Lỗ tai tôi tuy đã được nhét kín bằng tai nghe máy nghe nhạc, nhưng vẫn bị các thanh âm lúc cao lúc thấp ấy dội vào đến phát đau.
Đột nhiên trong đám thanh âm líu ríu chợt một chất giọng cất cao vút lên, một tiếng hét tông giọng cực cao đủ sức làm rách màng nhĩ người bình thường, tôi nhăn mặt quay hẳn lại nhìn, hóa ra là các cô nàng tụ lại với nhau dưới cuối xe kể chuyện ma, cô bé vừa cao giọng hét lên cũng tự biết mình luống cuống, vội che miệng lè lưỡi thấp giọng giục người kể kể tiếp mau.
Tôi dùng ngón tay gõ gõ lên đệm ngồi, nói:
“Lục Tử, đừng kể chuyện nhảm nhí nữa đi, các cô bé này đều là học sinh, cậu mà nói bậy là tôi cho cậu xuống xe đi bộ về nhà bây giờ! Thật là, không biết bao nhiêu tuổi rồi mà còn không biết đàng hoàng, cư xử như người lớn xem nào!”
Người đang hăng say kể chuyện không phải ai khác, chính thị là tên khốn vô công rồi nghề Lục Tử. Có thể là do trong xe quá ồn nên Bạch Dực đang ngồi ngủ bên cạnh tôi cũng chậm rãi cựa mình, mắt nhíu nhíu như muốn dậy.
Lục Tử nhô đầu lên đáp:
“Tớ chỉ đang kể lại những chuyện tụi mình mắt thấy tai nghe thôi mà, chuyện nào cũng có thật trăm phần trăm, nói bậy là nói bậy thế nào được!”
Vừa nhìn thấy tên khốn này ló mặt ra, tôi vội vàng vươn người tới nói nhỏ:
“Đừng có cái quỷ gì cũng nói lung tung, nói cho cậu biết, các cô bé này đều là học trò của chị Nguyệt Linh cả đấy, nếu lỡ có chuyện gì không may thì cậu tự mình tới tìm mỹ nhân cao quý kia mà xin lỗi, đừng trông cậy vào tụi này!”
Lục Tử vừa nghe nhắc tới Bạch Nguyệt Linh, cặp mắt lập tức sáng lên như đèn pha, cười hềnh hệch thật bỉ ổi:
“Đừng nói nữa mà, tớ thật không biết lão Bạch có một thân nhân xinh đẹp tới mức đó đó nha, mẹ nó chứ, tớ gặp qua không biết bao nhiêu nàng rồi, mà thực chưa có ai đẹp đến được như vậy nha!”
Tôi điên tiết ghì chặt cổ áo của Lục Tử tới gần, xém chút nữa làm hắn té sấp về phía trước mà gầm gừ:
“Đừng có mà tìm cách dở trò, ta nói cho mi biết, mi tán tỉnh bao nhiêu cô nàng rồi ta không quan tâm, nhưng mở to mắt ra mà nhìn đi! Đạo hạnh cỡ như mi có khi chỉ bằng cái móng tay của người ta, đừng có mà nhắm mắt nhắm mũi xông bừa vào làm xấu mặt! Huống chi chị ấy là cô họ của Bạch Dực, chúng ta tuy gọi chị ấy là chị, nhưng xét thân phận mi còn phải gọi người ta một tiếng ‘dì’ kia! Chết tiệt nhà mi, chẳng lẽ mi với dì của mình mà cũng sinh nổi tà tâm hả?!”
Lục Tử cười gượng định nói thêm cái gì, chợt Triệu Vân Vân lúc trước gặp phải Tang Hỉ quỷ sát cũng ló mặt lên, hỏi chúng tôi đang nói gì mà lâu thế. Tôi thấy cô bé, cũng không tiện nhe nanh múa vuốt nữa, đành cười hì hì nói:
“Không có gì, các bạn kể chuyện tiếp đi.”
