Là hoa tàn hoa rụng của ba thu
Là duyên sâu duyên mỏng của một đời
Là sự tích lũy trùng điệp của lịch sử
Là mắc mớ buồn vui của luân hồi
Là giữ trọn lời thề
Là số mệnh lưu luyến
Cũng là hết thảy, hết thảy những gì thuộc về chàng trước mắt ta.
Cầu xin chàng...
Công tử... của ta.
Hồi thứ mười hai: Hồi thành
Ngày hai mươi tư, tháng sáu, năm Đông Bích thứ tư.
Trăng treo giữa trời, cung đăng sáng rực.
Trong Gia Ninh cung vô cùng náo nhiệt. Phóng tầm mắt nhìn ra bốn phía, đèn đỏ rượu xanh, ca vũ thái bình. Toàn bộ phi tử mỹ nhân của hậu cung đều tập trung trong một sảnh đường để tham gia thọ yến lần thứ mười chín của Khương quý nhân - Khương Họa Nguyệt.
Trên ghế chủ thượng, Chiêu Doãn mỉm cười thể hiện rõ tâm trạng vui vẻ hơn ngày thường, thậm chí còn tự tay gắp thức ăn cho người được chúc thọ, khiến Khương Họa Nguyệt vốn bị lạnh nhạt hơn nửa năm nay mừng khôn xiết, cảm động đến mức mắt đỏ rưng rưng.
Rượu quá nửa tuần, Điền Cửu bỗng xuất hiện, thì thầm mấy câu gì đó bên tai đại thái giám La Hoành, khiến sắc mặt ông ta đột ngột biến đổi, vội vàng tiến lên mật tấu với Chiêu Doãn. Khương Họa Nguyệt thấy vậy, trái tim nàng chùng xuống, một dự cảm không lành trỗi dậy, nhưng Chiêu Doãn vẫn yên vị trên ghế, vẻ mặt bình tĩnh, không vui cũng chẳng giận, La Hoành vẫn nói gì đó, rõ ràng ông ta đang rất lo lắng.
Cuối cùng, Chiêu Doãn giơ một tay lên, ra hiệu cho La Hoành lui ra, ông ta vội nói: "Nhưng hoàng thượng..."
Chiêu Doãn lại xua xua tay. La Hoành lập tức khom lưng lui ra.
Khương Họa Nguyệt không kìm được hỏi: "Hoàng thượng, có chuyện gì sao?".
Chiêu Doãn rời mắt khỏi đám ca múa phía trước, y cười với nàng: "Không có chuyện gì. Tối nay, không gì quan trọng bằng sinh nhật của ái phi".
Lúc này, trái tim đang treo lơ lửng của Khương Họa Nguyệt mới rơi phịch xuống, nàng thở phào, ngọt ngào nói: "Hoàng thượng đối với thần thiếp thật tốt...", vừa thì thầm nàng vừa ngả người về phía y. Chiêu Doãn cũng không cự tuyệt, y đưa tay ôm lấy nàng, cùng dựa vào ghế rồng xem ca múa. Ân sủng rõ ràng như thế, khiến đám phi tử ngồi đấy không khỏi bặm môi nghiến răng, trong lòng thầm chua xót, không hiểu tại sao chỉ trong một đêm mà Khương quý nhân lại bắt đầu được sủng ái. Những kẻ hiếu sự càng không nhịn được nghĩ, tại sao cảnh tượng như thế này mà Hy Hòa phu nhân và Cơ quý tần không có mặt cơ chứ, nếu hai người bọn họ cũng có mặt, thì Khương Họa Nguyệt đâu thể một mình chiếm hết vinh quang như vậy được. Nhưng hai người đó, một người nói ngọc thể bất an, còn một người ba ngày trước đã đến Định Quốc tự bái Phật vẫn chưa về, mãi đến lúc thọ yến kết thúc cũng chẳng thấy bóng dáng.
