Trời đã sắp sang tối, Dương Thế Dũng không dám nán lại nữa bèn vội vàng đánh dấu qua loa lên bức tường, mệt mỏi đến mức vừa về gần nhà đã lăn ra ngủ.
Sau một đêm mưa to gió lớn, có lẽ buổi sáng sớm trong thôn phải rất an lành, nhưng cả Dương thôn lại đang sôi lên sùng sục, rất nhiều già trẻ trai gái đều mang theo gậy gộc cuốc xẻng, sầm sập kéo đến từ đường để phá bỏ bức tượng kia, bởi nhiều người trong đêm nghe thấy những âm thanh kì quái phát ra từ trong từ đường. Đó là những tràng cười ha ha không dứt của ma quỷ.
Người ta thường nói: “Quỷ áo đỏ, xác chết mặt cười, thà nghe quỷ khóc còn hơn nghe quỷ cười”. Câu này có nghĩa là nếu gặp phải xác chết mặc áo màu đỏ thẫm hay tàng phục tuyền một màu hoặc xác chết biết cười thì đều là những điềm đại hung, bởi quỷ khóc thì ở nhiều nơi cũng có, có người còn nhầm lẫn tiếng mèo kêu sói hs với tiếng quỷ khóc, thông thường đều không có gì phải đề phòng. Nhưng đáng sợ nhất là nghe tiếng quỷ cười như đang vui mừng trước tai họa của người khác, bởi chỉ có những loài ác quỷ, hung quỷ, sát quỷ bới biết cười thành tiếng.
Khi nhiều người đều nghe thấy tiếng quỷ cười thì nơi đó chắc chắn sẽ xảy ra tai họa lớn, thêm vào đó gần đây Dương thôn lại có hai người khác bị chết tại đây, trước lúc chết còn lấy hết hơi sức ra kêu lên rằng bức tường giết người, bởi vậy không ít người đều cho rằng do bức tường trước cổng trong từ đường đang tác oai tác quái!
Đến trước buổi trưa, gần như toàn bộ thanh niên trai tráng trong làng đều đã tụ tập ở từng đường, nghe theo sự bố trí của vị tộc trưởng cao tuổi, chuẩn bị chờ đến lúc giữa trưa khi dương khí mạnh nhất thì mọi người cùng nhau ra tay phá bỏ bức tường này. Bên cạnh đó các chị em phụ nữ còn chuẩn bị rất nhiều những đồ dơ bẩn, bao gồm máu chó đen, đầu gà trống đen, móng lừa đen. Một khi đã có những đồ dơ bẩn này thì cho dù là thần tiên hay ma quỷ cũng phải bó tay chịu chết mà thôi!
Thật đúng là người đông thì thế mạnh, trong lúc mọi người đang bàn tán sôi nổi, buổi trưa cũng đã sắp đến rồi. Đợi đến lúc Dương Thế Dũng bị những tiếng ồn ào này làm tỉnh giấc, vội vàng lao đến nơi thì mọi người dưới sự chỉ huy của tộc trưởng đã dỡ bỏ phần mái hiên của bức tường xuống rồi. Lúc này mọi người mới nhận ra bên trong bức tường trống không, chỉ là do bức tường rất dày, có đến ba tầng gạch Lâm thanh trước sau hết sức kiên cố. Dương Thế Dũng không lo lắng nữa, sự việc đã đến nước này rồi thì cứ dỡ xuống!
Thừa lúc mọi người còn đang bận hò hét ồn ào, không ai chú ý, Dương Thế Dũng bèn lấy một chiếc máy khoan đá, dựa theo kí hiệu đã đánh đấu đêm hôm trước ra sức để khoan. Qủa nhiên đằng sau lớp gạch đều rỗng không, cấu tạo giống với phần bức tường phía trên, thò tay vào khua khoắng một hồi thì lôi ra được chiếc tráp hình chữ nhật, nhìn có vẻ cũng là cổ vật, bên ngoài đen bóng khắc vô số những hoa văn hình đám mây ba góc màu đen, nặng trình trịch mà cũng không biết được là cổ vật triều đại nào.