Sau đó thuận tay vỗ vỗ vai Lục Tử, chỉ có điều vỗ rất thật lực, coi như cho hắn lời cảnh cáo cuối cùng. Triệu Vân Vân nhìn Bạch Dực đang ngủ gà ngủ gật bên cạnh tôi, sau đó quay sang nói với tôi:
“Vậy anh Tiểu An cũng sang đây nói chuyện với tụi em đi, Bạch đại ca hình như ngủ say rồi mà.”
Tôi khoát khoát tay:
“Thôi khỏi, xe chạy xóc quá, tôi muốn ngồi chứ không muốn đứng lên đâu. Các bạn cứ nói chuyện đi, chừng nào tới nơi gọi tôi một tiếng, tôi giúp các bạn xách hành lý.”
Triệu Vân Vân nhìn tôi cười cười rồi rụt đầu xuống, những tiếng cười lanh lảnh như băng tan ngọc chạm lại dần dần vang lên. Tôi đang chuẩn bị đeo tai nghe nhắm mắt ngủ một chút, chợt nghe tiếng Bạch Dực vang lên, chẳng biết đã dậy từ bao giờ:
“Tới đâu rồi?”
Tôi nhìn ra cảnh vật bên ngoài, phát hiện đã ra khỏi thành phố, xung quanh là những ruộng hoa cải dầu vàng rực, có lẽ sắp qua ngoại thành, đi đến miền quê rồi, bèn đáp:
“Còn chưa tới đâu, chắc phải ít lâu nữa.”
Bạch Dực ừm nhẹ một tiếng, hơi vươn thẳng người dậy cầm chai nước khoáng tu một hơi, im lặng ngắm nhìn màu hoa vàng rực ngoài cửa sổ, rồi đưa tay mở cả cửa kính ra. Gió lập tức thổi thốc vào, không lạnh lắm, vừa vặn thổi đi mọi phiền toái ồn ào lúc nãy, còn mang theo một mùi hương cỏ xanh mát dịu.
Một hồi lâu mới nghe anh ta nói nhỏ:
“Lễ một tháng năm còn phiền cậu đi làm cu li, xin lỗi.”
Tôi biết anh ta đang nhắc tới đợt lưu diễn của đoàn kịch lần này, vốn dĩ khó khăn lắm mới có một kỳ nghỉ dài nhân dịp mùng một tháng năm, tôi định về nhà thăm ba mẹ, nhưng khi tôi chuẩn bị đi mua vé xe lửa thì Bạch Nguyệt Linh đã xuất hiện, nói muốn nhờ chúng tôi theo hỗ trợ đợt lưu diễn của đoàn kịch Lê Viên của chị ấy.
Mà chúng tôi một là không biết hát, hai là không biết diễn, vừa nghe là biết ngay đi theo chỉ có làm phu khuân vác. Bất quá mỹ nhân cao quý vừa mỉm cười một cái, tôi đã theo phản xạ gật đầu, thậm chí còn chẳng kịp suy nghĩ được cái gì.
Bạch Dực là vai cháu, đương nhiên không thể chối từ, nhưng chưa hết, Bạch Nguyệt Linh tới tìm chúng tôi cũng thật đúng lúc, nhằm ngày Lục Tử tới nhăm nhe ăn chực. Thế là mọi sự xong xuôi, trong mắt Bạch Nguyệt Linh, Lục Tử là lực lượng lao động bổ sung; còn trong mắt tên ngốc Lục Tử, đây là cơ may chuột sa chĩnh gạo trời cho.
Nói là đi lưu diễn nhưng số người không nhiều, còn chưa bằng một lớp học sinh trường tôi đi tham quan viện bảo tàng, nói thẳng ra là tổng cộng chỉ có bảy tám cô nương. Trong số đó có Triệu Vân Vân đã từng được chúng tôi giúp đỡ lúc trước, cô bé có vẻ là một học sinh được Bạch Nguyệt Linh yêu thích.