Tiệc tàn, Chiêu Doãn đương nhiên cũng ở lại trong Gia Ninh cung, nhưng vào giờ Dần một khắc, y đột nhiên tỉnh giấc, không làm kinh động đến Khương Họa Nguyệt đang say giấc nồng bên cạnh, khoác áo bước ra khỏi phòng.
Bên ngoài tĩnh mịch yên ắng, đám cung nhân đều bị đuổi đi ngủ cả, thị vệ gác đêm nhận được mệnh lệnh từ trước, nhìn thấy y, cũng chỉ cúi người hành lễ, không phát ra tiếng động nào.
Điền Cửu giống như ma trơi trong đêm trăng, lặng lẽ đứng đợi y trong gió, trên tay cầm một chiếc áo khoác, thấy y bước ra khỏi cửa cung liền tức tốc chạy tới, khoác áo lên mình y.
Chiêu Doãn vừa đi vừa hỏi: "Người đâu?".
"Đều đợi ở Bách Ngôn đường".
"Để các ngươi đợi lâu rồi".
"Làm nô tài, đợi chủ tử là chuyện đương nhiên. Hơn nữa, chủ tử vì nhận lời Thục phi nương nương mới không thể đi khỏi được, thuộc hạ biết ạ".
Chiêu Doãn cười nhạt, vẻ mặt không nhìn ra là vui mừng hay châm biếm, cứ cao sâu không thể nắm bắt như thế, y đến thẳng ngự thư phòng, sau đó rẽ qua cửa ngách, tiến vào một gian mật thất.
Mật thất không có cửa sổ, nhưng lại được bài trí cực kỳ trang nhã, gồm một chiếc bàn ngọc dài, bên cạnh là tám chiếc ghế tựa êm, trên mỗi chiếc ghế đều có một người đang ngồi đợi, tuy mỗi người một vẻ, nhưng đều là những nam tử tài hoa, người lớn tuổi nhất cũng không quá ba mươi, mà người nhỏ tuổi nhất lại chưa đến hai mươi. Cửa mở, tám người lũ lượt đứng dậy khấu đầu bái kiến.
Chiêu Doãn xua tay, rảo bước đến ngồi xuống bên bàn, nói; "Nói đi. Rốt cuộc là chuyện gì?".
Người mặc chiếc áo dài màu xanh ngọc lam, mặt vuông chữ điền, đường nét khuôn mặt tuy rất bình thường nhưng đôi mắt sáng và tinh nhanh đến bức người; vừa nghe Chiêu Doãn nói xong liền đứng dậy, sang sảng tấu: "Hoàng thượng, chúng thuộc hạ vừa nhận được tin mật mới nhất: Năm ngày tới, người đăng cơ trong buổi thọ yến của Trình vương không phải là đại hoàng tử Lân Tố, mà là đế nữ Di Thù. Tất cả đều do một tay Kỳ Úc hầu tác thành".
Chiêu Doãn hơi chau mày, không nói gì.
Người mặc áo tím, mặt chuột tai dơi, dáng vẻ cay nghiệt, giọng cao hơn người đầu tiên đứng lên thưa: "Trước đây, thuộc hạ đã cảm thấy việc Kỳ Úc hầu tự mình đến Trình quốc là chuyện vô cùng không ổn. Sau khi hắn đến đó, quả nhiên phóng túng làm càn, thay đổi càn khôn, phá hoại toàn bộ kế hoạch mà chúng ta đã dày công suy tính bao năm!".
Một thiếu niên áo xanh lục chừng mười tám mười chín tuổi lạnh nhạt nói: "Bây giờ như thế này, thực ra cũng không có gì không tốt".
"Thế nào gọi là không có gì không tốt?". Giọng của người áo tím đột nhiên trở nên gay gắt, quay người giận dữ nhìn thiếu niên áo xanh lục, nói: "Đừng quên tâm nguyện ban đầu của chúng ta là gì! Đâu phải chỉ mở thêm vài bến cảng, thu thêm ít tiền thuế, kiếm thêm ít bạc đâu! Theo ta thấy, nếu mục đích ban đầu không đạt được, thì có nghĩa là có tổn thất. Mà có tổn thất, chính là vô cùng không tốt".
