“Đó chỉ là một giấc mộng thôi mà, có nhiều chi tiết tôi cũng không nhớ kỹ lắm, chỉ nhớ cô bé dặn tôi nhất định phải đi lấy bức thư đó. Nó nói đó là hi vọng sống còn duy nhất của tôi, có thể thoát hiểm hay không là phải dựa vào đấy.”
Bạch Dực cau mày nâng ly trà uống cạn, vớ lấy áo khoác nói:
“Đi, đi lấy thư.”
Tôi há hốc miệng “A…” hồi lâu mới hoàn hồn kéo tay anh ta giật lại:
“Đại ca, anh biết bức thư đó nằm đâu không?”
Anh ta đã khoác xong áo, gật đầu nói:
“Thì ở trong nghĩa trang… À, quên mất hỏi mộ của cha Nhạc Lan nằm ở khu nào rồi…”
Nghe anh ta thản nhiên nói thế, mắt tôi cũng muốn trợn trắng theo, vội vã nhắc nhở:
“Người anh em à, anh nhớ bây giờ là mấy giờ rồi không vậy? Lúc này mà tìm tới nghĩa trang là tối mịt mù luôn ấy, lẽ nào anh định ra mộ tìm đồ giữa đêm tối sao?”
Nhưng anh ta dường như chẳng buồn nghe vào tai, chỉ khoát khoát tay ra vẻ không sao. Tôi định khuyên thêm vài câu, nhưng anh ta đã đưa ngón tay lên môi ra hiệu im lặng, sau đó gọi điện thoại đi đâu đó, thầm thì vài câu rồi quay lại nhìn tôi:
“Ngày hôm nay bỏ dạy à? Cậu thật là… Tôi ít ra còn xin nghỉ, còn cậu mới đúng là càng ngày càng to gan đấy!”
Lúc này tôi mới nhớ ra là cả ngày hôm nay đều trốn trong nhà không đi làm, cả xin nghỉ cũng không xin, chắc chắn lúc quay về thế nào cũng bị mắng tơi tả, nhưng lúc này trong lòng tôi quan trọng nhất vẫn là chuyện làm thế nào để tìm ra bức thư ngoài mộ kia hơn.
Bạch Dực mặc xong áo rồi bèn lục ra một cây đèn pin rồi hất cằm với tôi ra hiệu cùng đi. Tuy nghĩ đến nghĩa trang giờ này trong lòng cũng có phần hốt hoảng, nhưng dù sao cũng là chuyện sống còn của bản thân, Bạch Dực cả ngày hôm nay vì tôi mà đã bôn ba khắp nơi rồi, lẽ nào lúc này tôi có tư cách co vòi rụt cổ?
Tôi hít sâu một hơi lấy can đảm, đi rửa qua mặt rồi vơ áo khoác, tắt máy vi tính cùng Bạch Dực ra cửa. Trong lòng tự trấn an mình, lúc dầu sôi lửa bỏng này không nên đem hai chữ “cấm kỵ” ra tự hạn chế mình, không hành động lúc này sẽ không còn cơ hội nữa đâu. Tôi liếc sang Bạch Dực, thấy vành mắt anh ta đã viền đen, mái tóc rối bù, chẳng biết cả đêm qua đã lăn lộn những đâu.
Thấy sắc mặt mệt mỏi của anh ta, tôi thực sự cảm thấy băn khoăn, chần chừ mãi vẫn chỉ dám hỏi một câu:
“Lão Bạch… đã ăn tối chưa?”
Anh ta dường như không ngờ tôi sẽ hỏi như vậy, ngẩn ra một lúc mới trả lời:
“Chưa. Cậu cũng chưa ăn phải không, thôi để lên xe rồi mua đại thứ gì đó giải quyết tạm thôi. Lúc này không phải lúc lo lắng mấy thứ đó, chúng ta đã gặp phải một loại quỷ chú rất xưa rồi, thứ này vô cùng nguy hiểm, nếu không xử lý tốt sợ cậu thực sự không qua khỏi mất.”