Huống chi loại trình diễn nhỏ lẻ này cũng chỉ là trình diễn vài trích đoạn ngắn, không cần tập những vở Kinh kịch dài nên cũng không cần nhiều diễn viên. Ngay cả ban nhạc cũng không mang theo, chỉ cần tới nơi trình diễn tập với ban nhạc của sân khấu địa phương vài lần là được.
Vì thế chị Bạch Nguyệt Linh đã đến chỗ đó trước để sắp xếp chỗ ăn chỗ nghỉ cho cả đoàn, còn chúng tôi chịu trách nhiệm theo xe hộ tống các cô bé này tới nơi chuẩn bị trình diễn.
Tôi thấy Bạch Dực cũng đã tỉnh, liền tháo tai nghe tò mò hỏi:
“Lão Bạch, các cô bé này cũng chỉ mới là học sinh, vậy mà đã đi trình diễn rồi sao?”
Bạch Dực dường như còn chưa tỉnh táo hẳn, lắc lắc đầu mấy cái mới có sức trả lời:
“Chị Nguyệt Linh thỉnh thoảng tự mình tổ chức mấy hoạt động trình diễn phục vụ quần chúng, trường học cũng tán thành, thứ nhất là có thể giúp các học sinh tích lũy thêm kinh nghiệm diễn xuất, thứ hai là có thêm một chút thu nhập. Chỉ có điều không phải là sân khấu chuyên nghiệp, toàn là biểu diễn nhỏ, cho nên có lúc chị Nguyệt Linh còn phải tự bỏ tiền túi thuê xe và chỗ trọ nữa.”
Tôi ngẩn ra một chút, thảo nào mà cần đến đó trước chuẩn bị, hóa ra là do chị ấy tự mình tổ chức tất cả, đúng là một giáo viên mẫu mực! Tôi ho khan một chút đầy xấu hổ, trong lòng tự hỏi có nên chọn một ngày nào đó đưa học sinh của mình ra công viên vẽ cây xanh không nhỉ?
Bạch Dực thức thời liếc nhìn tôi một cái:
“Đừng mơ mộng lung tung, cậu cho Phan hói là ông phỗng đá à? Nhưng dù sao cũng cảm ơn cậu hôm nay nhận lời giúp đỡ, nếu không một mình tôi khiêng đám rương hòm này chắc chết mất.”
Tôi nghe anh ta nói khách sáo, tự nhiên cảm thấy xấu hổ, liền khẽ huých khuỷu tay vào người anh ta một cái bông đùa:
“Anh em bạn thân bao lâu nay, anh còn khách sáo như thế làm gì! Huống chi đây có thể coi như một chuyến du lịch không tồi, đúng không?”
Tiền bạc không phải lo, hơn nữa còn có một đám thiếu nữ xinh xắn làm bạn, tôi còn tưởng mình vừa lạc vào Đại Quan Viên trong Hồng Lâu Mộng kia. Bạch Dực cũng lặng lẽ mỉm cười, đột nhiên lại nghĩ ra cái gì, bèn móc một vật từ trong túi áo sơ mi ra nói:
“À phải, lúc trước cái bùa hộ mệnh bằng vàng của cậu bị tôi làm hư rồi, tôi đền cho cậu cái này, cầm lấy.”
Tôi cầm lấy nhìn, phát hiện đó là một thứ trông rất kỳ quái, không phải những loại bùa hộ mệnh làm bằng vàng bạc thường bán ở thành phố, mà là một loại hóa thạch nào đó, có hình tròn, ở giữa còn có những đường rạn mảnh, màu vôi xỉn nhàn nhạt, còn có vài chỗ ngả vàng.
Bạch Dực đã dùng một sợi dây xuyên qua thành dây đeo. Tôi cầm lấy thứ đó hướng về phía ánh mặt trời nhìn cho kỹ, nhưng vẫn không nhận ra đây là cái gì. Bèn hỏi:
“Lão Bạch, thứ này là cái gì vậy? Sao cứ có cảm giác như là một miếng xương thế? Đừng nói là anh kiếm một khúc xương gà về làm bùa hộ mệnh cho tôi đó nha!”
