Ta biết trong lòng hắn cũng hiểu rõ, khả năng Cầm Tô chịu ra gặp hắn là cực kỳ mong manh, nhưng hắn vẫn cố chấp không chịu từ bỏ.
Ta vỗ vai hắn, ngước mắt nhìn ra xa, hỏi: “Có người nào đến tế bái trong khoảng thời gian ta rời đi không?”
Liễu Vô Huyễn cũng nhìn theo ánh mắt ta, rồi lắc đầu: “Đừng nói người, ngay cả cầm thú bay qua cũng không có. Mấy trăm năm trước khi ngươi vừa tới, nơi này cũng chết lặng như thế sao?”
Bàn tay ta khẽ run lên: “Hắn vốn chẳng ưa náo nhiệt.”
Nói xong, ta siết chặt thanh kiếm trong tay, nhìn Liễu Vô Huyễn mà nói: “Ta vào trong một chuyến. Nếu ngươi cảm thấy buồn chán, có thể dạo quanh đây, nhưng đừng đi xa, người của Côn Lôn không dễ đối phó.”
Thấy hắn gật đầu hai lần, ta liền quay người, bước về phía sâu hơn trong sơn môn.
Lúc gặp Diêu Ca, ta tựa như đã tạm thời quên mất mục đích đến Côn Lôn lần này. Giờ đây quay lại nơi này, không nói được mấy câu, đầu óc ta đã mơ hồ, hai chân như mất kiểm soát, run rẩy từng bước, tựa hồ sắp ngã trên bậc thang mây này.
Không biết đã đi bao lâu, ta như không cố ý tìm đường, chỉ thuận theo quán tính mà thân thể dẫn lối, cứ thế đi tới Hạc Phong Điện.
Điều khiến ta ngạc nhiên chính là cây mai ngoài Hạc Phong vẫn còn sống, chỉ có điều sắc hoa dường như nhợt nhạt hơn năm ta rời đi, màu phấn hồng nhạt nhòa, tựa như bị rút hết huyết khí, cố gắng tồn tại trong nơi lạnh lẽo cô tịch này.
Hạc Phong Điện rộng lớn toát lên một luồng khí tiêu điều. Ta vẫn luôn nghĩ rằng, lạnh lẽo và tiêu điều vốn khác nhau. Trước kia, Hạc Phong Điện tuy không náo nhiệt, nhưng so với sự trống vắng trước mắt, ít nhiều vẫn còn chút hơi thở sinh động.
Cỗ băng quan kia cứ thế nằm ở trung tâm đại điện, bốn phía lại chẳng thấy lấy một cái bồ đoàn, chẳng lẽ ngay cả một người canh giữ cũng không có?
Bỗng dưng, ta cảm thấy thật châm biếm.
Khi hắn còn sống, bát phương đến bái, dù bị hắn từ chối ngoài cửa, vẫn không ngăn được dòng người đưa thiếp chật như nước chảy. Nay hắn chết vì cái gọi là Côn Lôn, vậy mà trong điện lại chẳng có một đệ tử nào giữ đêm cho hắn.
Ta chậm rãi bước đến bên băng quan, khẽ lẩm bẩm: “Ngươi xem, nếu năm xưa ngươi chịu nói đỡ cho ta một câu, e rằng cũng chẳng đến nỗi chết đi mà không người canh đêm. Giờ ngươi có hối hận không?”
Biết rõ sẽ chẳng có ai đáp lại, ta vẫn như kẻ si khờ tự nói với mình. Thật đáng cười làm sao.
Vì thế ta khẽ cười nhạt, tay chạm vào băng quan, nhẹ thở dài.
“Sẽ.”
Còn chưa kịp ngẩng đầu nhìn người trong quan, sau lưng bỗng truyền đến một chữ như vậy.
Lòng ta chấn động, vội vàng quay đầu lại, liền thấy Bạch Kỷ đang chậm rãi bước tới. Nhưng rõ ràng hắn vốn nên nằm trong băng quan kia. Ta quay người nhìn vào trong quan, lại thấy trống rỗng, không một bóng người.
“Ngươi…” Ta kinh ngạc đến không thốt nên lời.
Ngay sau đó, lại cảm thấy bản thân ngu muội đến cực điểm. Rõ ràng trên đường đã nhận ra bao điều dị thường, rõ ràng biết Côn Lôn vừa mất đi một vị thần tôn, cho dù hắn có cô độc đến đâu, cũng không thể chết mà chẳng để lại tiếng vang gì, vậy mà ta vẫn bị cơn giận che mờ lý trí.
Trước mắt, sắc mặt Bạch Kỷ rất nhợt nhạt, so với ngày biệt ly lại gầy yếu hơn nhiều. Từ khoảnh khắc vừa thấy hắn, trong lòng ta như sinh ra một cảm giác kỳ lạ. Tựa như đột ngột thở phào nhẹ nhõm, nhưng rất nhanh, cảm giác nhẹ nhõm ấy bị một sự nhục nhã mãnh liệt thay thế.
“Ngươi chưa chết.”
Ta nghiến răng, gằn giọng chất vấn Bạch Kỷ.
“Cửu Nương…” Hắn vươn tay về phía ta, rõ ràng cách ta không gần, ta vẫn lui về sau một bước.
Bạch Kỷ đứng yên tại chỗ, khẽ lắc đầu: “Nếu không nói ta chết, ngươi có chịu trở về không?”
Giọng hắn có chút yếu ớt, gương mặt mệt mỏi, nhưng thân thể vẫn thẳng tắp hiên ngang.
Ta không nói lời nào, chỉ cắn chặt răng mà im lặng.
“Cửu Nương, năm đó nếu như…”
“Đã như vậy, thì không cần nói gì thêm.”
Bạch Kỷ vừa mở miệng, ta liền cắt ngang, siết chặt kiếm trong tay, xoay người bước thẳng ra ngoài điện.
“Cửu Nương!”
Bạch Kỷ chỉ biết gọi hai chữ này, từ lúc nãy đến giờ, dường như chỉ thốt được hai chữ ấy. Hắn vài bước đã đuổi tới, túm lấy cánh tay ta. Ta xoay người, nâng kiếm gạt tay hắn ra, ta thấy Bạch Kỷ loạng choạng, khó khăn lắm mới đứng vững, nhưng bỗng ho khan kịch liệt, vươn tay định che miệng, máu lập tức nhuốm đỏ tay áo trắng như tuyết.
Bước chân ta khựng lại, nhịn không được muốn đưa tay đỡ lấy hắn. Nhưng ta hiểu, nếu ta đưa tay ra, toàn bộ công sức tu dưỡng mấy trăm năm qua sẽ tan thành mây khói, ta sẽ lại trở về làm Đoạn Cửu Nương ngây thơ khờ dại như ngày xưa.