Tôi vô thức gật gật đầu, kỳ thực tôi cũng không muốn hỏi câu kia, nhưng cụ thể muốn nói gì thì ngay cả bản thân tôi cũng không rõ nữa. Chúng tôi tạt qua siêu thị mua vài thứ ăn vặt cùng mấy ổ bánh mì, khi vừa lên xe đã mở ra ăn, không quản ánh mắt của mọi người xung quanh. Bạch Dực ăn rất vội, trông dáng vẻ như thể cả ngày hôm nay chưa có cái gì vào bụng.
Nhìn anh ta như thế lòng tôi chợt đau nhói, cả mắt cũng thoáng ướt đỏ. Những lúc thế này còn có được một người tốt như vậy ở bên cạnh, quả thực là ông trời quá biệt đãi tôi rồi. Tôi sụt sịt mũi vài cái, quay sang nói với Bạch Dực:
“Bạch Dực, thật sự cảm ơn anh, tôi không biết phải nói thế nào nữa… tôi, tôi thực lòng…”
Bạch Dực đang gặm cái bánh bao, nhìn tôi nhẹ cười:
“Không cần phải suy nghĩ nhiều như vậy, cũng đừng nói những câu khách sáo rợn da gà nữa, dù sao tôi cũng có quan hệ tới chuyện này mà. Chúng ta lúc này đều ở trên cùng một con thuyền, thuyền lật thì ai cũng không thoát chết. Hơn nữa cậu là nương tử của tôi mà, không giúp cậu tôi còn giúp ai nào?”
Nghe anh ta nói thế mặt tôi thoáng chốc đỏ bừng, bèn loay hoay mở cửa sổ để mong thoát khỏi bầu không khí xấu hổ. Tuy ngoài miệng mắng anh ta ăn nói lung tung, nhưng trong lòng tôi thực ra vẫn rất đau khổ. Bạch Dực nói không sai, chuyện này làm không khéo cũng sẽ ảnh hưởng tới anh ta, nếu cả hai muốn sống sót thì quả thực không nên khách sáo với nhau.
Người một nhà không cần phải khách khí, chính vì Bạch Dực chưa bao giờ coi tôi như người ngoài, cho nên anh ta không muốn tôi cảm ơn, cũng không cần tôi báo đáp. Nghĩ tới đó, lòng tôi chợt dâng lên chua xót, không thể nói rõ là cảm giác gì, chỉ biết miếng bánh mì trong miệng cũng hóa ra nhạt nhẽo hẳn, ăn mà cứ như nhai rơm.
Xe nhanh chóng đến trạm nghĩa trang, bình thường không có mấy ai dừng lại ở đây nên tài xế cũng không định ngừng, nhưng chúng tôi đã vội vã đứng bật dậy xin xuống xe. Tài xế nhìn chúng tôi kinh dị hồi lâu rồi mới từ từ mở cửa, còn chúng tôi cũng chỉ cắm cúi lo xuống xe, không nói thêm gì.
Đi được một đoạn, nhận thấy gió ở đây mạnh đến rát mặt, chúng tôi bèn khỏa chặt áo rồi vội vã hướng về phía nghĩa trang. Ở đầu nghĩa trang có cổng lớn, nhưng không cần mua vé này nọ mà cứ thế bước qua là được. Cổng xây thành hình đền thờ, trên bức hoành có khắc hai chữ “Tưởng nhớ” rất to.
Trước cổng xây ba cây cầu đá, hai bên bày mười hai bức tượng cẩm thạch tạc hình mười hai con giáp, làm tượng giữ lăng.
Tuy nói lúc này đã cách thời Cải cách văn hóa cũng vài thập kỉ rồi, nhưng xem ra người Trung Quốc vẫn giữ nếp truyền thống ma chay cưới hỏi của tổ tiên, bằng chứng là những cây cầu và những bức tượng này đều là phỏng theo lối cổ mà làm.