Tôi cũng không nhìn sang Bạch Dực mà chỉ chăm chăm nhìn vào vật nhỏ bé đặt trong tay, chợt nghe Bạch Dực lên tiếng:
“Ừ, nó là một miếng xương. Nhưng nó tuyệt đối có công hiệu hơn cái bùa cũ của cậu đấy, mà có lẽ trên thế giới này chỉ có được một mảnh như thế này mà thôi.”
Tôi vừa nghe cục xương này đáng giá như vậy, lập tức dúi nó lại vào tay Bạch Dực:
“Thôi đi, đại ca, thứ này quý giá như vậy, tuy cái bùa cũ của tôi bằng vàng nhưng mà e là chẳng đáng gì so với cái này hết, đúng không? Mất rồi thì thôi đi, lần sau để tôi bắt Lục Tử kiếm cho một cái mới, thứ quý giá như vầy anh giữ lại là hơn.”
Anh ta nhìn tôi một lát, rồi cởi sợi dây đeo ra đeo vào cổ cho tôi, sau đó nói:
“Cứ mang đi, nói nó đáng giá là vì nó hữu hiệu, chứ thứ này mà đem đi bán thì may ra chỉ có chợ đồng nát nó mua!”
Nghe anh ta nói thế tôi càng thêm tò mò với cái bùa này, liền hỏi:
“Vậy đây rốt cuộc là cái gì? Đừng nói là… là… xương người chết đó nha…”
Bạch Dực lắc đầu, đưa sát mặt tới nhìn sâu vào mắt tôi nói:
“Không phải xương người chết đâu, tôi còn chưa thiếu đạo đức tới mức đó, cứ yên tâm mà mang, dù sao thì bây giờ nói ra cậu cũng không hiểu. Chỉ có điều sau này tuyệt đối không được cởi nó ra, có đi tắm cũng phải mang nó trên cổ, nói chung cấm không được cởi ra, biết chưa?”
Bạch Dực luôn luôn làm việc rất bí hiểm, nhưng có thể khẳng định một điều là anh ta không bao giờ làm những việc vô ích không đâu.
Ở cùng anh ta biết bao lâu, gặp không biết bao nhiêu chuyện quái dị, nhưng trong mắt Bạch Dực mọi thứ đều chuyển động theo một quy luật hết sức rõ ràng và chắc chắn, một người như anh ta, về phương diện tình cảm có thể hơi khô khan, nhưng nếu xét những vấn đề thuộc về phạm trù phân tích và xử lý thông tin thì dám cá đầu óc anh ta hoàn toàn có thể so sánh với một bộ vi xử lý lõi kép hai nhân.
Huống chi ngay chính tôi cũng cảm thấy những chuyện quái dị xảy ra bên cạnh mình càng lúc càng nhiều, có cảm giác như một thứ gì đó vừa bị khởi động, một cái bánh xe quan trọng nào đó vừa bắt đầu quay đều.
Thế nhưng Bạch Dực không nói gì với tôi, có thể là không muốn tôi sợ hãi, hoặc cũng có thể anh ta cũng như tôi, chỉ có cảm giác mơ hồ thế thôi. Chỉ có là anh ta không làm được như mấy diễn viên nam chính trong phim truyền hình, nói một câu vừa nghiêm túc vừa đáng đánh: “Ta có cảm giác không ổn.” mà thôi.
Nhưng nói gì thì nói, trên cổ đeo một mảnh xương vẫn thấy rất kỳ cục, tôi phải đưa tay vuốt vuốt nó mấy lần mới tạm cảm thấy quen.
Tài xế cho xe leo lên đường cao tốc, tốc độ lập tức tăng lên, gió thổi cũng rát hơn. Hai bên đường là những thảm xanh trải dài liên tiếp, chỉ trồng một loại cây duy nhất, trên lá cây phủ bụi trắng xóa, che lấp cả màu xanh nguyên bản. Bạch Dực cho tôi cái bùa hộ mệnh xong, lại ngoẹo đầu chuẩn bị ngủ tiếp.
