Lượng thuốc Thẩm Tiểu Phong dùng không nhiều, đồng nghĩa với việc, tình cảm mà Tần Triệt dành cho nàng ta rất sâu nặng, đến mức chỉ chịu đôi chút mê hoặc là đã chẳng thể khống chế được dục vọng của bản thân. Đến mức chỉ mong nàng ta có một nơi chốn dựa dẫm thật tốt, không muốn để nàng ta phải chịu chút ít uất ức, đau khổ.
Đến nay, khi gạo đã nấu thành cơm, Thẩm Tiểu Phong chẳng thể gả được cho ai khác, Nhị ca muốn cho nàng ta một danh phận để có thể ngóc đầu dậy trong Tần phủ, thì chỉ còn cách tận sức khiến nàng mang thai mà thôi.
Thẩm Tiểu Phong khỏe mạnh, thông minh, đoán chắc sẽ nhanh chóng có thể mang một sinh mạng mới tới cho Tần gia đang lúc neo đơn, ít người.
Và, nàng ta cũng mang cả sức sống mới tới cho chúng ta.
…
Qua lễ Trùng Dương, vào trung tuần tháng chín, ta lấy thân phận Định Vương phi, vào hoàng cung đón Đức Thái Phi, cùng ngồi kiệu ra đi.
Bởi vì hàng ngày có thêm vị ca ca song sinh Tần Vãn, Tam công tử, nên những lúc Định Vương phi không lộ diện ra ngoài, mọi người đều cho rằng sức khỏe của ta không tốt, nên ít khi tiếp khách. Lúc này đổi sang y phục nữ nhi, cũng vòng vàng phỉ thúy như các phu nhân quý phái khác, mặt mũi trang điểm tinh tế, cao sang, bước đi chậm rãi dưới sự chỉ dẫn của các thị nữ, cũng chẳng nhìn ra được đôi chân có tật. Trên đường đi, ta gặp rất nhiều cung nữ hoặc phi tần, ai ai cũng thốt lên khen ngợi Định Vương phi tuyệt sắc khuynh thành, yểu điệu thục nữ, nên cũng chẳng hề động lòng nghi ngờ.
Khi đến Phúc An Tự, Tư Đồ Lăng cùng trụ trì đích thân ra nghênh tiếp, sau đó đưa chúng ta vào một biệt viện thanh tịnh, nhã nhặn đã được chuẩn bị từ trước. Ngày hôm sau, chỉ nói là cần tịnh tu, chúng ta thay y phục bình thường, dẫn theo vài tùy tùng tâm phúc, được Tư Đồ Lăng đích thân dẫn về phía ngôi mộ của Kỳ Dương Vương.
Ngày hôm nay âm u, ảm đạm, không khí trên núi lại càng lạnh giá. Cô cô chỉ mặc một bộ y phục bình thường, mái tóc cũng được cuốn lên gọn gàng, không cài chút trang sức nào cả, chỉ dùng duy nhất chiếc trâm vàng phía cuối điêu khắc hình bướm lưu luyến bên hoa.
Hoa ở đây là hoa mận, bướm là đôi bướm, màu sắc tươi tắn, tuyệt đẹp. Thời tiết trên núi rõ ràng là mùa thu, thế nhưng vẫn chẳng thể làm mất đi cảnh sắc tươi đẹp của mùa xuân mà chiếc trâm vàng kia lặng lẽ tỏa ra, cứ như thể đã nhìn thấy hình ảnh liễu xanh, muôn hoa đua nở vậy.
Từ trước tới nay ta chưa từng thấy cô cô đeo chiếc trâm vàng này, đoán chắc nó có liên quan tới vị Vương gia trẻ tuổi phong độ xuất chúng, dịu dàng, nho nhã năm đó. Có lẽ là do ngài tặng hoặc ngài đã từng cài lên tóc cho người.