Ngày xưa, ở những khu mộ lớn người ta vẫn khắc những bức tượng thần thú giữ lăng bằng đá thế này, những cây cầu hàm ý chỉ hai bờ thế giới. Hai người chúng tôi rón rén bước qua cầu vào cổng, bên trong có một căn phòng nhỏ dành cho bảo vệ, nhưng lúc này không thấy ai ở trong trông coi.
Có lẽ là do lá gan kinh qua bao thử thách đã dày dạn lên nhiều, nên chúng tôi cũng cứ thế mà thẳng lưng bước tới phía trước. Phía bên trong có rất nhiều căn đình tạ bằng đá cùng với những bãi cỏ xanh mướt nhân tạo, nếu chỉ nhìn sơ qua quả thực sẽ cảm thấy hóa ra nghĩa địa cũng không có gì đáng sợ lắm, ngược lại còn có phần u nhàn thanh tĩnh nữa.
Tôi không dám to tiếng, chỉ dám hỏi thì thầm:
“Lão Bạch, cha của Nhạc Lan nằm ở khu nào nhỉ?”
Bạch Dực nhìn quanh hồi lâu mới mở đèn pin chiếu đường đi mà trả lời:
“Hình như đây mới chỉ là khu bên ngoài dành cho bảo vệ, nghe nói cha cô bé nằm ở lô số M – 12 khu Ngọc Lan. Chúng ta trước tiên vào trong khu vực chôn cất cái đã, rồi tìm khu Ngọc Lan.”
Đúng như Bạch Dực đã nói trước, vừa vượt qua khu đất bên ngoài, chúng tôi liền thấy ngay từng dãy từng dãy bia mộ, cùng với từng dãy từng dãy cây cối trồng ngay hàng thẳng lối tách những khu mộ khác nhau ra. Ở đây hoàn toàn không có đèn, giơ bàn tay lên chắc cũng chẳng nhìn thấy ngón.
May mà Bạch Dực có mang theo đèn pin, bằng không hai người còn sống đường hoàng mà lại sờ soạng trong bóng đêm giữa nghĩa địa đi tìm thứ này thứ kia quả thực là một hình ảnh quá mức quái đản cùng kinh dị. Thế nhưng đây không phải khu Ngọc Lan. Chúng tôi lại lén vào nên không dám đi trên lối đi thẳng thớm bên ngoài sợ có bảo vệ đi kiểm tra, chỉ dám men theo những loại cây trồng xung quanh mà đoán khu mộ, quá trình này quả thực đã làm thần kinh tôi căng thẳng.
Sắp mò mẫm cả mười lăm phút đồng hồ, mà lại phải lom khom cúi thấp người vừa đi vừa tìm, nên không ít lần phải nhìn thẳng vào những tấm ảnh chụp khảm trên bia. Ban ngày nhìn thôi đã đủ thấy lành lạnh, huống chi đến ban đêm thì những nụ cười cứng ngắc méo mó của những người chết này thực sự khiến tôi dựng hết cả tóc gáy. Tôi kéo tay Bạch Dực nói:
“Lão Bạch, chúng ta ra ngoài lối đi mà tìm bảng chỉ đường thôi, đi kiểu này sợ quá!”
Bạch Dực ngẩng đầu nhìn ánh trăng, thấy mặt trăng hôm nay chỉ còn là một quầng sáng mờ mờ ảo ảo, mà gió thì càng lúc càng lớn, thổi tóc chúng tôi bay tán loạn, liền gật đầu:
“Nói phải, tôi cũng có cảm giác mình lạc đường rồi… Vầy đi, chúng ta ra ngoài đường nhìn một chút, nếu không có ai thì cứ theo đường lớn mà đi vậy. Chứ cứ nhấp nhổm thế này sợ tìm đến sáng mai cũng chẳng ra.”
Thế là hai chúng tôi quay ngược lại, trở về con đường lớn nơi có bảng chỉ dẫn. Thực ra khu này cũng không khác gì một cái công viên, đều chia thành từng khu từng khu riêng biệt nối tiếp nhau, cho nên chỉ cần nhìn bảng chỉ dẫn một cái là sẽ rất dễ dàng tìm được vị trí cần tìm.