Tôi thay anh ta đóng cửa sổ lại, cũng sửa lại tư thế nằm ra ngủ một lúc, dù sao khi tới nơi đám Lục Tử cũng sẽ biết đường mà hú chúng tôi dậy thôi mà, đến lúc đó còn phải ra sức khiêng đồ, chi bằng lúc này tranh thủ nghỉ ngơi một chút.
Xe khẽ khàng lắc lư qua lại, tôi cũng theo đó mà lúc tỉnh lúc mơ, không biết đã bao lâu, tới khi bị Bạch Dực lay tỉnh, tôi ngồi dậy dụi dụi mắt nhìn ra ngoài cửa sổ thì trời đã sắp về chiều. Xe dừng trước một dãy nhà cổ kính, nhìn dãy phòng trước mặt là biết đã có tuổi, lớp sơn son ngoài cổng lớn đã tróc lở gần hết, nhìn cánh cổng vì thế mà lem nhem nham nhở như một kẻ bị bệnh da liễu.
Những lớp sơn mới cũ nguệch ngoạc chồng chất lên nhau cho một cảm giác rất khó chịu. Bốn phía trồng rất nhiều cây cối, xanh tươi um tùm như muốn bao kín cả tòa nhà trong cái bóng âm u của nó, lại thêm sắc trời loang lổ chiều tà càng khiến cho cả tòa kiến trúc mờ nhạt thành một cái bóng xám nhòa nhòa.
Tôi vuốt vuốt mặt, Bạch Dực đã bắt đầu cùng mọi người vận chuyển hành lý vào trong, tôi cũng vội vàng tới xách hai cái túi du lịch to theo bọn họ xuống xe. Bước chân xuống khỏi xe rồi mới có thể ngắm kĩ toàn bộ tòa nhà, có vẻ là một tòa tư gia xưa, không rộng lắm, quy mô cũng không khác mấy với những tòa nhà xung quanh, nhuộm thêm ánh hoàng hôn nhàn nhạt càng thêm có vẻ tiêu điều.
Chung quanh đưa tới mùi cơm chiều và mùi bánh trái, mùi thức ăn hòa cùng thứ mùi ẩm mốc đặc trưng của những căn phòng cũ thành một thứ mùi lạ lùng, mang cảm giác ngầy ngậy cực kỳ khó chịu. Bạch Nguyệt Linh đang đứng nói chuyện với một bà lão mặc xường xám bằng lụa màu đen, thấy chúng tôi đã xuống xe liền ngưng lời mà tiến về phía chúng tôi.
Chị ấy nói cho chúng tôi biết căn nhà này chính là nơi chúng tôi sẽ nghỉ lại, ở sân sau còn có một khu sân trống để cho các cô bé có thể tập luyện.
Lục Tử nhìn vào căn nhà cũ nát, nhíu mày nói:
“Chị Nguyệt Linh, căn nhà này có thể chứa nổi bằng này người không? Tôi cứ tưởng chúng ta sẽ tìm một khách sạn hay quán trọ nào đó chứ?”
Bạch Nguyệt Linh cười tươi:
“Đây là chỗ rạp hát giới thiệu, ưu điểm là miễn phí đó. Đừng thấy nó xập xệ như vậy mà coi thường, bên trong thực ra rất rộng, sương phòng ở hai bên đông tây đều rộng rãi, để chị sắp xếp một chút, một phòng ở hai người chắc không vấn đề gì. Ba cậu đều là đàn ông, ở chung một phòng cũng được chứ?”
Lục Tử quay lại nhìn hai chúng tôi:
“Ba chúng ta cùng ở một phòng?”
Sau đó không biết vì sao lại cúi xuống cắn cắn môi lầm bầm gì đó nghe không rõ. Tôi xách hai cái túi đi ngang qua hắn nói:
“Chị Nguyệt Linh cứ xem rồi sắp xếp đi, ở chung thì ở chung, nếu bí quá tụi em có thể trải chiếu ra sàn nằm đỡ cũng được mà.”