Vì thế, ta không động, cứng rắn xoay người rời đi.
“Cửu Nương, ta đã không còn ngày dài tháng rộng nữa!”
Hắn đột nhiên thét lên, tựa hồ dùng hết toàn bộ sức lực.
Ngay sau đó, tiếng hắn tắt lịm, phía sau như có tiếng nặng nề ngã xuống.
Ta quay đầu lại, thấy Bạch Kỷ tay trái chống trên án kỷ, thân hình hơi nghiêng, đầu cúi thấp, mắt khép hờ.
Ta muốn bước tới, nhưng đôi chân dường như bị cố định tại chỗ, không cách nào nhấc lên.
“Ta không còn sống được bao lâu, ngươi hà tất phải tiếp tục giận ta làm gì.”
Bạch Kỷ thở dài, hơi thở đứt quãng, nặng nề.
Tay ta buông thõng hai bên, nắm chặt thành quyền, cảm giác như toàn thân đều đang dồn sức, nhưng dồn sức vì điều gì, ngay cả bản thân ta cũng không rõ.
Không biết bao lâu sau, Bạch Kỷ mới chậm rãi mở mắt: “Những năm qua, ta cũng nghe nói đôi chút về việc ở núi Hoang Lệ, đại khái đoán được ngươi chính là vị chưởng quỹ thần bí thay Vu Bất Nghi cai quản khách điếm kia.”
Hắn ngước nhìn ta, nói tiếp: “Cửu Nương, ta rất hối hận. Ta cứ nghĩ rằng ngươi ở bên ngoài chơi chán, giận đủ rồi, nhất định sẽ quay về. Ta vẫn luôn nghĩ rằng thời gian còn dài, không ngờ lại đến cảnh ngộ hôm nay.”
Ta ngẩng đầu nhìn hắn. Đôi mắt sáng rõ ấy chẳng khác gì năm xưa, chỉ là thay vì lạnh lùng, sắc bén, giờ đây lại nhuốm đầy nhu hòa. Trước kia, hắn luôn tiếc lời, tựa như nói thêm một câu hay biểu lộ thêm một cảm xúc nào cũng khiến hắn mất đi mạng sống. Nay hắn lại nói một hơi dài như vậy, đây là lần đầu tiên ta thấy.
Nhưng ta vẫn không đáp lời.
“Cửu Nương, ngươi thật sự vẫn còn hận ta sao?” Hắn đột nhiên hỏi.
Ta ngẩng đầu nhìn hắn, gương mặt gầy gò tái nhợt thoáng vẻ đau thương, dường như vì nét bệnh hoạn này mà phong thái so với ngày trước đã phai nhạt đi nhiều. Lòng ta khẽ run, những lời cay nghiệt ấp ủ bấy lâu đều hóa thành hư không trong khoảnh khắc ấy.
“Tại sao ngươi bị thương?” Cuối cùng, ta chỉ hỏi một câu như vậy.
Dường như vì không nghe được câu trả lời hắn mong muốn, cổ họng Bạch Kỷ nghẹn lại, nuốt xuống một hơi thở, cả người như sắp sụp đổ. Vẻ uể oải ấy kéo dài một lúc lâu, hắn mới khẽ mấp máy môi, giọng nói đầy mệt mỏi: “Ta không muốn lừa ngươi, nhưng việc này có liên quan trọng đại, ta…”
“Vì Hàn Nan Thạch?”
Ta không chút khách khí cắt ngang lời hắn.
Trong mắt Bạch Kỷ thoáng hiện nét kinh ngạc, nhưng rất nhanh liền biến mất.
Cơ mặt ta cứng đờ, khóe môi kéo lên một nụ cười khó coi: “Ta sớm nên nghĩ ra, Hàn Nan Thạch sao lại mất đúng vào lúc trước thềm đại hội Côn Lôn? Có kẻ trộm nào ngốc đến vậy? Huống hồ, Côn Lôn từ xưa canh phòng nghiêm ngặt, Đình Ly lại là linh thú tu hành vạn năm, trên đời này, số người có thể đoạt được Huyền Thạch từ tay nàng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Cho nên, ngay từ đầu, Hàn Nan Thạch căn bản không hề bị đánh cắp. Tất cả chỉ là một âm mưu. Nếu ta đoán không sai, từ sau chuyện đó, những viên Huyền Thạch còn lại đều đã quy về Côn Lôn. Đại hội được đẩy lên sớm, mà màn kịch “trộm hô bắt trộm” này chính là kết quả của trăm năm tính toán của các ngươi, có phải không?”
Sắc mặt Bạch Kỷ tái nhợt, hắn cúi đầu không đáp.
Ta cười lạnh một tiếng: “Đúng là một nước cờ nhất tiễn song điêu. Kế này chẳng những phân tán sự chú ý, mà còn nhổ bỏ được cái gai trong mắt từ Bắc Hải là ta. Bạch Kỷ, ngươi quả nhiên rất thông minh.”
Bạch Kỷ đột nhiên kích động, toàn thân run rẩy: “Ngươi đã nói chuyện này xảy ra trước thềm đại hội Côn Lôn, vậy hẳn ngươi cũng biết đó là ý chỉ của Cửu Trùng Thiên!”
“Ta không quan tâm đó là ý chỉ của ai!”
Giọng ta lấn át lời hắn, đôi môi hơi run, lạnh lùng cất lời: “Bạch Kỷ, cố ý lợi dụng người khác còn đáng hận hơn cả việc không tin tưởng. Ngươi không hiểu đạo lý này sao?”
Không biết đã qua bao lâu, giọng nói yếu ớt, lạnh lẽo của Bạch Kỷ mới lại vang lên: “Cửu Nương, ta có lỗi với ngươi.”
Nghe được câu này, toàn thân ta chấn động, nắm tay siết chặt, môi mím lại.
Ta đã đợi câu “ta có lỗi” này suốt mấy trăm năm. Nhưng khi thực sự nghe được, trái tim ta lại như bị dao cứa, vết thương vừa mới khép miệng lại rỉ máu.
Ta âm thầm hít một hơi thật sâu, nhắm mắt lại rồi mở ra, nhìn thẳng vào hắn, hỏi: “Các ngươi khiến cả tứ hải bát hoang đều tin rằng Huyền Thạch Côn Lôn bị đánh cắp, thực tế lại gom năm khối Huyền Thạch về một chỗ tại Côn Lôn. Các ngươi tự cho rằng kế hoạch vẹn toàn không một sơ hở, nhưng hiện giờ vẫn có kẻ đến Côn Lôn để trộm Huyền Thạch, ngươi có biết điều đó có nghĩa gì không?”
Bạch Kỷ không trả lời. Hắn vốn luôn dùng im lặng để đối diện với những chuyện và những người mà hắn không muốn đối mặt, điều này ngàn năm qua vẫn chưa từng thay đổi.