Nhưng lúc này điều tôi lo lắng nhất chính là không biết lá thư kia có còn ở lại chỗ cũ hay không, dù sao từ đó đến nay cũng đã qua một thời gian, mà khu mộ này thể nào cũng có người tới quét dọn thường xuyên, lỡ như bức thư bị bọn họ lấy đi mất rồi thì tôi đây quả thực chỉ có tàn đời.
Nhưng nghĩ đi rồi lại phải nghĩ lại, nếu Nhạc Lan vốn ghi bên ngoài bức thư là gửi cho tôi, thì người nào bắt được hẳn đã gửi đến chỗ tôi rồi? Tôi chưa nhận được thứ gì, có lẽ là bức thư hãy còn ở đây. Khi chúng tôi trở lại đường lớn vẫn thấy vắng tanh không một bóng người, bèn an tâm thoải mái ra xem bảng chỉ đường.
Kết quả là phát hiện khu Ngọc Lan hóa ra nằm ngay phía sau cái khu mộ lúc nãy chúng tôi đã đi qua, đành phải lần nữa ngược trở lại. Nhưng lúc này không cần cúi người men theo mộ tìm kiếm, mà là thẳng đường mà bước thẳng lưng mà đi, cho nên chẳng mấy chốc đã tìm tới lối rẽ nhỏ dẫn vào khu Ngọc Lan bên trong.
Lối rẽ này rất hẹp chỉ vừa một người bước, nhưng tôi không có can đảm đi phía sau Bạch Dực, nên cứ kiên gan sóng bước bên cạnh anh ta. Vì lối đi hẹp quá, nên mấy lần sẩy chân đạp cả lên những ngôi mộ hai bên, tôi đành phải vừa đi vừa âm thầm cầu xin:
“Các vị đừng trách tôi, tôi không còn cách nào khác, đắc tội đắc tội…”
Bạch Dực nhìn thấy bộ dạng thấp thỏm của tôi, thở dài một cái rồi quàng tay qua vai tôi kéo sát tôi vào lòng anh. Tôi thành ra dựa sát vào lồng ngực Bạch Dực mà đi, tuy thoạt nhìn tư thế có vẻ hơi kỳ quái vì trông giống một cặp tình nhân đi dạo, nhưng khác chính là chúng tôi không dạo công viên mà lại dạo nghĩa địa; huống chi quả nhiên cách này làm tiết kiệm được không ít thời gian, hơn nữa vì kề sát nhau mà cảm thấy trong lòng yên tâm hơn hẳn.
Tôi cảm kích ngẩng đầu nhìn Bạch Dực, anh cũng cười cười vỗ nhẹ vai tôi, ý bảo đi mau. Khu nghĩa địa vốn đã hoang vắng, mà bia mộ bốn phía dường như lại còn hút hết mọi âm thanh gây ra, xung quanh chỉ còn tiếng bước chân và hít thở khe khẽ của chúng tôi. Đây là lần đầu tiên tôi dám ra thăm mồ vào ban đêm, nên nhịp thở rất gấp gáp, trống ngực đập bình bịch, nhưng đáng ngạc nhiên là vì sợ hãi thì ít mà vì hưng phấn thì nhiều.
Chung quanh tối đen như mực, ánh sáng của đèn pin chỉ đủ soi rọi khoảng hai thước trước mặt, còn xa xa chỉ có một màu đen u ám nhè nhoẹt. Được chôn dưới này là tro cốt đã được hỏa thiêu, nên trong nghĩa địa không có những ánh lửa ma trơi lập lòe như những nghĩa địa chôn xác ở nông thôn, nhưng xa xa vẫn thấp thoáng những cái bóng nhập nhòe loang loáng, nhìn lại lần nữa thì lại chẳng thấy cái gì.