Đến sau cùng ta cũng chẳng thể nào đoán ra được Kỳ Dương Vương đã tận tay cài chiếc trâm vàng này lên tóc cho cô cô trong tình cảnh thế nào. Ngẫm nghĩ một hồi, có lẽ là một cảnh tượng, hai người hân hoan tươi cười, tràn ngập mong đợi về tương lai có thể sánh bước bên nhau, mãi mãi hạnh phúc chăng?
Thế nhưng đến sau cùng, cô cô cũng chỉ đành đem chiếc trâm vàng cất giấu thật kĩ, chỉ vào những lúc đêm khuya thanh tịnh mới dám lặng lẽ lấy ra, chăm chú nhìn vào bằng ánh mắt dịu dàng nhất, tình cảm nhất, nhẹ nhàng đưa tay vuốt ve lên nó.
Cũng giống như người đã bí mật cất giữ người đàn ông tuấn tú nho nhã kia vào trong đáy con tim, chỉ dám lặng lẽ nhớ nhung ở trong giấc mộng, bi thương hoài niệm về sự tốt đẹp của ngài, đồng thời cầu chúc ở thế giới bên kia, ngài có thể bình an, vui vẻ. Như vậy, cô cô có làm thê thiếp của người khác, cũng vẫn luôn giữ được niềm vui vẻ của riêng mình.
Chỉ cần người mãi mãi không biết rằng ngài vì người mà rơi vào cạm bẫy của người khác, gãy chân, mù mắt, hủy dung, người không ra người, quỷ không ra quỷ, vùng vẫy nhớ thương, sau đó lại chịu biết bao đau đớn, dày vò, chết đi trong thê thảm.
Hương hoa mận len trong gió, hai mươi mấy năm như một giấc mộng, thân xác này vẫn còn trong đớn đau.
Gương mặt gầy guộc của cô cô trắng nhợt như băng tuyết, khí sắc yếu đuối, đến mức son phấn cũng chẳng che đi được. Ta nắm lấy tay người, bàn tay đã lạnh giá từ lâu, lặng lẽ sai người lấy chiếc áo choàng lông dày dặn, đích thân khoác lên cho người.
Cô cô định thần lại rồi nói: “Ta không sao, ta... còn đang vui lắm.”
Phía trước là một vùng đất trống, trên đó trồng một cây cổ thụ rất to đến mức hai người ôm không xuể.
Phía dưới rễ cây phồng lên, như thể vừa mới bồi thêm đất, mộ phần cũng vừa mới đắp lại, bên cạnh còn có một vài cành hoa mận, có lẽ cũng được trồng khá lâu rồi, nếu có thể sống được tiếp, chắc năm sau sẽ nở hoa.
Trước mộ có một tấm bia bằng Hán Bạch Ngọc vừa mới khắc, chưa đề gì nhiều, chỉ viết đơn giản vài dòng ‘Mộ của Tư Đồ Tử Diễn’, phía dưới đề thêm ‘Người chưa chết, Tứ Nhi lập’.
Người chưa chết, người chưa chết, ai là người chưa chết?
Có lẽ kể từ năm đó, khi nghe được tin Kỳ Dương Vương đã qua đời, trái tim của cô cô cũng đã chết theo rồi, nên coi bản thân chính là người chưa chết của ngài chăng?
Trong mắt ngài, trước giờ cô cô chưa từng là Đức Phi, mà chỉ là Tứ Nhi của ngài, cũng giống như trong mắt của cô cô, trước nay ngài chưa bao giờ là Kỳ Dương Vương, mà chỉ là Tử Diễn của người mà thôi. Những dòng chữ khắc trên tấm bia này chắc chắn là chủ ý của Tư Đồ Lăng, thật không ngờ ngài lại thấu hiểu tâm sự của cô cô đến vậy.
Cô cô quả nhiên không hề có lời dị nghị nào với những dòng chữ đề trên tấm bia này. Người dịu dàng sờ lên tấm bia, cứ như thể đang chạm vào người tình yêu dấu của mình, sắc mặt vốn dĩ trắng nhợt giờ đã ửng hồng diễm lệ, khiến sắc thu nơi đây cũng nhạt đi vài phần, cứ như thể một cành hoa mận nơi hoang dã nở rộ mang theo mùa xuân đến khắp mọi nơi.