Ta chăm chú nhìn gương mặt tái nhợt của hắn, từng chữ từng chữ nhắc nhở: “Bạch Kỷ, trong số năm người nắm quyền ở Côn Lôn, có một kẻ phản bội. Ngươi thấy có nực cười không?”
Bạch Kỷ khẽ hé môi, nhưng một cơn ho dữ dội đã chặn đứng lời muốn nói. Đôi vai hắn run lên kịch liệt, máu từ khóe miệng lại tràn ra. Rồi chỉ thấy đôi mắt hắn từ từ khép lại, cả thân mình ngả ra phía sau.
Ta lập tức lao tới, đỡ lấy hắn.
“Bạch Kỷ… Bạch Kỷ, ngươi…”
Ta chỉ có thể lặp đi lặp lại tên hắn, không biết còn có thể nói gì khác.
Gương mặt Bạch Kỷ hiện rõ vẻ mỏi mệt. Một lúc lâu sau, hắn mới miễn cưỡng từ từ mở mắt.
Giọng nói của hắn cực kỳ khẽ, yếu ớt như làn gió thoảng: “Cửu Nương, để chuộc lỗi với ngươi, ta muốn tặng ngươi một món quà.”
Ta nhìn hắn, không nói lời nào, chỉ im lặng chờ đợi hắn tiếp lời.
Sau đó, Bạch Kỷ chậm rãi nói: “Ta sẽ đưa ngươi vào Hàn Đàm Thủy Cảnh để gặp Kình Thiên một lần.”
Khi ấy, kẻ trộm Huyền Thạch thất thủ, Bạch Kỷ lại trọng thương. Côn Lôn giữ được Huyền Thạch, nhưng suýt phải trả giá bằng mạng sống của một vị thần tôn.
Trên thế gian này, mỗi người đều vì đạo trong lòng mình mà kiên trì gìn giữ. Cái gì là đáng giá, cái gì là không đáng, có lẽ vốn dĩ chẳng thể phân định rạch ròi.
Hàn Đàm Thủy Cảnh của núi Côn Lôn nằm dưới Vân Huyền Nhai phía sau Bắc Sơn. Vân Huyền Nhai quanh năm băng phong tuyết phủ, nhưng bốn phương tám hướng đều có màn nước cuồn cuộn, nối liền đỉnh nhai và vực sâu. Phía sau màn nước chính Đông là một vách đá, được đúc từ linh thạch thượng cổ, chính là cửa vào chân chính của Hàn Đàm Thủy Cảnh.
Khi Bạch Kỷ đặt khối Huyền Thạch cuối cùng vào lỗ đá trên vách, màn nước dần tan, để lộ ra vách đá mở rộng.
Bạch Kỷ không vào thủy cảnh cùng ta. Nay hắn trọng thương, nếu lại tiến vào nơi này, chẳng khác gì tuyết phủ thêm sương.
Sau vách đá, không gian u ám tĩnh mịch, ta bất giác bước chậm lại, cố gắng không gây ra bất kỳ tiếng động nào.
Không biết đã đi trong bóng tối bao lâu, ta chợt tiến đến một nơi rộng rãi. Trước mắt là ánh nước lạnh lẽo, trên bốn vách đá treo vài ngọn nến, trong chốn không gió mà hắt hiu thoi thóp.
Nước trong hàn đàm sâu không thấy đáy. Tương truyền rằng nước này bắt nguồn từ sông Vong Sinh của U Minh Giản ngày xưa, chạm vào là thịt nát xương tan, hồn phách vĩnh viễn bị giam cầm trong dòng sông ấy.
Ta ngước mắt nhìn, giữa dòng nước quanh co có một tảng đá lớn. Trên tảng đá ấy có một người đang nhắm mắt tọa thiền. Người đó tuổi chừng ngang với Lang Tịch, dáng gầy guộc nhưng lưng lại thẳng tắp. Không biết có phải vì lâu ngày không thấy ánh mặt trời hay không, mà da dẻ y tái nhợt, đến mức mang vẻ bệnh hoạn.
Ta đưa mắt nhìn quanh, chỉ nghe thấy tiếng nước nhỏ giọt xuyên qua đá vọng lại từ đâu đó.
Đây là trọng địa giam giữ Long Đế, sao lại có người khác ở đây?
Ta quay đầu nhìn về phía người trên tảng đá, khẽ cau mày.
Người này chính là Long Đế.
Long Đế Kình Thiên – thần thú mà tổ tiên Bắc Hải từng theo chân, vị thần được long tộc tín ngưỡng suốt hàng trăm nghìn năm, kẻ được đồn rằng có khả năng khai thiên lập địa – lại hóa ra là một công tử trẻ tuổi mảnh mai yếu đuối.
Ta thở ra một hơi.
Nghe có tiếng động, người nọ vẫn không mở mắt, chỉ hỏi: “Bạch Kỷ, là ngươi sao?”
Bạch Kỷ? Vì cớ gì y lại nghĩ người đến là Bạch Kỷ?
Ta bước từng bước đến mép nước, không đáp lời.
Y vẫn nhắm mắt, tai hơi động. Không nghe được tiếng gì, y mới từ từ mở mắt.
Khi mở mắt, ánh nhìn y rõ ràng tĩnh lặng ôn hòa, nhưng đến khoảnh khắc nhìn rõ ta, lại lóe lên một tia hàn ý.
“Kẻ đến là ai?” Y hỏi lạnh lùng.
Ta đứng bên bờ nước, chắp tay nói: “Nữ nhi của Bắc Hải Long Vương, Đoạn Cửu Nương.”
Kình Thiên nhìn ta rất lâu, lâu đến mức khiến ta sởn cả gai ốc, rồi cuối cùng y mới hỏi: “Đoạn Nhĩ Sắt là gì của ngươi?”
“Là tổ tiên nhà ta.” Ta đáp.
Ta biết hai chữ “tổ tiên” quả thực mơ hồ. Nhưng sự thật là vậy, nếu bắt buộc phải nói ra quan hệ cụ thể, e rằng phải mất đến vài canh giờ.
“Nhĩ Sắt hắn…” Kình Thiên nói ba chữ, lại lắc đầu: “Ta luôn quên mất, thế gian đổi thay, sao dời vật đổi. Côn Lôn đã hai lần đổi chủ, huống hồ là Nhĩ Sắt.”
Giọng Long Đế trầm thấp, chậm rãi mà nhẹ nhàng, nhìn thế nào cũng không giống kẻ bạo ngược vô tình như lời đồn. Nhưng ta lại chợt nhớ đến ánh mắt lúc đầu y nhìn ta, xuyên qua hàn ý ấy, tựa hồ có thể thấy được dáng vẻ từng tung hoành bốn bể của Long Đế Kình Thiên ngày xưa.