Tim tôi trầm xuống, quả nhiên vẫn là chạm phải những thứ không nên, vì thế tôi không nhìn lên nữa, chỉ chăm chú xuống lối đi dưới chân mình phó mặc cho Bạch Dực dẫn đi. Rốt cuộc cũng tới được khu Ngọc Lan, khu này dành cho những phần mộ độc táng (chôn một mình) nên khác xa với khu phu thê hợp táng ở phía trước, cũng có nhiều phần mộ là của những người chưa kết hôn hoặc ra đi khi còn trẻ.
Chúng tôi lại len sát vào từng tấm bia mà tìm kiếm, nhưng khu này cách đường ngoài rất xa, có lẽ bảo vệ cũng hiếm khi tìm tới, cũng không sợ nửa chừng bị quấy rầy.
Tra theo từng tấm từng tấm bia một, chỉ chốc lát đã tìm thấy phần mộ của cha Nhạc Lan. Ánh mắt của ông ta đúng là giống con gái như đúc, chỉ có điều còn lạnh lùng và cố chấp hơn nhiều, đây chính là người đã tạo ra bi kịch cả đời cho mình và cho con gái mình.
Tôi không muốn nhìn di ảnh của ông ta nữa, lẳng lặng quay tứ phía tìm chỗ có thể cất bức thư. Mà nhắc tới cũng cảm thấy thật thê lương, một người sống rành rành khỏe mạnh như vậy, sau khi tạ thế rồi lại chỉ gửi toàn bộ những gì còn lại của mình vào một cái hộp con con, tro bụi bám đầy, không nhang đèn cũng chẳng hoa tươi cúng bái, chỉ còn lại một tấm bia cẩm thạch trơ trụi, sao mà thê thảm.
Nhưng tìm quanh mộ một lúc, vẫn không thấy gì.
“Cậu xem kìa, chỗ kia có phải tự nhiên dư ra một ngôi mộ không?”
Tôi khẽ run lên một cái, quay đầu nhìn lại, rồi lập tức hít mạnh một hơi, giữa một khu đất bằng phẳng lẽ ra phải trống trơn, quả nhiên dôi ra một nấm mộ. Vì mộ xung quanh đều được sắp xếp quá sức chỉnh tề, nên khi tự nhiên dư ra một phần giữa khu đất trống trải, tự nhiên có cảm giác thật quỷ dị. Tôi run run định nói gì đó, nhưng lại không thốt nổi nên lời.
Chỗ đó dù sao cũng chỉ là thêm một phần mộ thôi, nên nói cái gì bây giờ? Có khi chỗ đó sắp khai phá cũng không chừng… Vì thế lại vỗ vỗ mặt mình quay lại tiếp tục công cuộc tìm kiếm. Cuối cùng, ở cái khe giáp giữa tấm bia với cái bệ đá, tôi mò được một cái gì đó gói cẩn thận trong bao nylon, lấy ra xem, quả nhiên là một bức thư.
Tôi thấy đã tìm được bèn mừng rỡ quay đầu lại phía sau định nói cho Bạch Dực biết, chợt rợn người phát hiện… sau lưng không có ai cả. Tôi run bắn người, lúc nãy rõ ràng còn nghe tiếng anh ta sau lưng kia mà, sao bây giờ lại biến đâu mất?! Bất thình lình ai đó vỗ mạnh vào vai tôi một cái, tôi nhất thời kinh hoảng đến giật nảy cả người, cơ thể mất cân bằng ngã chúi về phía trước.
May thay có ai đó kịp ôm tôi lại, tôi mới không tới nỗi dùng lỗ mũi ăn trầu tế bái cha Nhạc Lan. Từ phía sau nghe tiếng Bạch Dực kinh hoảng gọi:
“Nhìn đi đâu vậy hả, tìm được rồi thì đi thôi chứ!”
Tôi còn chưa kịp đứng vững đã bị Bạch Dực kéo mạnh lên, thấy tôi có vẻ lạ lùng, anh ta dường cũng hiểu ra cái gì đó, cúi đầu mắng nhỏ một câu rồi ôm chặt lấy vai tôi kéo đi. Tôi nhịn không được quay lại đằng sau len lén nhìn ngôi mộ lẻ loi kia một cái, phát hiện trước mộ lúc này… có một bóng người đang ngồi xổm ở đó, đang nhìn về phía hai chúng tôi!