Bạch Nguyệt Linh thấy chúng tôi không ai phản đối, liền cười cười giới thiệu bà lão đứng sau lưng mình với chúng tôi, bà ta vẫn mỉm cười ôn hòa nhìn chúng tôi tay xách nách mang mà không hề lên tiếng hỏi câu nào, khiến tôi tự nhiên có cảm giác hơi cách biệt.
Nhưng dường như đây cũng là hiện tượng chung của những người lớn tuổi mà thôi. Nhìn bà ít nhất phải ngoài bảy mươi, những nếp nhăn như hằn sâu trên gương mặt, nhưng sắc mặt cũng khá tươi tắn hồng hào, cộng thêm cách ăn mặc rất trang nhã, một bộ xường xám lụa màu đen, không đeo thêm trang sức, chỉ cài thêm một cái gài áo hình hồ điệp trước ngực làm bà trông như một quý phu nhân tao nhã của một thời thư hương xưa cũ.
Bạch Nguyệt Linh nói với chúng tôi:
“Đây là bà Trương, căn nhà này cũng có thể coi như là của bà ấy, các cậu có cần gì thì cứ hỏi bà, nhớ cẩn thận đừng để hư hao món nào trong nhà, vì ngôi nhà này ngày xưa từng là phủ trạch của một vị quan to thời Quốc dân đảng đấy. Xưa hơn nữa vào thời Đạo Quang[1] đời Thanh nó có tên gọi là ‘Linh viên’, là tài sản của một phú thương buôn bán muối họ Trần, nghe nói ông ta cất tòa nhà này để tặng cho một người thiếp của mình, cho nên bài trí trong nhà rất có giá trị lịch sử đó nha.”
Nghe thế, tôi bèn ngẩng đầu tỉ mỉ quan sát lại tòa nhà một lần, tuy cũ thì rất cũ, nhưng quả thực những chi tiết kiến trúc thì lại rất tinh xảo, trên hoành phảng (cái xà ngang trên cổng hoặc cửa ra vào, cách gọi theo trường phái kiến trúc Huy phái) khắc hình bách tử hi hí (các trẻ em vui đùa), các em bé được điêu khắc rất sinh động, hai bên khuông cửa khắc tích bát tiên mừng thọ, trên vách tường đá xanh cũng khắc những hình hoa cỏ bốn mùa hoặc chim thú, trên những đầu hồi cong vút và những lớp ngói âm dương tỉ mỉ khắc những hoa văn cực kỳ tinh tế, nào là chim sa cá lặn, nào là hoa nhường nguyệt thẹn, lại còn đủ loại thi từ hoa cảnh mà tôi có thể nhớ được tất tất đều tề tựu cả trong một khu đình viện con con, quả thực là điển hình phong cách kiến trúc Huy phái.
Giá như được bảo tồn tôn tạo một chút, nhất định ngôi nhà này có thể tỏa sáng toàn bộ vẻ quý phái kiêu sa của một tư dinh sơn son thiếp vàng từ mấy trăm năm trước. Trong nhà, nhiều nhất là hình vẽ hoặc tượng của những mỹ nhân xinh đẹp đủ mọi dáng vẻ phong tư, quả xứng là lầu son gác tía của một mỹ nhân.
Lục Tử không hổ là dân chuyên nghiệp, xem con mắt hắn thì có lẽ đang bắt đầu đi một vòng đánh giá xem trong nhà có đồ cổ nào đáng giá hay không, sờ sờ mấy viên ngói, gõ gõ khung cửa gỗ, trong miệng không ngừng lầm bầm gì đó. Nếu tôi không nhanh tay túm hắn kéo đi thì không chừng hắn còn mê mẩn cả một ngày đêm.
Bạch Dực không nói gì, chỉ xắn tay áo vắt đầu công cuộc vận chuyển hành lý rương hòm. Bạch Nguyệt Linh đã mang đám cô nương đi vào phòng từ lúc nào, trong sân chỉ còn chúng tôi và ông tài xế, ông ta cũng là người dễ tính, thấy chúng tôi nhiều đồ đạc liền hào sảng ở lại giúp cả bọn khiêng đồ.