“Ai cho phép ngươi vào đây?” Long Đế đột nhiên hỏi.
“Lẽ nào không thể do ta tự mình xông vào hay sao?” Ta hỏi ngược lại.
Long Đế lắc đầu: “Tuy lâu ngày ở thủy cảnh, nhưng ta cũng không phải hoàn toàn không hay biết việc bên ngoài. Nay Côn Lôn tuy chẳng còn như xưa, nhưng cũng không phải nơi mà một tiểu nha đầu như ngươi nói vào là vào được.”
Ta khẽ cười nhạt.
“Ngươi cười gì?” Long Đế lại hỏi.
Ta cười đáp: “Không có gì, chỉ là ở độ tuổi hiện tại của ta, đã lâu rồi không nghe ai gọi ta là ‘tiểu nha đầu’ nữa.”
Long Đế nhìn ta, chợt nói: “Bạch Kỷ cho ngươi vào đây.”
Hiển nhiên, y đã đoán ra.
Nhưng ta không đáp lời.
Long Đế lại hỏi: “Bạch Kỷ đâu? Hắn đã rất lâu không tới.”
“Ngài quen biết Bạch Kỹ ư? Hắn thường xuyên đến thăm ngài sao?” Ta không đáp mà hỏi ngược lại.
Long Đế dường như nhìn thấu tâm tư của ta, nhưng y không vạch trần, chỉ nói: “Hắn thỉnh thoảng đến đánh cờ cùng ta.”
“Đánh cờ?” Ta nhìn tảng đá dưới thân y, nghĩ bụng y bị giam hãm trong chốn nhỏ bé này, lại chẳng thể thi triển thần lực, thì làm sao mà đánh cờ được?
Khi ta còn đang suy nghĩ, Long Đế chỉ khẽ phất tay áo, chớp mắt một cái đã đứng ngay trước mặt ta.
Ta giật mình, ngẩng đầu nhìn lại tảng đá, trống không. Nhìn bốn phía mặt nước, chẳng gợn chút sóng.
“Ngài…” Ta kinh ngạc trợn mắt: “Ngài có thể…”
Long Đế mỉm cười: “Người từng phong ấn ta đã khuất từ lâu, bát phương thần quân đến rồi đi. Nay Côn Lôn, chỉ dựa vào mấy tảng đá nhiễm thần tức cũng muốn giam giữ Kình Thiên ta sao?”
“Vậy tại sao ngài không rời đi?” Ta trầm giọng hỏi.
Long Đế nhàn nhạt hỏi lại: “Đi đâu? Ta chỉ hỏi ngươi một câu, nhân gian này, có còn là nhân gian ngày trước không?”
Y nói chẳng sai. Hàng trăm ngàn năm qua, thế gian đã sớm đổi thay, đừng nói y, ngay cả tám phương thần quân nếu trở lại, cũng chưa chắc nhận ra được sông núi dưới chân mình.
Khi ta còn bàng hoàng, y lại hỏi: “Bạch Kỷ..rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?”
Tay nắm kiếm của ta siết chặt, đáp: “Hắn mắc trọng bệnh.”
Long Đế nhíu mày, thở dài: “Chẳng lẽ vì Hàn Nan Thạch?”
Ta không ngờ y lại dễ dàng nghĩ đến điều này như vậy.
“Hắn sao rồi?” Long Đế hỏi tiếp.
Nghĩ bụng cũng chẳng có lý do gì để giấu, ta thẳng thắn nói: “E rằng đã đi đến tận cùng, không còn sống được bao lâu nữa.”
Long Đế nhíu chặt mày, dường như nghĩ đến điều gì, ngẩng đầu nhìn ta hỏi: “Ngươi là tiểu đồ của Bạch Kỷ?”
Ta ngây người.
“Đoạn Cửu Nương… Cửu Nương… Đúng rồi, là Cửu Nương.” Long Đế lẩm bẩm, chợt hỏi tiếp: “Ngươi đã trở lại Côn Lôn, ngươi không còn oán trách hắn nữa sao?”
Ta không biết Bạch Kỷ ã kể với Long Đế những gì, cũng không rõ y nghe được bao nhiêu về chuyện năm xưa. Nhưng nhìn tình hình hiện tại, mấy năm nay ở Côn Lôn, Long Đế Kình Thiên, rõ ràng không chịu nhiều ấm ức như chúng ta vẫn nghĩ.
Ta cười khổ, lắc đầu, mắt nóng lên: “Những năm qua, biết bao tộc nhân vì ngươi rời bỏ cố thổ, khổ cực cả một đời. Vậy mà ngài đã sớm nhìn thấu, ở đây tiêu dao tự tại.”
“Tự tại?” Long Đế bỗng lạnh lùng cười: “Cửu Nương, vạn vật sinh linh, chỉ cần còn mở mắt, thì không thể tự tại.”
Nói rồi, Long Đế khẽ nhướng mày, bước tới bên bờ nước, chậm rãi nói:
“Ta ở đây tham thiền ngộ đạo, vì ta đã nhìn thấu quá khứ, vô dục vô cầu. Nhưng vô dục vô cầu không có nghĩa là ta nguyện để mặc người khác thao túng. Chuyện ta phá trận, chỉ có một mình Bạch Kỷ iết. Hắn không nói, bởi hắn hiểu rằng nếu thiên hạ biết ta nay có thể rời khỏi hàn đàm, thì dù phải trả giá thêm vài mạng thượng thần, bọn họ cũng sẽ lại muốn phong ấn ta. Nhưng với sức mạnh của chúng thần ngày nay, những kẻ có thể đối đầu với ta chỉ đếm được không quá ba người. Đến lúc đó, nếu binh đao nổi lên, ta tuyệt đối không khoanh tay chịu chết. Khi ấy, thắng bại ra sao chưa biết, nhưng sinh linh đồ thán là điều chắc chắn. Kết quả như vậy, đối với ta, đối với Côn Lôn, đối với thế gian này, đều không phải chuyện tốt đẹp gì.”
Ta nhìn bóng lưng Long Đế, cau mày hỏi: “Ngài muốn ta giữ bí mật cho ngài sao?”
Long Đế gật đầu.
“Vậy cớ gì ngài lại để ta biết?” Ta nhíu mày.
Long Đế quay người lại, nói:
“Bạch Kỷ ã để ngươi đến gặp ta, hẳn là đã quyết định nói rõ sự thật, mong ngươi có thể tháo gỡ khúc mắc trong lòng.”
Nói xong, Long Đế lại tiếp lời:
“Có thể thỉnh Cửu Nương mời Bạch Kỷ đến gặp ta lần cuối hay chăng? Ta muốn từ biệt hắn. Ta biết Bạch Kỷ nay trọng thương, khó lòng vào được thủy cảnh. Mong Cửu Nương có thể đi cùng, ta vô cùng cảm kích.”