Tôi hấp tấp quay phắt đi, trong dạ dày trào lên cảm giác như muốn nôn. Bèn run run hỏi:
“Lúc nãy anh ở bên trái tôi kia mà, sao sau đó lại đổi thành bên phải?”
Bạch Dực dừng lại một chút:
“Không, từ đầu tôi vẫn luôn ở bên phải cậu.”
Câu trả lời của anh ta làm gương mặt tôi cứng đờ, mãi sau mới rặn ra một nụ cười méo xệch:
“Nhưng sau lưng tôi khi nãy đúng là có người mà, còn nói cho tôi biết chỗ kia có một ngôi mộ…”
Tôi đợi Bạch Dực lên tiếng giải thích, nhưng anh ta chỉ nhìn tôi mà kiên trì lập lại:
“Tôi chỉ ở bên phải cậu.”
Đủ rồi, tôi cũng không quan tâm bên trái hay bên phải nữa, lúc này chỉ mong làm sao sớm thoát ra khỏi đây. Chúng tôi đi gần như chạy ra khỏi khu mộ, cho tới khi đứng trước cổng nghĩa địa, Bạch Dực chợt dừng lại hỏi tôi:
“Có mang tiền lẻ không?”
Tôi móc trong túi ra mấy đồng tiền xu, Bạch Dực cầm trên tay lầm rầm mấy câu thần chú, lại rút bật lửa ra hơ hơ mấy cái trên đồng tiền rồi ném thẳng ra sau lưng. Nhưng tôi chờ mãi mà không hề nghe thấy tiếng tiền rơi, nên định quay đầu lại nhìn xem.
Bạch Dực vội vã nắm chặt vai tôi, rít khẽ:
“Đừng quay đầu lại, đó là tiền mãi lộ tặng cho bọn cô hồn dã quỷ để chúng đừng theo chúng ta nữa!”
Nói xong liền túm chặt tay tôi lôi ra ngoài, cho đến khi thoát hẳn khỏi cánh cổng nghĩa địa, chúng tôi mới thở phào được một cái. Thực ra lá gan của tôi có thể nói là được Bạch Dực tôi luyện qua nhiều phen nay cũng đã lớn hơn nhiều, gặp chuyện kinh khủng thế này cũng không quá sợ hãi, chứ nếu là ngày xưa thì e là đã sớm chạy ra đây ngồi nôn thốc nôn tháo rồi. Nghĩ vậy, tôi lại vô thức siết chặt thêm cái bao đựng lá thư trong tay.
Bạch Dực chà chà hai tay vào nhau cho đỡ lạnh và bảo tôi:
“Gọi taxi thôi, chứ ở đây sợ không có phương tiện giao thông công cộng.”
Đúng vậy, tuyến xe bus đã chở chúng tôi tới đây hết xe rất sớm, lúc này đã không còn chạy nữa, nếu muốn về quả thực chỉ có nước đón xe taxi. Chúng tôi đứng ra bên vệ đường lớn chờ mãi, gần hai mươi phút đứng chịu gió lạnh mới có một chiếc xe trờ tới.
Tài xế nhìn chúng tôi đầy vẻ nghi ngại, có lẽ rất thắc mắc vì sao hai người chúng tôi khuya thế này còn lảng vảng gần nghĩa địa, từ vẻ mặt của anh ta thậm chí còn có thể thấy anh ta rõ ràng đang nghi ngờ chúng tôi có phải là người hay không nữa. Tôi bèn vội vàng giải thích:
“Anh ơi, tụi tôi là nhân viên bảo vệ nghĩa trang, ngày hôm nay phải tăng ca nên mới ra trễ thế này.”
Anh ta còn bán tín bán nghi, nhưng chúng tôi cũng không quan tâm nữa, chỉ mau mau lên xe cho anh ta địa chỉ bảo anh ta đi nhanh nhanh, chứ đứng trước nghĩa địa quá lâu quả thực không tốt.