Người mặc áo lam gật đầu tán đồng: "Không sai. Di Thù xưng đế, bề ngoài thân thiện với nước ta, nào là mở bến cảng rồi ưu đãi thuế má; nhưng lại hoàn toàn khác so với kế hoạch lúc đầu của chúng ta. Chúng ta căn bản không cần tiền tài kỹ thuật bí mật, cái chúng ta cần là ba nước hỗn loạn, để chúng ta tọa sơn quan hổ đấu làm ngư ông đắc lợi, là lấy chiến tranh để nuôi đất nước, là xưng hùng bốn bể! Đến nay, Kỳ Úc hầu làm vậy, chẳng phải là khoái đao trảm loạn ma[1] mau chóng triệt tiêu tình trạng hỗn loạn vốn có, cứ thế này hai nước Yên, Nghi theo đà sẽ chiếm lợi thế, thế lực đất nước tất sẽ thịnh vượng, mà Trình quốc cũng có thời gian nghỉ ngơi hưu dưỡng".
[1] Câu thành ngữ mang ý nghĩa là giải quyết dứt khoát, giải quyết nhanh gọn giống như rút nhanh đao chém đứt mớ đay rối vậy.
Một nam tử áo xám chậm rãi mở miệng nói: "Đừng quên, nữ nhân xưng đế, là mối họa lớn".
Thiếu niên áo xanh lục xen lời một cách thản nhiên: "Xin nhắc các vị nhớ cho một điểm - Đừng bao giờ coi thường nữ nhân". Hắn nhếch khóe môi, cười cười: "Đừng coi thường Di Thù. Hơn nữa, nàng ta chỉ dựa vào bản thân đã có thể khiến Kỳ Úc hầu giơ tay viện trợ. Thử hỏi, đổi lại có mấy người trong các vị ngồi đây có thể làm được điều này?".
Người áo tím cười lạnh: "Cho nên ta mới nói hành động này có vấn đề! Về tình về lý, Kỳ Úc hầu đều không nên phù trợ Di Thù, nhưng hắn lại giúp nàng ta. Còn nữa, hắn đã tự ý quyết định mà không hề bẩm báo với thánh thượng. Rốt cuộc hắn có ý gì?".
Lời vừa thốt ra, khắp phòng im bặt.
Trong bầu không khí im lìm dị thường đó, Chiêu Doãn tiện tay nhấc một chiếc bút lông trên bàn lên nghịch chơi, mọi người đổ dồn ánh mắt vào y, đợi chờ thái độ của y, nhưng y vẫn không tỏ vẻ gì khác, chỉ khẽ nheo mắt, nói: "Nói tiếp đi, chớ dừng lại".
Vậy nên người áo tím đành tiếp tục nói: "Hoàng thượng, thuộc hạ tuyệt đối không có thành kiến với Kỳ Úc hầu. Những việc hắn làm vì hoàng thượng mấy năm nay cũng thực sự là tận tâm tận lực. Nhưng, chính vì biểu hiện trước đây của hắn quá tốt, cho nên hắn ngày càng được ngài coi trọng, quyền lực ngài trao cho hắn cũng ngày càng lớn. Bốn nước quanh đây, thiên hạ ai chẳng biết Kỳ Úc hầu đứng đầu quần thần Bích quốc; còn muôn dân bách tính Bích quốc thì ai chẳng tôn sùng hắn như thần như thánh chứ. Tuy hắn không nắm quân quyền, nhưng mấy đại danh tướng hiện nay có người nào không do hắn đề bạt tiến cử; tuy hắn không can thiệp đến quan văn, nhưng hai kỳ thi đều do hắn cầm trịch... Trong lúc không ai hay biết, hắn đã có vô số môn nhân; trong lúc không ai hay biết, hắn đã ban ơn đầy nội; và cũng chính trong cái lúc không ai hay biết ấy... hắn đã trở thành một kẻ vô cùng có thế lực".