Sống đến giờ này, ta Đoạn Cửu Nương lại có ngày được nghe Long Đế nói một câu “vô cùng cảm kích”.
Đã đội chiếc mũ cao như thế, ta làm sao có thể từ chối? Đành thở dài, đáp một tiếng:
“Được.”
“Còn về chư hải long vương…” Long Đế nói: “Cũng xin Cửu Nương mang đến cho họ một câu.”
Ta suy nghĩ rất lâu, cuối cùng vẫn gật đầu.
33
Ngày thứ ba kể từ khi đến Côn Lôn, từ chỗ Phục Hợp thần tôn truyền đến tin tức, rằng có cố nhân từ xa tới, nhưng Cầm Tô chỉ đáp lại hai chữ: “Không gặp.”
Nghe được hai chữ này, Liễu Vô Huyễn tâm hỏa công tâm, nghẹn không thở nổi, liền phun ra một ngụm máu tươi.
Thân thể hắn vốn đã yếu nhược, nay bệnh càng thêm nặng, hôn mê bất tỉnh. May thay Côn Lôn có không ít kỳ dược, hắn quan tại Thư Lan cốc bên Tây Sơn xem qua, kê đơn thuốc, chỉ bảo cần chậm rãi điều dưỡng.
Nhưng “chậm rãi” này, không biết phải kéo dài đến bao giờ.
Năm, sáu ngày qua đi, bệnh tình của Liễu Vô Huyễn vẫn lúc tốt lúc xấu. Cuối cùng, một ngày nọ, ta bắt gặp hắn lén đổ chén thuốc cần phải uống.
Khi ấy, ta giận dữ chất vấn, hỏi vì cớ gì. Không ngờ Liễu Vô Huyễn lại nói:
“Không muốn rời đi.”
Hắn muốn ở lại Côn Lôn, chờ Cầm Tô hóa thành nhân hình.
“Ngươi có biết ít nhất phải chờ ngàn năm không?” Ta hỏi.
Liễu Vô Huyễn gật đầu: “Chớ nói ngàn năm, dù là vạn năm, ta cũng nguyện chờ.”
Ta nghiến răng, lạnh lùng nói: “Với cách chờ này của ngươi, chưa đợi được hắn ra ngoài, ngươi đã chết trước rồi!”
Liễu Vô Huyễn không đáp. Một hồi lâu sau, hắn thở dài nói: “Cửu Nương, ta là yêu. Ngoài điều này ra, ta chẳng còn lý do nào để ở lại Côn Lôn.”
“Thật điên rồ!” Ta giận dữ nói: “Côn Lôn mà đuổi ngươi, thì dù ngươi có bệnh sắp chết, cũng sẽ vứt ngươi ra ngoài!”
Liễu Vô Huyễn nhìn ta, nhíu nhíu mày, sau đó ho khan kịch liệt, lại ho ra không ít máu.
Những ngày này, dường như ta luôn thấy người ta ho ra máu, cả Côn Lôn trong chốc lát đều mang vẻ bệnh hoạn, yếu ớt.
Ta thầm thở dài, bất đắc dĩ nói: “Có một người có lẽ có thể giúp ngươi. Ta sẽ thử hỏi, nhưng đừng ôm quá nhiều hy vọng.”
Nói xong với Liễu Vô Huyễn, ta liền đi tới chỗ Diêu Ca.
Không ngờ, Diêu Ca Qua tức đồng ý giữ lại Liễu Vô Huyễn.
“Nơi ta vừa khuyết một vị hộ vệ canh kết giới.” Diêu Ca thản nhiên nói.
“Đa tạ, Cửu Nương kính trà thay rượu.”
Nói rồi, ta nâng chén trà lên.
Khi đặt chén xuống, ta nghĩ đi nghĩ lại, cuối cùng vẫn mở miệng hỏi: “Ngươi có nghe nói về chuyện Hàn Nan Thạch không?”
Diêu Ca gật đầu: “Bạch Kỷ đột nhiên mắc trọng bệnh, e rằng có liên quan đến Hàn Nan Thạch. Nhưng ta đoán tảng đá ấy vẫn còn ở Côn Lôn.”
“Sao ngươi biết?” Ta khẽ cười.
Diêu Ca nhàn nhạt đáp: “Bạch Kỷ là người thà gãy chứ không chịu cong. Muốn lấy được huyền thạch từ tay hắn, trừ phi hắn chết. Chỉ cần hắn còn một hơi thở, sẽ chọn đá mà bỏ mạng.”
Nhìn Diêu Ca, ta thoáng ngây người. Nghĩ đến hắn quanh năm chu du bên ngoài, dù trở về cũng không ra khỏi thâm sơn, làm sao lại biết nhiều chuyện bên ngoài như vậy. E rằng cả thiên lý nhãn hay thuận phong nhĩ cũng không nhạy bén bằng Diêu Ca.
Suy nghĩ một lúc, ta nhấp một ngụm trà.
Hạ chén trà xuống, ta lại hỏi: “Chuyện về Hàn Nan Thạch, ta vốn đã đoán được đôi phần. Chỉ là ta không hiểu, hiện nay Bạch Kỷ rọng thương, vì sao Côn Lôn không có động tĩnh gì?”
“Động tĩnh gì?” Diêu Ca nhìn ta, vẻ mặt đầy hứng thú.
Lời Diêu Ca có ẩn ý, thần sắc như muốn hé lộ điều gì đó.
Ta nhíu mày, hỏi: “Ngươi biết ai là người trộm Hàn Nan Thạch sao?”
Diêu Ca cười: “Không chỉ ta, ngay cả ngươi cũng nên biết.”
Lông mày ta càng nhíu chặt hơn.
Diêu Ca hỏi: “Ta hỏi ngươi, ngoài long tộc, còn ai muốn Long Đế tái xuất nhân gian hơn nữa?”
Xưa nay Long Đế giao tình chẳng tốt, ngoại trừ Long tộc, còn ai dám bất chấp đại nghĩa thiên hạ để cứu y? Nếu thực có người như vậy, e rằng cũng là kẻ điên rồi.
Thấy ta không đáp, Diêu Ca lại hỏi: “Hoặc để ta hỏi ngươi thế này, nếu Long Đế tái xuất nhân gian, kẻ chịu khổ sở nhất sẽ là ai?”
“Là Côn Lôn.” Ta đáp ngay không chút do dự.
Suy nghĩ một lát, ta tiếp lời: “Thế nhân đều biết, Long Đế và Côn Lôn có thâm cừu cũ. Nếu lần này hắn được thoát thân, kẻ đầu tiên hắn tìm báo thù ắt hẳn là Côn Lôn. Hiện nay Bát Phương Thần Quân đều đã không còn, Côn Lôn vốn đã suy yếu, nếu Long Đế dẫn dắt Long tộc đánh vào Côn Lôn, e rằng Côn Lôn đại họa khó tránh.”