Về tới nhà rồi cũng không buồn nghỉ ngơi, tôi vội vã tháo bao nylon lấy bức thư ra, lúc này mới nhớ lại là khi Nhạc Lan còn sống, đã mấy lần tôi nhìn thấy cô bé cặm cụi viết viết xóa xóa cái gì đó, tờ giấy khi ấy rất giống phong thư này… lẽ nào kể từ lúc đó nó đã chuẩn bị bức thư này cho tôi sao?
Bạch Dực cầm thư bắt đầu đọc ngay. Cả ngày anh ta đã phải khẩn trương vất vả một hồi, lúc này trên trán hãy còn mồ hôi lấm tấm. Tôi dù sao vẫn còn đỡ hơn vì được ngủ tới trưa, nên lúc này tôi bèn đi rót cho Bạch Dực một ly trà, sau đó ngồi xuống bên cạnh cùng đọc thư.
Nét chữ của Nhạc Lan rất ngay ngắn đường hoàng, từng nét từng nét cứng cỏi rõ ràng viết đầy cả trang giấy. Dưới đây là nội dung bức thư: Thưa thầy An, Khi thầy đọc thấy bức thư này thì có lẽ em đã không còn trên đời này nữa. Em là một đứa trẻ không hạnh phúc, những người đã từng tiếp xúc với em cũng không may mắn.
Vì em nhìn thấy trước cái chết, giống như đã nhìn thấy cái chết của cha, và cả cái chết của chính mình, nhưng lại chỉ có thể đứng một bên bất lực, cho nên mọi người xung quanh đều nhìn em ghét bỏ và khinh bỉ. Thầy An là một trong số rất ít người đối xử tốt với em nhất, cho nên em thực sự không muốn nói cho thầy biết chuyện này, nhưng lại không thể không nói.
Em dằn vặt rất lâu rất lâu, nhưng nếu không nói cho thầy biết, em nghĩ em sẽ có lỗi với thầy. Cho nên trước khi chết, thể nào cũng phải viết bức thư này, đây là di chúc của em, cũng là dự báo cuối cùng của em. Em nhìn thấy cái chết của thầy…
Đúng, em đã nhìn thấy thầy chết, hơn nữa còn là chết vô cùng quái dị. Ngay lúc này đây nhớ lại em còn cảm thấy đáng sợ, em không thể xác định thời gian, cũng không thể xác định nơi chốn hay nguyên nhân vì sao thầy chết. Nhưng em đã nhìn thấy một cái bóng đen, nó vẫn luôn theo sát bên cạnh thầy. Nó ở bên cạnh thầy, luôn luôn ở bên cạnh.
Tiếp theo em sẽ kể cho thầy biết những gì em nhìn thấy. Em thấy rất nhiều rất nhiều nước, trong nước đầy tràn tiếng khóc than; còn có rất nhiều cánh cửa, từng cánh từng cánh lần lượt mở ra; bên trong là một cái động sâu rất đen rất tối. Trong động chất đống thi thể, tất cả đều đã thối rữa đen ngòm, không khí chung quanh lạnh như băng, lạnh tới nỗi làm người ta nghĩ tới mộ phần.
Thầy nằm trên một cái quan tài bằng đá, cả người đều là máu, mắt mở trợn trừng, miệng há hốc cũng toàn máu, giống như đã nhìn thấy thứ gì đó rất kinh khủng trước khi chết vậy… Trên bốn phía vách động đều là những bức họa kì quái màu đỏ rực, nhìn không hiểu là cái gì.
Em muốn tiến đến gần quan tài chỗ thầy, nhưng không sao bước về phía đó được, mà kinh khủng nhất là bên cạnh thầy có một con quái vật… Một con quái vật rất đáng sợ. Nó cứ chờn vờn xung quanh đó, nhìn thầy chằm chằm, nhưng em không nhìn thấy rõ diện mạo của nó, vì xung quanh nó phủ đầy khói đen. Ở trong động còn một người nữa, là thầy Bạch Dực, thầy ấy ngồi dưới đất, cả người cũng đầy máu, thầy ấy bị thương rất nặng, nhưng chưa chết.