Bạch Dực xách một cái bao bố vĩ đại đi ngang qua người chúng tôi nói:
“Dọn mau lên, nhìn sắc trời sợ lát nữa đổ mưa mất.”
Thế là chúng tôi vội vàng khuân hết đống hòm xiểng vào tới đại sảnh. Thực ra hành lý không tính là nặng, ngoại trừ mấy cái rương đựng đạo cụ diễn xuất ra thì còn lại đều là quần áo, chỉ hơi cồng kềnh chứ không nặng lắm.
Chỉ cần chuyên tâm một lát là xong ngay. Lục Tử kín đáo dúi cho ông tài xế một bao thuốc nguyên, thanh toán tiền xe rồi tiễn ông ta về. Đám cô nương dường như rất thích khu nhà cũ này, tốp năm tốp ba cùng nhau đi thăm thú xung quanh. Nhưng ba chúng tôi sau khi làm cu li khiêng đồ xong thì quả thực mệt muốn đứt hơi, không còn sức chạy qua chạy lại nữa, chỉ lê thân vào tới phòng khách rồi liền kiếm chỗ ngồi bệt xuống.
Tôi nhìn một vòng quanh phòng, cảm thấy trong này còn lạnh hơn ngoài sân vài phần, nóc nhà rất cao lại còn tối, nhìn không thấy trên rầm nhà có những gì, mà trần nhà cao thế này thực sự cũng không phù hợp treo đèn. Ánh sáng mặt trời lúc này đã chớm tắt, phòng khách càng thêm u ám lạ, dưới rầm nhà dường như có treo một tấm ảnh trắng đen cũ, hình người trong ảnh mờ mờ nhạt nhạt, thậm chí còn không rõ là nam hay nữ.
Lục Tử gạt gạt mồ hôi trên trán, nói:
“Căn nhà này quả thực đặc sắc, rõ là phong cách điển hình của kiến trúc Huy phái thời cuối đời Thanh, chỗ chúng ta đang ở đây hẳn là phòng khách.”
Hắn chỉ vào cánh cửa ba gian nói:
“Tuyệt vời chưa, cánh cửa này không ngờ làm bằng gỗ hoàng lê hảo hạng cơ đấy, nếu có cơ hội nhất định tớ phải mang được nó về mới cam lòng.”
Bạch Dực rũ rũ bụi trên cánh tay bổ sung:
“Nhưng hai người không thấy có điểm gì kỳ lạ hay sao?”
Lục Tử và tôi đều nhìn quanh quất, nhưng mãi mà không thấy gì bất thường. Cuối cùng, cũng là Lục Tử có kinh nghiệm hơn, phát hiện ra trước, “A!” lên một tiếng rồi nói:
“Là bố cục không đúng, vì sao trong phòng không có cái gương nhỉ?”
Lúc này tôi mới sực nhận ra, đúng vậy, trong một căn nhà bày biện theo lối Huy phái có một điểm đặc thù quan trọng, đó là trong phòng khách nhất định phải bày một cái gương, một cái chuông đồng và một bình hoa.
Trong những phong cách kiến trúc khác, cái gương và cái chuông là hai thứ cấm kị không nên bày biện trong phòng khách, nhưng với Huy phái thì cách bài trí này có ý nghĩa đặc biệt, hầu như đã là kiến trúc Huy phái là nhất định không thể thiếu.
Bởi vì mỗi khi tiếng chuông vang lên, sẽ cùng với cái gương xếp bên trái và bình hoa xếp bên phải nó hình thành một cụm từ có ý nghĩa rất tốt lành: “chung thanh bình kính” (đồng âm với “chung thân bình tĩnh”, có nghĩa là một đời bình yên), dùng để cầu cho gia đình một đời bình an phú quý. Nhà này chỗ nào cũng chiếu theo kiến trúc Huy phái mà xây dựng, lại không phạm phải cấm kị gì về phong thủy, vậy mà tại sao trong phòng khách lại quên không đặt gương nhỉ?