Diêu Ca gật đầu, lại hỏi: “Vậy ngươi nghĩ, trong năm nơi, kẻ muốn thấy Côn Lôn gặp họa nhất là ai?”
“Chắc hẳn là những kẻ có thù sâu với Côn Lôn…” Nói đến đây, ta bỗng hiểu ra: “Ngươi nghi ngờ Địa Phủ?”
Nói xong, ta lắc đầu: “Nhưng Đế Diên đã cùng Cửu Trùng Thiên lập lại minh ước, sao Địa Phủ lại khơi mào chiến sự nữa?”
Diêu Ca cười nhạt: “Đó là minh ước với Cửu Trùng Thiên, nhưng mối thù với Côn Lôn, từ khi nào đã nói buông bỏ?”
Ta ngẩn người, không thể phản bác được.
Thở dài một tiếng, ta nói: “Nhưng dẫu muốn đối phó Côn Lôn, cũng không cần gấp gáp trong lúc này. Hà cớ gì lại chuốc lấy hiềm khích vào thời điểm này?”
Diêu Ca hỏi lại: “Nếu thời điểm này là thời điểm không thể không hành động thì sao?”
“Là ý gì?” Ta hơi không hiểu rõ.
Diêu Ca đáp: “Ngươi có nghe qua chuyện ngọc Phất Vân Châu hiện thế chưa? Dẫu chỉ là bạch châu, khí tức chỉ lóe lên trong thoáng chốc, nhưng ngươi có biết điều này có nghĩa gì không?”
“Phất Vân Châu? Chẳng phải đó là…” Ta sửng sốt cất lời: “Ngươi nói Thúc Hòa Thần Quân của Côn Lôn trở về rồi sao?”
“Nhưng Bát Phương Thần Quân chẳng phải đã hồn phi phách tán rồi sao?” Ta hỏi.
Diêu Ca gật đầu: “Ngày xưa quả thật là hồn phi phách tán. Nhưng Phất Vân Châu đã nhận chủ, nó tái hiện nhân gian, nghĩa là Thúc Hòa Thần Quân đã để lại dấu vết nơi trần thế. Có lẽ một ngày nào đó, điều không thể lại thành có thể, ai mà biết được?”
“Thúc Hòa Thần Quân thực sự có thể trở lại nhân gian ư?” Ta lẩm bẩm, hít sâu một hơi.
Diêu Ca nói: “Chuyện có thể còn không chỉ như vậy. Nếu Thúc Hòa Thần Quân có thể quay lại nhân gian, thì bảy vị thần quân còn lại của Côn Lôn cũng có khả năng tái hiện. Dẫu cơ hội mong manh, nhưng đủ để chấn động toàn bộ Côn Lôn.”
Trong lòng ta bừng sáng, đột nhiên ngẩng đầu: “Hoặc là… đủ để chọc giận toàn bộ U Minh.”
Diêu Ca mỉm cười không đáp.
“Địa Phủ…” Ta trầm giọng: “Họ muốn cứu Long Đế để áp chế Côn Lôn. Nhưng điều họ muốn hơn cả chính là mượn tay Long Đế, ngăn cản Bát Phương Thần Quân của Côn Lôn phục vị, trả thù cho mối huyết hận ngày xưa.”
Diêu Ca nhàn nhạt cười: “Tất nhiên, đây chỉ là suy đoán.”
“Bọn họ thực sự liều lĩnh như vậy sao?” Ta nhíu mày lẩm bẩm.
Diêu Ca từ tốn nói: “Thế nào là liều lĩnh? Đế Diên xưa nay chỉ hành sự theo đạo của lòng mình. Quá khứ là vậy, hiện tại cũng vậy.”
Ta hỏi: “Vậy Côn Lôn hiện giờ định liệu ra sao?”
“Chẳng định liệu gì cả.” Diêu Ca mỉm cười lắc đầu:
“Cửu Trùng Thiên và Địa Phủ vừa lập minh ước, tuyệt đối sẽ không vì những việc không căn cứ, lại hư vô mờ mịt này mà khơi mào đại chiến. Đế Diên nắm được điểm này, mới dám hành động như vậy.”
Ta thở dài: “Nhưng nếu không phải là hư vô mờ mịt thì sao? Nếu một ngày nào đó các Thần Quân của Côn Lôn trở về, dẫu cho Long Đế vẫn ở trong hàn đàm, Địa Phủ liệu có cam lòng không?”
Ta cũng không biết mình sốt ruột vì điều gì. Theo lý, nếu Địa Phủ muốn tính sổ thì cũng là nhắm vào Côn Lôn, nào có liên quan gì đến Đoạn Cửu Nương ta? Huống chi, qua những hành động trước đây của Đế Diên, dễ thấy nàng không phải kẻ hiếu sát thích chiến tranh. Dẫu có tính sổ, cũng chỉ là âm thầm toan tính, tuyệt đối không có khả năng phát sinh đại chiến.
Diêu Ca nói: “Với vị Diêm Vương hiện tại của Địa Phủ, ta không lo lắng. Nhưng Phất Vân Châu vừa mới xuất hiện trên đời, dù các Bát Phương Thần Quân có thể trở về cũng phải mất ít nhất vài nghìn năm. Trong khoảng thời gian ấy, thế sự xoay vần, nếu Địa Phủ đổi chủ, Diêm Vương kế nhiệm không điềm tĩnh và cẩn trọng như Lâm Thiếu Nguyên, thì lúc đó mọi chuyện mới thực sự khó lường.”
Ta cười bất đắc dĩ: “Theo lời ngươi, ít nhất trong vài nghìn năm tới, sẽ không xảy ra chuyện gì lớn.”
Diêu Ca gật đầu.
Lúc ta và Diêu Ca đang trò chuyện, bên ngoài điện có một tiểu tiên đồng đến truyền tin. Tiểu tiên đồng kia tuổi còn nhỏ, bước vào hành lễ với Diêu Ca, rồi lại hành lễ với ta, sau mới nói: “Thượng thần, Tư Ngọc Thần Quân sai người đưa thiệp mời, nói rằng đêm nay thiết yến tại Ung Hoa Điện, đặc biệt mời người đến dự.”
Diêu Ca sững người một chút, sau đó nhíu mày hỏi: “Việc gì mà ồn ào đến thế? Đã mấy trăm năm không thấy xuất hiện, lần này lại làm gì đây?”
Tiểu tiên đồng hai tay dâng thiệp, nói: “Nói là Bắc Hải đến lấy Băng đế tuyết liên đã hứa từ ngàn năm trước.”