Khóe mắt Chiêu Doãn giật giật mấy cái, nhưng y vẫn im lặng.
Người áo tím hít sâu một hơi, thở dài nói: "Hoàng thượng, lịch sử đã minh chứng thần tử mà có quyền thế quá lớn, danh vọng quá cao, tất sẽ dẫn đến làm phản. Khi một người bị đẩy đến một độ cao nào đó, cho dù bản chất của hắn đơn thuần đến đâu, lý tưởng của hắn tầm thường đến đâu, thì cũng đều không thể chống nổi hai chữ "thời thế". Nhớ Hán Cao Tổ Lưu Bang năm xưa chẳng qua chỉ là một tên đình trưởng nhỏ bé, còn bị cha mắng là "vô lại", ai có thể nghĩ ngày sau ngài lại thống nhất Trung Nguyên, thậm chí đánh bại chiến thần Hạng Vũ? Trần Thắng Ngô Quảng vốn là bần nông nhưng có thể khiến thiên hạ Đại Tần diệt vong; Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn cũng chỉ từ một cấm vệ quân thăng một lèo lên thành Ngự tiền Đô kiểm hiệu, cuối cùng khoác hoàng bào đoạt được Hậu Chu... Hoàng thượng, những chuyện như vậy trong sử sách chúng ta nghe còn ít sao?".
"Chú ý đến ngôn từ của ngươi". Nam tử áo xám lạnh lùng nói: "Hạng Vũ tự kiêu, Tần vương ngu tối, Chu chủ vô năng, há có thể đem ra so sánh với hoàng thượng của chúng ta?".
"Được, không nhắc chuyện cổ nhân. Vậy đơn cử Hộ quốc đại tướng Tiết Hoài mới đây, năm đó đối với tiên đế cũng là lòng son dạ sắt, lên núi đao xuống biển lửa; đối với đương kim thánh thượng lại càng tận tâm phù trợ, toàn lực bảo vệ. Kết quả thì thế nào? Lẽ nào chúng ta còn cần một Tiết Hoài thứ hai?". Nói đoạn ánh mắt người áo tím sắc như dao lia qua gương mặt của từng người, vẻ mặt mỗi người một khác.
Thiếu niên áo xanh lục trầm ngâm hồi lâu, ngẩng lên quay lại nhìn người áo tím nói: "Ngươi nói nhiều như thế, nhưng ta chỉ muốn biết - Từ trước đến giờ Kỳ Úc hầu đã làm sai điều gì?"
"Hắn chưa được cho phép đã lén lút đến Trình quốc, là tội thứ nhất; hắn không màng đến nguyện vọng ban đầu của hoàng thượng, bình định Trình loạn, đó là tội thứ hai; hắn phù trợ một tân vương khôn ngoan, đó là tội thứ ba. Dựa vào ba tội danh này đủ khép hắn vào tội chết cả trăm lần". Nói đến đây, trong mắt người áo tím bỗng lóe lên một ánh nhìn thô tục, hắn cười lạnh nói: "Nếu ba tội danh này chưa đủ, ta còn có thể chỉ ra nhiều hơn nữa, còn chưa kể hắn và Thục phi quá thân mật. Theo tin mật thám, từ khi hắn gặp Thục phi đến giờ, hai người dính nhau như hình với bóng".
Sắc mặt của thiếu niên áo xanh lục hơi nhợt nhạt, cuối cùng lặng im.
Tự nghìn xưa, đế vương kỵ nhất chuyện thần tử dám dòm ngó đồ của mình, hơn nữa, trên danh nghĩa Khương Thục phi đáng lẽ vốn là thê tử của Kỳ Úc hầu, nhưng giữa đường bị một đạo thánh chỉ của hoàng đế cưỡng ép cướp đi. Trong tình huống này, dụng ý của hoàng thượng hẳn đã rất rõ ràng, là thần tử thì càng phải tránh né mới phải, nhưng Kỳ Úc hầu vẫn không né tránh. Thật không biết là hắn quá ngay thẳng không kiêng dè; hay là cố ý thị uy với hoàng thượng?