Khi ba chúng tôi còn đang nhìn quanh nhìn quất một cách tò mò như già Lưu ngày nào vừa vào phủ Đại Quan Viên thì Bạch Nguyệt Linh và bà lão lúc nãy đã đẩy cửa bước vào, trong tay bà lão còn bưng theo một khay trà mời chúng tôi uống. Đây cũng là lần đầu tiên nghe bà lên tiếng, giọng nói rất dịu dàng.
Chúng tôi nhận ly trà, uống một ngụm, rất ngon, quả nhiên là trà Kim Ngân hảo hạng, có thể thấy bà ta là người rộng rãi lại chí tình.
Tôi hỏi:
“Chị Nguyệt Linh, hành lý đưa vào nhà hết rồi, còn cái gì cần giúp nữa không?”
Bạch Nguyệt Linh mỉm cười lắc đầu:
“Hết rồi, để bà Trương đưa các cậu về phòng đi. Chị còn phải dặn dò các em vài điều trước khi biểu diễn, nên các cậu tắm rửa xong thì cứ ăn cơm trước đi nhé.”
Bạch Dực nhấp thêm một ngụm trà rồi đứng dậy xách hành lý ý bảo chúng tôi cũng nên theo bà Trương đi về phòng là vừa. Bạch Nguyệt Linh vỗ vỗ vai tôi ra ý cảm ơn, tôi khoát tay ý bảo không có gì, rồi vội vàng lật đật chạy theo sau Bạch Dực.
Trước khi đi, nhìn ra phía sau, tôi thấy Lục Tử còn có ý muốn quấn lấy Bạch Nguyệt Linh, nhưng tôi cũng mặc kệ không lo lắng lắm. Bạch Nguyệt Linh tuyệt không giống như các cô nàng tầm thường hắn từng quen trước đây, chị ấy dư sức đối phó với con khỉ Lục Tử này.
Còn với Lục Tử mà nói, lần này cũng nên cho hắn đạp gai một lần cho nhớ, nghĩ đến đây, tôi cũng thở phù một cái, thản nhiên theo Bạch Dực đi. Bà lão này già thì có già, nhưng đi đứng lại cực kỳ nhẹ nhàng nhanh nhẹn.
Tôi gần như phải chạy theo hai người bọn họ. Vừa đi, bà ta vừa nói:
“Ba cậu là đàn ông con trai không tiện ở gần các cô gái, cho nên tôi dọn cho các cậu một căn phòng hơi xa một chút ở mé sau nhé.”
Giọng nói của bà rất trầm, nhưng không mang theo sự lạnh lùng xa cách, mà lại có cảm giác thập phần ôn hòa tử tế, chỉ có điều bà mặc một màu đen từ đầu đến chân nên thoạt nhìn có hơi tối tăm mà thôi.
Ngoại trừ phòng khách, các gian phòng còn lại đều có bắt đèn điện, nhưng trông vẫn không sáng sủa hơn được chút nào.
Tôi cảm thấy có hứng thú với căn nhà tràn đầy hơi thở lịch sử này, liền hỏi bà ta:
“Bà Trương, cả căn nhà này là của bà sao ạ? Bà có thể kể cho chúng cháu nghe một chút về lịch sử của nó được không ạ?”
Bà Trương mỉm cười trả lời:
“Không phải của tôi đâu, tôi chỉ là người trông coi nó mà thôi. Căn nhà này vốn thuộc về tiểu thư nhà tôi, chỉ có điều tiểu thư đã qua đời từ lâu rồi.”
Tôi hơi giật mình một cái, bà ta lại tiếp:
“Tiểu thư nhà tôi là em họ của vị quan thời Quốc dân đảng ấy, cả căn nhà này là tài sản của cô ấy. Nhưng sau này cô ấy nhiễm bệnh… rồi đột ngột qua đời…”
[1] Là niên hiệu vua Tuyên Tông nhà Thanh (1821 – 1850)