Lúc này đang giữa mùa thu, lá cây đã thưa thớt, vàng úa, thế nhưng trên núi gió lớn, cho nên thi thoảng lá vàng vẫn cứ từ từ rơi xuống mặt đất.
Một chiếc lá rơi xuống tấm bia, cô cô nhẹ nhàng nhặt lên, lại ngước mắt nhìn vào ngôi mộ trước mặt, rồi cô cô lặng lẽ bước tới, nhặt từng chiếc lá vàng rơi trên mộ.
Các thị vệ đi theo Tư Đồ Lăng có lẽ là người phụ trách việc tu sửa, chăm sóc ngôi mộ, thấy cảnh này liền bàng hoàng khẽ nói: “Vương gia, buổi sáng thuộc hạ đã cho người đến quét dọn rồi, chỉ vì gió lớn...”
Tư Đồ Lăng giơ tay ra hiệu hắn im lặng, nhìn về phía người phụ nữ mà tuổi thanh xuân đã qua trước mặt bằng ánh mắt thương xót, rồi than dài một tiếng.
Ta bước lại gần, đỡ lấy cô cô rồi dịu dàng nói: “Cô cô, nhìn xem, mọi người đã sắp xếp các lễ vật cúng bái lên cả rồi. Nơi này lạnh lắm, sức khỏe của cô cô quan trọng nhất, chúng ta thắp vài tuần hương rồi quay về thôi. Con nghĩ Kỳ Dương Vương trên trời có linh, cũng mong cô cô bảo trọng sức khỏe.”
Cô cô quả nhiên đứng dậy, đôi mắt đen láy nhìn chăm chú vào phần mộ một lúc rồi khẽ lên tiếng: “Mau đào lên.”
“Cái... cái gì?”
Ta gần như không dám tin vào tai mình nữa, quay đầu lại nhìn Tư Đồ Lăng cùng đám thuộc hạ của ngài, tất cả đều tỏ ra vô cùng kinh ngạc.
Cô cô lại nhắc thêm lần nữa: “Mau đào lên. Thôi Dũng nói, chàng vẫn luôn muốn gặp mặt ta lần cuối. Vừa hay ta cũng muốn gặp mặt chàng lần nữa.”
“Thế nhưng...” Ta nhìn vào mồ đất, mỉm cười khổ sở: “Đã bao lâu rồi, ngài ấy đâu còn hình dạng như trước kia nữa? Chỉ e là… đã trở thành một khung xương trắng. Cô cô, ngài ấy ở trên trời có linh, có thể nhìn thấy được người, cứ để ngài ấy ở đó chờ cô cô vậy.”
Cô cô lại nói: “Ta biết rằng chàng đã không còn là hình dạng trước kia nữa, thế nhưng ta cũng đâu còn dáng vẻ của ngày nào. Ta không sợ hãi trước chàng, đoán chắc chàng cũng không hề thất vọng trước ta.”
Người quay sang nói cùng mấy viên tùy tùng kia: “Ra tay đi, mau đào lên.”
Mọi người quay sang nhìn nhau, sau đó lại nhìn về phía ta và Tư Đồ Lăng.
Tư Đồ Lăng trầm ngâm một hồi rồi nói: “Cô cô, con nghĩ nơi này lạnh lẽo vô cùng, Kỳ Dương Vương một thân một mình nằm lại nơi này không thỏa đáng chút nào, nên đang định sau mùa xuân sẽ tìm một ngày tốt chuyển mộ cho ngài. Đến lúc đó, cô cô có lẽ đã khỏe hẳn lại, cũng là lúc gặp lại Kỳ Dương Vương, như vậy ngài ấy nhìn thấy cũng cảm thấy an ủi hơn. Hôm nay chỉ thích hợp bái tế, hình như... không hợp động mộ đâu.”
Cô cô liền nói: “Ta nói có thể động mộ thì có thể động mộ. Ta nói có thể đào lên thì có thể đào lên.”