Thấy mọi người trầm mặc, người áo tím quay sang, khom người nói với Chiêu Doãn: "Hoàng thượng, thuộc hạ và Kỳ Úc hầu không hề có tư thù, nói ra những lời công kích này thần cũng không cố ý đối đầu với hầu gia. Chúng thần chỉ là mưu sĩ của hoàng thượng, chức trách của chúng thần là vì hoàng thượng mà suy nghĩ sao cho đế thuật chu toàn, phòng trừ hậu họa về sau. Mà sau khi thương thảo, kết quả chúng ta có được chính là quyền thế của Kỳ úc hầu quá lớn, lớn đến mức có thể ảnh hưởng đến đế vị. Nên, việc trước mắt là phải làm cho hắn suy yếu đi. Nếu để hắn tiếp tục lớn mạnh, thì e rằng đến lúc muốn kìm chế hắn cũng không kịp. Hơn nữa, hoàng thượng chỉ sủng ái mình hầu gia, trước mắt tuy không xảy ra mối hiểm họa lớn nào, nhưng sau này khó tránh dẫn đến sự bất mãn của quần thần. Trời cao giáng mưa, phải chú ý ban đều, nếu chỉ luôn ban cho một chỗ thì mảnh đất đó phì nhiêu, còn chỗ khác sẽ thiếu nước nên cạn khô. Xin hoàng thượng suy xét cho kỹ".
Chiêu Doãn vừa chăm chú lại vừa lơ đễnh kẹp cán bút, dùng ngón tay cái khẽ đẩy, chiếc bút xoay xoay như bay giữa các ngón tay, y cứ lặp đi lặp lại như vậy hết lần này đến lần khác.
Người áo tím và áo lam đối mắt nhìn nhau, người áo lam lên tiếng: "Thuộc hạ biết hoàng thượng yêu quý hầu gia, hầu gia đích thực là nhân tài trăm năm mới có, chúng thuộc hạ tuyệt đối không có ý "đại nhân tài thì không phải là kẻ thánh thượng có thể chế ngự". Khi nuôi hổ, nếu ta cho ăn một cách mù quáng thì không thể khiến con hổ thực sự biết nghe lời, cách huấn luyện tốt nhất là đan xen giữa việc lúc nào nên thưởng thịt, lúc nào cần phạt roi. Hoàng thượng đã cho con hổ hầu gia này ăn quá nhiều thịt, bây giờ là lúc nên phạt vài roi, để hắn nhớ ai mới là chủ nhân của hắn. Như thế, sau này hắn mới không dám hành sự mà không thông báo".
Người áo tím lại bổ sung thêm: "Cũng có nghĩa là, thực ra phù trợ ai xưng đế không quan trọng, quan trọng là trước khi hành sự hắn phải xin ý chỉ của hoàng thượng. Chỉ khi hoàng thượng đồng ý, hắn mới được phép thực hiện. Nếu hoàng thượng không đồng ý, hắn tuyệt đối không được làm!".
"Cạch" một tiếng, chiếc bút trượt khỏi tay Chiêu Doãn rớt xuống chiếc bàn dài, lăn lông lốc đến tận cuối bàn.
Vừa khéo lăn qua mặt tám vị mưu sĩ ngồi ở đó.
Ánh mắt tám người lóe sáng, đối với tình huống này rất khó để nói rõ hành động vừa rồi của hoàng thượng là vô tình hay cố ý, trong lòng ai nấy đều thầm cân nhắc.
Sau đó bọn họ lại nghe thấy một tiếng thở dài nhẹ nhàng thoát ra từ hai cánh môi cong cong mềm mỏng nhưng ưu mỹ khó tả đó, thánh thượng của bọn họ, cuối cùng đã thu ánh mắt chiếu trên chiếc bút về, nhìn thẳng vào mọi người, chậm rãi mở miệng: "Một lần cuối cùng".
Tám người quay sang nhìn nhau.