Thầy ấy cũng cố gắng hướng về phía thầy mà nhích đến nhưng cũng không thể tới gần được. Còn một người nữa, trong động còn một người nữa! Em nhận không ra người này, nhưng anh ta cũng sắp chết. Em nhìn thấy một điều rất quái lạ, đó là, em đã thấy đôi mắt của mình!
Không sai, trong số những hình vẽ quái lạ trên vách, em đã nhìn thấy một đôi mắt mà từ trong đó vươn ra rất nhiều rất nhiều bàn tay, xung quanh nó đều là xương khô, thực sự rất giống đôi mắt của em. Những bức họa ấy đều được sắp xếp theo một trình tự nào đó, bên cạnh đôi mắt của em là hình vẽ một gốc cây rất to, trên cây treo đầy đầu lâu. Có hai người cúng bái trước cái cây.
Bức họa thứ ba vẽ rất nhiều phụ nữ mang thai bò từ trong một cái động đen ngòm đi ra, trên mặt họ đầy vẻ tuyệt vọng. Bọn họ giống như bị trói chặt ở ngay cuống rốn của mình, muốn trốn mà trốn không thoát. Em muốn nhìn bức thứ tư, nhưng nó đã bị máu đồ đỏ lòm rồi, chỉ có thể loáng thoáng nhìn thấy một cô gái, một cô gái đang ngồi trước gương trang điểm.
Sau đó không nhìn thấy cái gì nữa. Khi em tỉnh lại từ trong ảo giác thì thấy bản thân vẫn còn ngồi trong lớp học, thầy đang giảng bài bên trên, chủ đề là học về những bức bích họa (tranh trên tường) trong hang động… Màu đỏ của những bức họa thầy giảng quả thực giống hệt như những bức họa em đã thấy… Đó là toàn bộ những gì em nhìn thấy.
Tuy nói ra có thể thầy không tin, nhưng xin thầy hãy nghe em: tuyệt đối đừng tới gần nước, tuyệt đối đừng rời xa thầy Bạch Dực. Thầy ấy là người duy nhất có thể cứu thầy, còn nữa, cái bóng đen kia vẫn luôn ở bên cạnh thầy, có thể là bất kỳ ai xung quanh.
Vì thế thầy đừng nên dễ dàng tin tưởng người nào, hãy dùng chính mắt mình mà xét đoán mọi việc. Những việc này liên tiếp với nhau, tiếp theo còn có thể có nhiều chuyện phát sinh. Có thể thầy sẽ thoát, vì em cảm thấy cái chết của thầy quá kỳ quái, dường như một thứ nghi thức vậy, loại này, cứ như thể tế thần ngày xưa!
Cuối cùng, em muốn cảm ơn thầy vì thầy đã luôn giúp đỡ em, dù rằng có lẽ em cũng không còn cơ hội trực tiếp nói với thầy lời cảm tạ nữa… Nhạc Lan vĩnh biệt. Bạch Dực chậm rãi buông bức thư xuống nhìn chằm chằm nền nhà như muốn dùng ánh mắt mình đào một cái lỗ thủng trên đó luôn vậy.
Tôi cầm lấy thư xem xét, thấy Nhạc Lan còn vẽ lại những hình ảnh mà mình đã nhìn thấy nữa, nhưng cảnh trong tranh đều rất mơ hồ, dưới con mắt của tôi chẳng khác nào những đồ án kỳ quái của các dân tộc thiểu số.
Nhưng nội dung của chúng thì có thể đại khái nhìn ra được. Xem hết thư xong, chỉ cảm thấy đầu nhức bưng bưng, cảm giác như bị ai đó thít chặt cổ không sao thở được vậy. Vì thế, tôi cởi bớt cổ áo, xoa xoa cái cổ đã toát đầy mồ hôi lạnh mà hỏi Bạch Dực:
“Anh có ý kiến gì không?”