Người dân trong thôn nhìn thấy đào được cổ vật thì đều hết sức vui mừng liền vây kính xung quanh cái tráp, hết người này sờ đến người kia mó mà cũng không nhìn ra được là đồ vật gì. Tộc trưởng vẫn là người học sâu biết rộng, đến xem cẩn thận rồi nói: “Không sai, đây đúng là cổ vật, lúc ta còn nhỏ đã từng nhìn thấy loại hoa văn này. Trước đây trong thôn cũng đã từng đào được, tất cả đều bị quan binh mang đi mất, nghe nói là đồ vật của vua Yên thời chiến quốc”
Vừa nghe thấy đồ vật của nhà vua, Dương Thế Dũng cũng hăng hái hẳn lên, cầm lấy cái tráp lắc qua lắc lại thấy tiếng kêu leng keng bên trong. Trong đó chắc chắn là vật gì bằng kinh loại rất nặng, bèn tìm một cái đục nhỏ cậy từng tí một. Một tiếng “binh” vang lên, cái tráp bị tách ra làm hai, bên trong rơi ra một thanh kiếm cổ màu đen bóng, còn có một cuộn giấy da cừu viết dày đặc những chữ là chữ.
Cẩn thận quan sát thanh kiếm cổ màu đen, Dương Thế Dũng nhận thấy trên thân kiếm thấp thoáng có một chất lỏng màu đỏ đang chuyển động, dường như ẩn giấu vật gì. Người dân trong thôn vô cùng sợ hãi, chẳng lẽ lại là yêu quái gì đây! Có người nhớ lại bộ da người trống rỗng của Lưu Tam Hùng bèn sợ hãy chạy nấp đàng sau đám đông.
Cùng với việc dòng chất lỏng trên thanh kiếm chuyển động ngày càng nhanh, bên tai cũng nghe thấy những tiếng ầm ầm vọng đến mỗi lúc một rõ rệt, Dương Thế Dũng có chút sợ hãi, cũng không dám chần chừ nữa liền vứt thanh kiếm xuống rồi nhặt cuộn giấy da cừu ôm vào lòng, lẻn vào giữa mấy người dân trong thôn vẫn đang ngây ra vì hoang mang sợ hãi rồi lui về phía sau. Chỉ nghe thấy âm thanh văng vẳng càng lúc càng rõ, từ trên thân kiếm đột nhiên xuất hiện mấy giọt nước nhỏ, lúc tan lúc hợp, sau đó từng giọt bắn tóe ra, kết lại thành một đám hơi nước màu đỏ thẫm lơ lừng trên đầu mọi người.
Đám hơi nước quái dị ngày càng đặc hơn, có một số kết lại thành giọt đậu lên vai áo, lau cũng không sạch, phát ra ánh sáng lấp lánh, từng giọt tròn xoe long lanh rất đẹp mắt, Dương Thế Dũng trốn đàng sau đám đông không há hốc ngạc nhiên như những người khác mà mở cuộn giấy da cừu ra xem xét cẩn thận. May mà trong đó không phải dạng văn chương cổ, dường như khi viết hết sức vội vàng, lời lẽ rất dễ hiểu, đại ý nội dung là: “Gia tộc của Dương Bình Như từ xưa tới nay luôn nắm giữ một bí mật, đó chính là bên dưới bức tường trước cổng này có thông với một ngôi mộ cổ của nước Yên, người nằm trong mộ chính là Đan thái tử của nước Yên thời Xuân thu Chiến quốc.”
Cuối thời Chiến quốc, Kinh Kha hành thích Tần Vương thất bại, Yên vương lấy một người giả làm thái tử, chặt đầu mang lên dâng Tần vương nhưng cũng không làm bớt đi cơn giận của Tần vương. Sau khi Yên vương bị đánh bại thì chạy trốn sang Liêu Đông, trước lúc đi trốn còn căm giận thái tử Đan, đem chôn sống thái tử trong lăng mộ vốn chuẩn bị sẵn cho bản thân từ nhiều năm trước. Đồ tùy táng chính là vật mà Kinh Kha đem tặng cho thái tử, đó là thanh kiếm đen luôn đeo bên mình đã giết không biết bao nhiêu người.
Đến thời Tam quốc, Tào Tháo lập một đội chuyên đi đào trộm mộ để bổ sung vào quân lương, lập ra chức Phát Khâu trung lang tướng và Mô Kim Hiệu Úy chuyên lo việc đào mộ, đào bới khắp cả một vùng phía Bắc.
Tổ tiên nhà họ Dương có một người tên gọi là Dương Dân Vinh, chính là một viên Phát khâu trung lang tướng dưới trướng của Tào Tháo. Sau khi ông ta đào được thanh cổ kiếm này của Kinh Kha thì không rõ tung tích, cho đến tận cuối triều Thanh mới thấy xuất hiện đời con cháu là Dương Bình Như ở thôn họ Dương này, Dương Bình Như sau khi có được thanh cổ kiếm này giống như có được báu vật, tìm hiểu mới biết thanh kiếm được làm từ một khối vẫn thiết tự nhiên, chỉ là không biết do duyên cớ gì vẫn có một lượng từ tính của sắt nhất định.