Chiêu Doãn đứng dậy, dửng dưng lặp lại một lần nữa như đang ra lệnh với bọn họ, lại như đang tự nói với chính mình: "Một lần cuối cùng". Nói đoạn, rũ áo bỏ đi để lại tám người đang trố mắt nhìn nhau, không hiểu ra sao.
Đợi khi Chiêu Doãn bước ra khỏi Bách Ngôn đường, lại qua một lúc lâu, mới có một giọng nói e dè cất lên phá vỡ sự im lặng: "Hoàng thượng nói một lần cuối cùng, là... ý gì?".
Thiếu niên áo xanh lục lạnh lùng nói: "Ta nghĩ, hoàng thượng muốn nói, đây là lần cuối cùng người dung túng Kỳ Úc hầu mà không truy cứu".
Người áo lam nhíu mày: "Cũng có nghĩa là...".
Người áo tím tiếp lời: "Cũng có nghĩa là, lần sau Kỳ Úc hầu tái phạm cũng là lúc hắn bị hủy diệt".
Trong nhà, một cây nến bỗng cháy xèo xèo bùng lên hoa nến, khiến ánh sáng hắt ra sáng bừng trong khoảnh khắc, cũng khiến cho bức hoành phi "Bách Ngôn đường" bằng gỗ mun treo phía trước sảnh hiện rõ vẻ kỳ dị.
Mà khi đó, Chiêu Doãn đã đi ra hành lang dài bên ngoài thư phòng, ngẩng đầu lên nhìn vầng trăng hạ huyền[2] treo trên bầu trời, một chú quạ vừa bay vụt qua, rớt lại hai tiếng kêu "quạ quạ".
[2] Trăng hạ huyền là trăng sau ngày rằm.
Điền Cửu theo sát phía sau y, nghe thấy vậy bèn búng ngón tay, chú quạ đen đó kêu lên thảm thiết, rồi từ trên tầng không rơi xuống, cách chân Chiêu Doãn đúng nửa thước.
"Tiểu nhân sẽ đi xử lý". Điền Cửu nhanh như tên chạy lên phía trước, định nhặt con quạ, nhưng Chiêu Doãn bình thản giẫm lên mình con quạ, đi tiếp. Điền Cửu hơi sững lại, hắn ngước mắt thăm dò thái độ của chủ tử, dưới ánh trăng gương mặt xanh xao hơn bình thường đó bởi không cười nên càng có vẻ cao thâm khó đoán.
"Hoàng thượng?". Hắn cẩn thận dè dặt mở miệng.
Dưới đêm trăng, ngũ quan Chiêu Doãn được nhuộm ánh bạc nhàn nhạt, đôi mắt đen thẫm, ngoài vẻ tuấn mỹ và tà mỵ ra lại phô bày một vẻ u sầu khó tả thành lời.
Y cứ ngẩng đầu như thế, ngước nhìn vầng trăng trên bầu trời, trầm lặng đứng hồi lâu, rồi mới nói sáu chữ: "Trẫm muốn đi thăm Hy Hòa".
Bảo Hoa.
Hai chữ đại tự viết bằng Điệp thể[3] khắc trên tấm hoành phi bằng ngọc phỉ thúy, bốn góc còn khảm thêm một viên dạ minh châu lớn bằng mắt rồng, tô điểm cho cánh cửa cao bằng gỗ tử đàn và bậc thang bằng đá cẩm thạch trắng ở phía dưới.
[3] Điệp thể: Một thể chữ thư pháp, tạo hình xòe sang hai bên như cánh bướm.
Theo cầu thang đi lên, sau bảy tầng hành lang quanh co là tòa nhà tường bằng lưu ly, sàn bằng thủy tinh. Dù đêm đã khuya, nhưng đèn đuốc vẫn sáng trưng, loáng thoáng tiếng tơ tiếng trúc từ đại sảnh vẳng ra, nghe không chân thực chút nào. Tìm kiếm với từ khoá: 1 thành viên đã gởi lời cảm ơn ngocquynh520 về bài viết trên: sâu ngủ ngày