Cô cô quay sang nhìn ta rồi quát lớn: “Vãn Vãn, con giờ cũng chẳng thèm nghe lời ta nói nữa đúng không?”
Ta chỉ cảm thấy cả người của cô cô đang run rẩy, chẳng khác nào một chiếc lá vàng trong gió bão, bất cứ lúc nào cũng có thể rơi xuống, nên chẳng dám khiến người nổi giận, chỉ đành mỉm cười rồi nói: “Vãn Vãn sao dám không nghe lời cô cô dặn dò? Chỉ có điều, nơi này thực sự quá lạnh, chi bằng chúng ta cứ quay về trước, để bọn họ đào xong, rồi quay lại đây gặp ngài ấy, được không?”
Nếu quay về ngôi tự, ta có thể bảo cô Quế sắc một bát thuốc an thần để người uống vào rồi ngủ thiếp đi, sau đó từ từ đưa lời khuyên giải, biết đâu có thể thành công.
Ai ngờ cô cô hất tay ta ra: “Con không làm theo ta, thì thôi vậy. Các người cứ quay về trước đi, một mình ta ở lại đây đào.”
Người liền ngồi xổm xuống, đưa bàn tay năm ngón gầy guộc của mình với những móng tay được nhuộm màu vàng cao quý... bắt đầu đào đất, ra sức, tận lực mà đào.
Ta chết lặng người, mấy người Tư Đồ Lăng thấy vậy vội vã xông lại, ta mới định thần, cùng Tư Đồ Lăng đỡ người đứng dậy: “Được rồi, được rồi, cô cô, người đừng tức giận, con sẽ bảo người đào luôn...”
Cô cô dường như đã dùng hết cả hơi sức trong khoảng thời gian đào đất ngắn ngủi, thế nên ta vừa kéo nhẹ, cả người cô cô đã bị nhấc lên rồi tựa vào vai ta, nước mắt lặng lẽ tuôn xuống.
Tư Đồ Lăng sợ ta chống đỡ không nổi, vội vã đưa người sang, quay đầu ra hiệu cho người dưới, đưa chiếc kiệu lại gần, vừa đỡ vừa bế cô cô lên chiếc kiệu đó. Ta cũng vội vã đi theo sau, ngồi lên cùng, ôm chặt lấy thân hình gầy guộc của người, giữ cho người ngồi thẳng lưng.
Người chỉ vào tấm rèm trước mặt, hổn hển hít thở chẳng nói nên lời. Ta hiểu ý của cô cô, vội vã sai người cuộn tấm rèm lên, chỉnh hướng chiếc kiệu về phía ngôi mộ kia, để cô cô có thể nhìn rõ được hành động của người ta.
Tư Đồ Lăng quay đầu đưa lời dặn dò, đám tùy tùng vội vã quay về Phúc An Tự lấy công cụ đào đất, chẳng bao lâu đã mang tới cuốc, xẻng... Họ dùng đôi tay cầm đao kiếm đánh giặc của mình nắm chặt cuốc và xẻng bắt đầu đào phần mộ của bậc anh hùng cái thế đã qua đời trước mặt.
Không biết là ai đã thốt lên: “Tuyết rơi rồi.”
Ta ngạc nhiên, vội vã quay đầu lại nhìn, liền thấy những hạt tuyết li ti, mong manh bay lượn trên bầu trời, trông choáng ngợp, tuyệt đẹp mà cũng mênh mang, đượm buồn.
Tư Đồ Lăng bước lại gần, mỉm cười nói: “Ngọn núi này vốn dĩ lạnh giá hơn những nơi khác nhiều, lúc này tuyết rơi cũng không có gì lạ kì.”
Ta vội mỉm cười đáp: “Đúng vậy. Tháng tư xuân biệt chốn nhân gian. Chùa cao đào rực ánh huy hoàng(*). Hai câu thơ này cũng nói về đạo lý đó. Trước đây, khi ta học nghệ trên núi Tử Nha cũng vậy, mùa đông đến rất sớm, mùa xuân lại đến muộn.”