Chú thích: Vấn thiết: thiên thạch, thường chứa nhiều chất khác rơi từ trên không trung xuống
Không được bao lâu thì thời thế loạn lạc, trong lúc quan binh nhà Thanh và giặc cướp giao tranh, thanh bảo kiếm của Dương gia khó lòng mà giữ được. Dương bình Như thấy sự việc cấp bách bèn vội vàng viết ra những bí quyết trộm mộ gia truyền và cả lai lịch của thanh kiếm này, rồi giao cho con gái đem cất giấu ở bên trong bức tưởng.
Điều làm Dương Thế Dũng thấy hứng thú chính là trong cuộn da cừu này còn miêu tả việc Dương Bình Như đã mấy lần tìm cách vào mộ của Yên vương, đã nắm được mấy phần cấu tạo của huyệt mộ… Khi đó, Yên vương cho đào một cái hố sâu đến gần bốn mươi trượng dưới lòng đất, số đất đào lên tất cả đều được huyển đi chỗ khác, sau đó lại dùng cát lấp vào. Tất cả chỗ cát này đều đã được xử lý bằng cách chà xát và ngâm thuốc độc, bao nhiêu năm cũng không thể ẩm ướt vón cục, tính lưu động cực kì cao. Làm như vậy là nhằm đề phòng những kẻ đào trộm mộ, bởi trong quá trình đào trộm mộ, nếu đào phải cát chảy thì ngay lập tức hố đào sẽ bị cát chảy vào lấp đầy, nếu không bị ngạt chết thì cũng bị trúng độc mà chết. Chỉ có điều là Dương Bình Như không tài nào hiểu nổi trong vòng chu vi mấy dặm xung quanh lăng mộ của Yến vương còn bày bố mấy cái giếng đứng sâu tới mấy chục trượng. không biết là nhằm mục đích gì.
Trang cuối cùng trong cuộn giấy da có viết thêm vài dòng suy đoán, cho rằng năm xưa tổ tiên Dương Dân Vinh đã nảy ra sáng kiến, từ ben cạnh đào sâu xuống tới mấy chục trượng bên dưới lăng mộ, sau đó lại đào xuống bên dưới một cái giếng đứng cực kì sâu nhằm dẫn cho cát chảy xuống đó, tạo thành một địa cung từ dưới hướng lên trên dẫn vào trong mộ thất, nhưng gặp phải nguy hiểm khôn cùng, chỉ lấy được thanh cổ kiếm này thì phải vội vàng rút lui, suy đoán rằng thanh kiếm này chính là pháp khí dùng để chế ngự nguy hiểm. Trước khi tìm ra cách sử dụng thanh cổ kiếm này thì tuyệt đối không được đào đổ bức tường trước cổng.
Dương Thế Dũng đọc xong thì thấy lo lắng không yên. Một cái huyệt mộ mà phải tốn nhiều công sức như vậy, rốt cuộc bên trong chôn giấu những thứ gì đây? Phần cuối của cuộn giấy da là một số bí thuật của việc trộm mộ, lời lẽ rất rối rắm khó hiểu, Dương Thế Dũng cũng không còn tâm trí đâu mà xem nữa, bèn tiện tay giấu vào trong người.
Lúc đó, đám hơi nước màu đỏ phía trên thanh kiếm đã ngày càng dày đặc, phủ một màu đỏ thẫm lên cả bức tường, hơn nữa còn không ngường lớn dần lên…
Bất ngờ bức tường đột nhiên sụt xuống một nửa trước con mắt của tất cả mọi người. Cùng với tiếng kêu phát ra từ thanh kiếm ngày càng lớn, cả bầu trời phía trên từ đường cũng xuất hiện mây đen dày đặc, từng cụm từng cụm kết thành một núi mây, lại có vài dải mây đen vây xung quanh, đỡ núi mây bay dần lên cao, dường như muốn giải thoát tất cả những địa khí đã dồn nén dưới lòng đất cả mấy nghìn năm nay. Đáng tiếc là hiện tượng thiên nhiên bất thường sắp sụp xuống đầu này lại không được ai chú ý tới.
