác pháo màu đỏ vương vãi trên đất. Tôi vẫn lo lắng cho bác Tôn nên không nói với Bạch Dực mà một mình tự tìm tới ngôi nhà cổ kia. Vẫn là con đường nhỏ với hàng cây phủ bóng lòa xòa trên những nếp nhà cổ kính, vẫn là bảng hiệu cũ, tôi bước qua cửa, cô phục vụ kia nhận ra tôi liền mỉm cười bước tới chào.
Tôi cũng cười chào hỏi cô, sau đó hỏi bác Tôn đang ở đâu rồi. Trong đôi mắt to tròn của cô gái thoáng chốc ướt nước:
“Bác Tôn không chờ được tới năm mới… Hóa ra bệnh của bác ấy không phải là xơ gan mà là ung thư gan giai đoạn cuối…”
Tôi vừa nghe thế liền cúi đầu chào tạm biệt cô phục vụ rồi bước vào thăm vườn hoa. Vườn hoa thiếu bóng dáng của ông lão, trông có vẻ hơi buồn bã, lá cây vẫn rào rạt rung động như muốn kể những câu chuyện xưa của ngôi nhà này. Tôi lặng lẽ ngắm một bụi hoa Xá tử hoa, bông hoa đã có dấu hiệu héo rũ, trên cánh hoa đỏ tươi bắt đầu lấm chấm những dấu đen của sự tàn úa. Tôi ngồi xổm xuống, lấy tay mơn nhẹ cánh hoa, nhẹ nhàng nói:
“Cảm ơn ngươi vẫn theo bảo vệ bọn họ, bao nhiêu năm nay khổ cực cho ngươi rồi.”
Đóa hoa hơi gợn lên theo nhịp gió, tỏa ra một mùi hương u nhã. Tôi ngồi ngắm hoa hồi lâu, quay đầu lại thì thấy Bạch Dực đã đứng đó chờ từ lúc nào. Tôi chùi nước mắt đọng trên má, ngẩng đầu nói với anh ta:
“Chúng ta về nhà thôi.”
Bạch Dực khẽ mỉm cười không nói gì, chỉ theo tôi quay người đi, chúng tôi sóng vai đi giữa con đường nhỏ, dưới tán che xào xạc của hàng cây bên đường, chầm chậm rời khỏi ngôi biệt thự cổ chất chứa biết bao câu chuyện xa xưa.
Ngôi nhà cổ – Hoàn