(*) Hai câu thơ trong bài Hoa đào chùa Đại Lâm của Bạch Cư Dị.
Cô cô ngước mắt lên nhìn tuyết trắng bay ngợp bầu trời, sắc mặt trắng nhợt tựa màu tuyết cũng thoáng hiện nụ cười dịu dàng.
Người nói: “Nơi này đích thực rất lạnh. Tử Diễn... có phải cũng đã bao lần ngồi tại đây, lặng lẽ ngắm tuyết rơi không? Không đúng, không đúng, chàng không thể nhìn được... hai mắt của chàng đã chẳng thể nhìn thấy nữa, chàng chẳng thể nhìn thấy gì nữa...”
Toàn thân cô cô không ngừng run rẩy, đột nhiên đưa tay che mặt rồi bật khóc thành tiếng.
Ta vội vã ôm lấy người, khẽ đưa lời khuyên nhủ: “Cô cô, người đừng như vậy, sức khỏe người yếu, Kỳ Dương Vương nhìn thấy người như vậy, nhất định sẽ đau lòng lắm.”
Cô cô tựa vào người ta khóc đến không thành tiếng: “Vãn Vãn, chàng đã sống như vậy sao? Ở trên ngọn núi lạnh giá thế này, chẳng nhìn thấy gì, cứ chờ đợi mãi trong lạnh giá và đen tối ... Chàng biết rõ rằng ta sẽ không tới, nhưng vẫn cứ đợi chờ mòn mỏi... Chàng chẳng chịu nổi, muốn gặp ta một lần. Nếu như ta biết... nếu như ta biết, nhất định sẽ không để chàng một mình đợi chờ ở đây, lạnh lẽo... mà đen tối...”
“Dạ... dạ... Con biết rồi, con biết rồi mà. Người không hề muốn ngài ấy phải một mình chờ đợi ở đây...”
Ta cố gắng dỗ dành theo suy nghĩ của người, nhưng khi nhắc đến hai chữ ‘chờ đợi’, đột nhiên ta cảm thấy bi thương mà cũng thoáng chút may mắn.
May mắn thay... may mắn thay, Thuần Vu Vọng không rơi vào tình cảnh đáng sợ giống Kỳ Dương Vương.
Ngài vẫn là một thân vương tôn quý, cao sang của Nam Lương, có thể nhàn nhã tự tại lựa chọn cuộc sống phú quý trần tục hoặc thanh tao trong khu rừng mai tựa thế ngoại đào nguyên. Hơn nữa, ngài cũng không hề cô độc. Nơi nào có Tương Tư, nơi đó sẽ náo nhiệt, vui vẻ.
Ta bỗng dưng cảm thấy an ủi đôi chút, nắm chặt bàn tay lạnh giá của cô cô, cố gắng truyền hơi ấm của bản thân sang cho cô cô, nhưng đột nhiên nhận ra rằng, bàn tay của mình cũng chẳng hề ấm áp hơn cô cô là mấy. Cả hai đều lạnh giá như nhau, đó là cái lạnh giá trong vô vọng, thậm chí là tuyệt vọng.
Tuyết rơi càng lúc càng lớn, cây cối sông núi quanh đó đều khoác một lớp áo trắng mỏng manh, gió lạnh thổi qua khiến cành cây rung động, xào xạc.
Đám đất bên cạnh càng lúc càng được chất cao hơn, cuối cùng đã nghe thấy tiếng cuốc, xẻng sắt động vào vật làm bằng gỗ. Mấy người quay sang nhìn nhau, càng lúc càng thêm thận trọng. Dần dần, hình dạng chiếc quan tài đã hiện ra trước mắt.
Tư Đồ Lăng nhìn chăm chú vào cỗ quan tài, rồi nhẹ nhàng lên tiếng: “Cô cô không cần phải đau lòng quá, các thuộc hạ trung thành với ngài ấy chắc cũng đã chăm sóc cho ngài rất tốt. Người cứ nhìn xem, cỗ quan tài này chưa hề bị hỏng, được làm từ chất gỗ thượng hạng, còn được quét mười mấy lớp sơn nữa.”