Nghe đến hai chữ “Bắc Hải”, khóe mắt ta giật nhẹ, cả thân mình cứng đờ. Ta cầm chén trà trên tay, vẫn giữ vẻ điềm tĩnh, lặng lẽ nghe tiếp.
Diêu Ca nhận lấy thiệp, mở ra nhìn thoáng qua.
Tiểu tiên đồng dò hỏi: “Thượng thần, Băng đế tuyết liên này chẳng phải là cây bên cạnh Thiên Phong Trì sau núi của chúng ta hay sao?”
Diêu Ca gật đầu, khép thiệp lại.
Tiểu tiên đồng lẩm bẩm: “Cây tuyết liên này thật là quý giá, đến mức khiến Bắc Hải Thần Quân Lang Tịch phải đích thân đến đây.”
“Ai cơ?”
Rõ ràng ta đã nghe rõ, nhưng vẫn theo thói quen buột miệng hỏi lại.
Hỏi xong, ta bất giác nhíu mày.
Diêu Ca nhìn tiểu tiên đồng truyền tin, gật đầu nói:
“Việc này ta biết rồi, ngươi lui xuống trước đi.”
Tiểu tiên đồng hành lễ rồi rời khỏi.
Sau khi hắn đi, Diêu Ca không nói gì thêm, chỉ chăm chú nhìn ta. Một lúc sau, hắn khẽ lắc đầu, bật cười: “Thật đúng là trên đời không có bức tường nào không lọt gió.”
Xem ra, những năm qua Bắc Hải vẫn không từ bỏ việc cài cắm tai mắt trong Côn Lôn. Nhưng mấy vị thần tôn của Côn Lôn há lại là kẻ ngốc? Lang Tịch mượn cớ tuyết liên để đích thân đến Côn Lôn, chẳng khác nào tự thú nhận về việc cài mắt.
Huynh trưởng của ta, thường ngày nhìn thì có vẻ trầm ổn, nhưng khi cố chấp thì chẳng ai ngăn nổi. Chỉ cần là việc mà huynh ấy đã quyết định, dù phải trả giá lớn đến đâu, cũng không từ bỏ.
Ta đang mải suy nghĩ thì Diêu Ca bỗng hỏi: “Cửu Nương có muốn đi cùng ta không?”
Ta lắc đầu, giả bộ không hiểu: “Việc của Côn Lôn ta vừa xong, chuyện tuyết liên này ta không xen vào nữa.”
Diêu Ca im lặng một lúc lâu, rồi đột nhiên mỉm cười nói: “Tính cách của huynh trưởng ngươi, ngươi còn rõ hơn ta. Nhìn thì ôn hòa nhã nhặn, nhưng cố chấp nhất chính là điểm ấy. Ngươi nghĩ rằng chuyến đi này, nếu hắn không gặp được ngươi, hắn sẽ chịu bỏ qua sao? Nếu hắn thực sự tìm ngươi đến những nơi khác, với tính cách của hắn, ngươi biết hắn có thể làm ra chuyện gì mà.”
Ta thở dài.
Nếu để Lang Tịch biết ta nay trường cư nơi núi Hoang Lệ, e rằng ba ngày hai bữa sẽ sai người đến thăm hỏi. Hôm nay đưa chút điểm tâm, ngày mai lại tặng mấy nha hoàn, khi ấy chỉ sợ quán trọ kia lại phải dời đi nơi khác.
“Ngươi cùng ta đi một chuyến, ta cam đoan, chỉ cần ngươi không muốn, Lang Tịch tuyệt đối không thể cưỡng ép đưa ngươi về Bắc Hải.” Diêu Ca nói như vậy.
“Về…?” Ta khẽ thì thầm.
Diêu Ca dùng chữ “về,” chứ không phải “đến.” Trong lòng ta chợt sáng tỏ, Bắc Hải là quá khứ của ta, là cố thổ của ta, ta rốt cuộc cũng cần phải có một lời giải thích.
“Cửu Nương…”
Thấy ta thất thần, Diêu Ca khẽ gọi một tiếng.
Ta hoàn hồn, chắp tay nói: “Ta sẽ không tham dự yến tiệc, nhưng trước khi rời khỏi, ta tự nhiên sẽ gặp đại ca một lần.”
34
Hôm ấy, Lang Tịch bị yến tiệc cuốn lấy, không thể thoát thân, ta bèn cùng Bạch Kỷ iến vào hàn đàm một chuyến.
Đến khi quay lại nơi ở đã là đêm khuya, vậy mà Lang Tịch đã đứng đợi trước cửa từ bao giờ.
Hắn lặng lẽ ngồi trong viện, đặt kiếm lên bàn đá, thần sắc nghiêm nghị.
Ta đứng từ xa nhìn hắn, tựa như cách cả một đời người.
Lang Tịch từ thuở nhỏ đã mang dáng vẻ trưởng thành, ít nói, lại nghiêm túc, dường như đối với mọi sự đều vô cùng cẩn trọng.
Khi còn nhỏ, hắn trách ta nhiều nhất, nhưng cũng bảo vệ ta nhiều nhất. Khi ấy ta chưa từng nghĩ, giữa ta và hắn lại có ngày trở thành như bây giờ.
Ta còn đang lặng lẽ nhìn hắn từ xa, thì hắn đã phát hiện. Hắn đứng phắt dậy, ngẩn người tại chỗ.
Khi ta đến gần, Lang Tịch cũng bước lên chào đón.
“Cửu Nương…”
Đôi mắt Lang Tịch thoáng đỏ, bàn tay nắm lấy tay ta khẽ run, cổ họng nghẹn lại: “Muội gầy đi rồi.”
Ta khẽ cười nhạt:
“Có lẽ là do tuổi tác. Mấy năm gần đây không còn ăn được như hồi trẻ.”
Lang Tịch nói: “Cửu Nương còn trẻ là lúc đẹp nhất.”
Ta im lặng giây lát, rồi nói: “Vào nhà đi, bên ngoài lạnh lắm.”
Ta và Lang Tịch bước vào trong phòng, mang theo hơi lạnh từ bên ngoài, hồi lâu vẫn chưa ấm lại.
Ta thắp sáng ngọn nến, cùng Lang Tịch ngồi đối diện nhau.
Ngồi xuống rồi, Lang Tịch lại chẳng nói lời nào. Cứ thế đối diện, hắn dường như có chút gò bó.
Cũng phải, ta và hắn, huynh muội hai người đã nhiều năm không gặp.
Phải nói gì đây? Có thể nói gì đây? Chuyện năm xưa nếu nhắc lại e có phần lúng túng, còn chuyện sau này nếu nói đến khó tránh không vui.
Hồi lâu sau, vẫn là ta phá vỡ bầu không khí im lặng: “Tẩu tẩu dạo này thế nào?”
Lang Tịch đáp: “Nàng rất tốt, chỉ là đôi khi nhớ nhà. Mấy ngày trước ta đã sai người đưa nàng về Thanh Khâu thăm một chuyến.”