Trong lúc bức tường sụt xuống, có mấy sợ thịt màu đỏ sẫm âm thầm xuất hiện từ trong chỗ cát chảy, thoắt ẩn thoắt hiện bò ra bên ngoài, mấy người dân trong thôn không hiểu biết vừa chạm vào một cái lập tức toàn thân biến thành màu đỏ như máu, bốc mùi thanh tưởi, trong chớp mắt toàn bộ cơ thể chỉ còn lại một bộ xương khô. Đợi đến lúc những tiếng kêu thảm thiết hết đợt này đến đợt khác qua đi thì những xác chết của đám dân thôn nằm la liệt trên mặt đất.
Trong tình thế nguy cấp, Dương Thế Dũng bèn chộp lấy thanh hắc kiếm, hướng về phía mấy sợi thịt đang bò tới, chỉ nghe thấy “uỳnh” một tiếng thật lớn, hắc kiếm gần như bay ra khỏi tay, còn đam sương mù màu đỏ phía trên thanh kiếm đã lớn gấp mầy lần, úp chụp lên Dương Thế Dũng và mấy người xung quanh. Mà mấy sợi thịt kia dường như chịu khuất phục trước đám mây đỏ này, vội vàng lẩn trốn. Số người sót lại vội vàng chạy đến phía bên kia cái lồng mây, sợ hãi nhìn ngang ngó dọc không biết những sợi thịt kia đang trốn ở đâu.
Cuối cùng thì bức tường trước cổng cũng đã sụt hẳn xuống lớp cát mịn, trên mặt đất chỉ còn lại một cái hố đen khổng lồ. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không ai biết tiếp sau đây còn xảy ra chuyện gì đáng sợ nữa hay không? Bàn tay đang cầm kiếm của Dương Thế Dũng rung lẩy bẩy, không biết thanh hắc kiếm này còn có thể giữ được bao lâu
Thời tiết kì lạ phía trên từ đường vẫn đang tiếp tục, mây mỗi lúc một đen hơn, từng cuộn từng cuộn kết thành ngọn núi mây không ngừng bay lên cao, bầu không khí giống như khí trời sắp cỏ mưa to bão lớn, nổi lên mùi máu và mùi thanh lợm giọng. Cuối cùng cũng có người chú ý đến tất cả những việc này nhưng đã muộn.
Những người dân đến phá bức tường trong từ đường chết đến quá nửa, bức tưởng tuy biến mất không dấu vết nhưng nguy cơ còn rình rập khắp nơi. Mặt đất chỗ nào cũng bị cát bao phủ bởi cát mịn, chỗ nào cũng đang nổi bong bóng. Dường như có một thứ gì đó đang thổi ở bên dưới, thổi ra một cái lỗ nhỏ, phun ra một ít cát, rồi lại chuyển sang chỗ khác, không ngừng thổi khí phun cát. Những người dân còn sót lại giống như đang đứng trước một nồi nước sôi vậy, tai họa lúc nào cũng sẵn sàng giáng xuống đầu.
Dương Thế Dũng cùng tộc trưởng và hơn chục thanh niên còn lại bước từng bước một tìm nơi mặt đất vững chãi để lùi về phía sau, dựa vào đám hơi nước màu đỏ của thanh hắc kiếm, tạm thời cũng chưa đến mức bị tiêu diệt hoàn toàn.
Trên trời, từng hạt mua to bằng hạt đậu bắt đầu rơi lộp độp, những giọt nước mưa rơi trúng vào thanh kiếm lấp loáng. Dường như cùng lúc đó từ dưới đất bỗng nổi lên mấy luồng khí lớn màu trắng bốc mùi hôi thối, bay thẳng lên trời. Mặt đất có vẻ như do những luồng khí này chống đỡ, khi luồng khí trắng bay lên thì mặt đất bỗng nhiên sụp xuống, ở giữa hố xuất hiện một lực hút vô cùng lớn, hút hết cả đám Dương Thế Dũng và mấy người kia vào bên trong. Lần lượt từng người đều bị miệng hố đen ngòm nuốt chừng.
Trong lúc đang rơi xuống, Dương Thế Dũng thấp thoáng nhìn thấy dưới chân mình có một phiến đã xanh rất lớn, bên trên chạm khắc bốn gương mặt, nhờ có ánh sáng đỏ từ thanh kiếm phát ra có thể thấy được mấy gương mặt đó đang kinh hoàng ngước mặt lên trên, hai mắt trợn tròn, miệng thì há hốc, cả gương mặt giống như được phủ một lớp vải trong suốt vậy.