Cô cô nghe vậy, liền nhoài người ra xem, đột nhiên khỏe một cách lạ thường, ta chẳng thể nào kéo lại được. May mà Tư Đồ Lăng đang đứng ngay cạnh đó, vội vã đỡ lấy rồi nói: “Cô cô, xin hãy cẩn thận.”
Cô cô cũng chẳng nói gì, chập chà chập choạng xông về phía cỗ quan tài đó, Tư Đồ Lăng vội vã đỡ từ phía sau rồi dìu người lại gần.
Lúc ta bước lại nhìn, các tùy tùng đã mở các đinh dài ra: “Có thể mời nương nương đứng xa đôi chút được không? Đã chôn lâu rồi, e là sẽ bốc mùi, làm tổn hại đến nương nương.”
Cô cô cứ nhìn chăm chú vào cỗ quan tài đó, mỉm cười khốn khổ: “Cho dù chàng có biến thành tro bụi, thì vẫn cứ là chàng…”
Nắp quan tài dần dần được chuyển sang.
Tuyết rơi càng lúc càng dày, hạt tuyết đọng cả lên lông mày, mí mắt của cô cô, càng lúc càng nhiều.
Cỗ quan tài gỗ cũng phủ đầy lớp tuyết trắng xóa, thậm chí rơi cả vào người nằm trong quan tài.
Cô cô quỳ trước quan tài, đưa bàn tay trắng nhợt, nhẹ nhàng chuyển chiếc chăn bọc bên ngoài ra, để lộ ra một bộ xương cốt đã thối rữa quá nửa trong y phục.
Đó thực sự chỉ còn là một bộ xương cốt. Hốc mắt trống không, xương trắng lộ rõ, chẳng còn nhận ra được hình dạng tuấn tú bất phàm, mỉm cười luận gió trăng của vị Vương gia đa tình nổi tiếng tài mạo song toàn năm nào.
Thế nhưng cô cô vẫn có thể nhìn thấy người trong mộng của mình, đưa tay dịu dàng vuốt nhẹ lên từng khúc xương một, rồi khẽ thốt lên: “Tử Diễn, ta tới rồi.”
Ta vốn lo lắng người nhìn thấy bộ xương trắng này lại càng thêm đau lòng, buồn bã, thế nhưng lúc này, người lại trở nên trấn tĩnh, im lặng, khuôn mặt điềm đạm, ôn hòa, ánh mắt dịu dàng mà sáng trong động lòng người, cứ như thể đang nhìn thấy mùa xuân của năm nào... Trời cao mây trắng, hoa mận bay bay hòa cùng tuyết trắng, sắc xuân tựa như áo gấm phất phơ trải rộng khắp nơi, kéo dài đến tận chân trời, tiếng cười đùa vui vẻ, trong sáng của những cô gái chàng trai trẻ tuổi.
Người mỉm cười rồi gọi: “Tử Diễn.”
Những đốt xương trắng đó như thể có thêm sức sống dưới bàn tay của người, hóa thành một người đàn ông dịu dàng, tuấn tú tài hoa của năm nào, rồi nhìn chăm chú về phía cô cô bằng ánh mắt tình cảm chan chứa, lưu luyến không thôi.
Khi ngón tay di chuyển tới vùng thắt lưng, người dừng lại ở một chiếc túi.
Chiếc túi đã cũ kĩ, trước kia có lẽ mang màu hồng nhạt, giờ đã trở thành màu trắng sậm dần chuyển vàng, trên đó có thêu mấy cành hoa mận, không biết đã thêu bằng thứ chỉ thượng hạng nào, mà đến tận bây giờ vẫn chưa bạc màu. Những nụ hoa mận bé xinh tràn đầy sinh khí, mang đậm hương sắc mùa xuân.