Ta khẽ gật đầu.
Lang Tịch lại hỏi: “Nghe nói cháu gái của nàng vẫn luôn đi theo muội, có chuyện đó không?”
Ta “ừm” một tiếng, đáp: “Nha đầu đó khá ngoan, ta rất thích.”
Lang Tịch hỏi tiếp: “Vậy mấy năm nay, muội và tiểu nha đầu sống ở đâu?”
Cuối cùng hắn cũng đi vào chính đề.
Ta khẽ cười: “Chốn nào cũng là nhà, tự tại mà vui vẻ.”
Câu nói vừa dứt, Lang Tịch lộ vẻ bi thương.
Hồi lâu sau, hắn chỉ lặng lẽ nhìn ta, chậm rãi nói: “Cửu Nương, theo ta về nhà đi.”
“Nhà?” Ta cúi mắt, giọng nhẹ tựa tơ: “Bắc Hải ấy, từ lâu đã chẳng còn là nhà của ta.”
Lang Tịch nghẹn ngào, khẽ thở dài: “Đó là lỗi của huynh.”
Ta từ từ ngước mắt nhìn Lang Tịch, giọng nhạt như nước: “Không phải lỗi của huynh. Do ta và Bắc Hải, duyên mỏng tình cạn.”
Giọng Lang Tịch đầy chua xót: “Huynh biết muội từng oán hận, vì ngày ấy đã đưa muội rời Bắc Hải, vì chưa thể gặp mẫu thân lần cuối.”
Sắc mặt Lang Tịch tái nhợt, hẳn còn nghĩ ta đang giận dỗi hắn, giận dỗi Bắc Hải. Hắn đâu biết rằng, ta thật sự đã buông bỏ quá khứ.
Nhưng buông bỏ, không có nghĩa là quên. Giống như ta đã nói với hắn, giữa ta và Bắc Hải, giữa ta và người nhà, có lẽ duyên phận nhạt nhòa, rốt cuộc chẳng thể sưởi ấm cho nhau.
Nếu đã khác đường, hà tất phải miễn cưỡng chung lối?
Ta nói: “Từng oán hận, đúng là có khoảng thời gian như vậy. Nhưng nay đã buông bỏ cũng là thật. Huynh có sứ mệnh của huynh, ta cũng có con đường của ta. Huynh không cần bận lòng.”
“Nhưng mà…”
Lần này, ta không chờ Lang Tịch nói hết câu, liền lên tiếng: “Ta đã gặp Long Đế.”
“Long Đế?” Lang Tịch sửng sốt, không thể tin được mà hỏi: “Bọn họ để muội gặp Long Đế Kình Thiên ư?”
“Nhờ Bạch Kỷ.” ta đáp.
Lang Tịch lại ngẩn người, rồi thở dài: “Ta nghe nói Bạch Kỷ bệnh nặng, đã lâu không rời Hạc Phong Điện. Muội đến Côn Lôn lần này, cũng là để gặp hắn, phải không?”
Ta cười khổ: “Ta từng nghĩ rằng hắn đã chết rồi.”
Lang Tịch im lặng, tựa hồ không biết phải nói gì.
“Long Đế muốn ta mang một câu đến Bắc Hải, đến Long tộc.” Ta nói.
“Là câu gì?” Lang Tịch hỏi.
Ta nhìn thẳng vào hắn, chậm rãi nói: “Vạn sự thương tang, chung nan hoàn.”
Trong mắt Lang Tịch thoáng qua một tia ngỡ ngàng, môi hắn mấp máy, nhưng lại chẳng thốt nổi một chữ.
Ta khẽ nói: “Long Đế đã sớm nhìn thấu vòng xoay đổi thay của thế gian, vậy Long tộc cớ gì còn mãi dậm chân tại chỗ? Huynh trưởng, buông bỏ quá khứ, mới có thể bước tới tương lai.”
Lang Tịch không đáp, chỉ chau mày trầm ngâm.
Hai chữ ‘buông bỏ’, nghe qua tưởng dễ, nhưng làm sao có thể dễ dàng như vậy?
Ta chậm rãi đứng dậy, nhìn Lang Tịch, nhẹ giọng nói: “Bạn ta vẫn đang chờ ở nơi xa, lát nữa ta sẽ lên đường rời đi. Nếu huynh muốn, hãy đến tiễn ta một đoạn.”
Lang Tịch như muốn nói điều gì, nhưng thấy nét kiên quyết trên mặt ta, cuối cùng chỉ thở dài, vẻ miễn cưỡng mà gật đầu.
Từ sau khi ta cùng Bạch Kỷ iến vào thủy cảnh trong hàn đàm, hắn liền rơi vào hôn mê. Khi ta rời đi, hắn vẫn chưa tỉnh lại.
Hôm ấy, Côn Lôn bỗng nổi sương mù dày đặc, núi non trùng điệp chỉ còn thấy đỉnh tuyết trắng phau. Lang Tịch đứng cách ta không xa, sắc mặt tái nhợt tựa như hòa lẫn vào làn sương.
Ta chắp tay thi lễ, chân thành nói: “Huynh trưởng bảo trọng.”
Lang Tịch không đáp, không biết là giận hay buồn.
Mãi đến khi ta xoay người rời đi, hắn bỗng gọi tên ta: “Cửu Nương.”
Ta dừng bước, nghe hắn nói:
“Chỉ cần muội muốn, Bắc Hải mãi mãi là nhà của muội.”
Ta khẽ cười, không quay đầu lại, chỉ đưa tay vẫy vẫy, rồi cứ thế thẳng bước xuống núi.
Ta biết, Lang Tịch vẫn đứng phía sau, nhìn theo bóng ta.
Hắn tiễn ta rời khỏi Côn Lôn, giống như năm đó từng tiễn ta đến Côn Lôn.
Ta thường hay nghĩ, có lẽ sinh mệnh vốn dĩ là một vòng luân hồi. Chúng ta dường như cứ lặp lại những con đường đã qua, gặp lại những con người đã quen, trải qua những chuyện từng xảy ra, để rồi có cảm giác như mãi mãi loanh quanh tại chỗ.
Nhưng kỳ thực, khi đã bước qua những chặng đường rất dài, ngoảnh đầu nhìn lại, ta mới hiểu, nơi cuối cùng chúng ta đi đến, vĩnh viễn sẽ không phải là chốn khởi đầu.
Dù muốn hay không, dù căm ghét hay hoài niệm, nơi sinh mệnh bắt đầu cuối cùng vẫn không thể trở thành nơi quay về. Dù là Long Đế hay Cửu Nương, chúng ta chỉ có thể không ngừng tiến về phía trước, mang theo những tiếc nuối, và mãi mãi không ngoảnh đầu.