Vừa hay mũi kiếm trong tay Dương Thế Dũng lại chọc thẳng vào chính giữa gương mặt đó, ngay lập tức vang lên một loạt tiếng kêu ken két, mấy gương mặt được khắc trên phiến đã trắng đột nhiên dâng lên cao khỏi phiến đá.
Thì ra đây là bốn thi thể bị gắn dựng đứng vào tảng đá, hai tay quặt ra sau, đầu bị kéo mạnh về phía sau đến mức nằm song song với mặt đất, mặt hướng lên trời, trong miệng dần hiện ra những chiếc đinh bằng đồng xanh rất to. Mấy thi thể đó đều trần trụi không có quần áo gì, toàn thân có những vết đốm màu tím xanh, giống như bị xát bột thuỷ ngân vậy, thi thể không hề bị thối rữa. Nhìn đi nhìn lại thì điều đáng sợ nhất chính là mấy cái đinh bằng đồng xanh bị đóng vào miệng, cũng không hiểu là sau khi chết mới bị đóng vào hay là từ lúc còn sống đã bị đóng đinh vào trên tảng đá kia nữa. Thật khó mà tưởng tượng nổi lúc chết họ đã đau đớn biết nhường nào!
Mọi người đều ngồi chết lặng trên tảng đá không biết làm gì, có người bắt đầu khóc thút thít. Cuối cùng, Dương Thế Dũng đứng dậy nói: “Mọi người đừng sợ. Sự việc đã đến nước này có khóc cũng chẳng có tác dụng gì, tôi đã đọc qua một lượt cuộn giấy da cừu đó rồi, trong đó nói rằng nơi mà chúng ta đang ở hiện nay chính là huyệt mộ của một vị vua thời xưa”.
“Mộ của nhà vua?” Tộc trưởng trợn tròn mắt hỏi. “Có nói bên trong chôn giấu báu vật gì không?”
“Báu vật không thấy nhắc đến, chỉ nói rằng bên ngoài mộ có một con yêu quái canh giữ, nó vừa biết giết người vừa biết hút cạn máu thịt của người ta nữa!” Dương Thế Dũng giơ thanh kiếm lên khua khua một lát rồi nói: “ Đây chính là thanh kiếm được truyền lại từ thời xưa để khắc chế yêu quái”.
Mọi người vốn là những nông dân thật thà chất phác, sau khi nghe Dương Thế Dũng nói vậy thì hết sức vui mừng. Đã từng này tuổi rồi nhưng mấy ai đã được gặp các vị quan to, nay nghe nói dưới chân mình có huyệt mộ của một bậc đế vương, bên trong chắc hẳn có không ít đồ bồi táng quý giá, vậy thì còn đợi gì nữa, mọi người lập tức quên hết chuyện chết chóc vừa xảy ra, ai cũng vui mừng khôn xiết.
Trong bóng tối, chợt nghe thấy có người kêu to lên rằng: “Ha ha, ở đây có một tảng ngọc thạch rất to! Mau tới giúp tôi đào ra nào!” Giọng nói đầy vui mừng kia ngay lập tức thu hút mọi người tới giúp một tay, vừa kéo vừa đào, trong lúc rối loạn tảng đá bỗng kêu lên răng rắc, nứt ra thành một cái rãnh rộng chừng hai thước, cái gọi là tảng ngọc thạch kia ngay lập tức chui tọt vào trong đó. Còn từ trong miệng của bốn thi thể đang dựng đứng ngửa đầu lên trời kia phun ra vô số những sợi thịt tươi xông tới chỗ mấy người dân đang đứng chết lặng.
Những tiếng kêu thảm thiết lập tức vang lên, mấy người dân kia bị những sợi thịt quấn chặt lấy, không có cách nào trốn thoát. Mọi người còn chưa kịp có phản ứng gì thì thấy vang lên mấy tiếng lách cách, lần lượt từng người bị thu nhỏ lại chỉ bằng kích cỡ của một đứa trẻ, biến thành mấy cái xác khô quắt không còn chút máu thịt nào!
Cảm giác kinh hoàng lập tức tràn ngập khắp nơi, không gian hoàn toàn im lặng. Tộc trưởng bèn lớn tiếng nói: “Từ giờ trở đi không ai được tự ý làm bất cứ gì, mọi người tập trung lại gần Thế Dũng, chúng ta nhất định sẽ thoát ra được!”
Những sợi thịt tươi kia lại lặng lẽ bò vào trong bóng tối, dường như không để ý tới Dương Thế Dũng tay đang lăm lăm thanh kiếm kia nữa.