“Hoa mận đầy cành gợi xuân ý.” Cô cô đứng trong bầu trời ngợp đầy tuyết hoa, từ từ ngâm nga. Đột nhiên người quay sang nhìn ta mỉm cười tươi tắn rồi nói: “Vãn Vãn, con có biết không? Cô cô năm đó cũng đã từng học thêu thùa, thế mà chẳng thể nào tinh tế bằng bức thêu của những bé gái nhỏ tuổi.”
Ta nhìn vào những bông hoa mận trên chiếc túi kia rồi khẽ nói: “Cô cô xưa nay thông minh tuyệt đỉnh, chỉ cần muốn học, nhất định sẽ giỏi giang hơn nhiều người khác.”
Cô cô mỉm cười, sau đó thận trọng mở chiếc túi đó, lấy một thứ đồ bên trong đó ra đặt vào lòng bàn tay. Đó là hai miếng ngọc. Nói một cách chính xác thì là một miếng ngọc bội long phụng đã được cắt thành hai mảnh. Sắc ngọc tinh khiết, ánh ngọc sáng trong, không có chút tì vết. Miếng ngọc được điêu khắc rất tinh tế, mãnh long oai hùng, phụng bay quyến rũ, nhưng lại bị cắt thành hai mảnh, nên cánh đã bị gãy.
Chất ngọc rất cứng, không hiểu trước kia phải dùng thứ binh khí sắc bén đến mức nào, sức mạnh lớn đến đâu, nỗi đau lớn thế nào, mới có thể cắt một miếng ngọc hoàn mỹ, tinh tế như vậy thành hai mảnh, khi ghép lại không một chút sai sót, hoàn toàn tương hợp.
Cô cô cúi xuống hà hơi lên phía trên, rồi thận trọng dùng tay áo lau sạch hơi nước trên đó, để cho ánh ngọc càng thêm sáng bóng. Sau đó, người quay đầu sang, nói với ta bằng giọng nói đắc ý như con trẻ: “Ngọc bội này đẹp không?”
Ta gật đầu đáp lại: “Rất đẹp ạ.”
Cô cô lại bật cười: “Ngọc bội này có đẹp đến mấy cũng chẳng bằng một phần của Tử Diễn. Các người... đều chưa được nhìn thấy hình dạng của chàng. Con người oai phong lẫm liệt đưa ta cưỡi ngựa phiêu bồng khắp nơi, ngay cả bầu trời kia cũng nhỏ lại… ta chỉ còn thấy mỗi mình chàng mà thôi.”
Cô cô yêu ngài, huống hồ năm đó lại còn trẻ tuổi thanh xuân, tính khí ngạo mạn, trong mắt người đương nhiên chỉ có mỗi mình ngài, chỉ biết đến mình ngài, chẳng còn nhìn thấy bất cứ thứ gì khác nữa.
Đợi đến khi người chú tâm tới, thì tất cả mọi áp lực đã tạo thành một bức tường cao không thể vượt qua nổi, bủa vây lấy người từ mọi hướng, chặn hết đường đi, khiến người chẳng thể hít thở, bắt buộc phải sống trong bầu trời nhỏ bé do người khác tạo ra cho mình. Ngài không vào được, còn người không ra được.
Cô cô cầm hai miếng ngọc trong tay lau đi lau lại cho tới khi sáng lóa lên, mới thận trọng nhét lại vào chiếc túi, rồi đặt về phần thắt lưng của bộ xương trắng kia.
Tuyết rơi càng lúc càng lớn, ngay cả khung xương kia cũng đã phủ một lớp tuyết mỏng. Cô cô dịu dàng dùng bàn tay gầy guộc của mình phủi hết tuyết đi, đôi mắt lại ấm áp tràn đầy ánh xuân, sáng trong đến mức không thể nhìn vào, cứ như thể đang đứng bên gốc hoa mận nở rộ mùa xuân, phủi đi những cánh hoa rơi trên y phục của người thương yêu.
Què chân, mù mắt, hủy dung, người không ra người, quỷ không ra quỷ, nhưng ngài vẫn là vị anh hùng tuyệt thế được khắc ghi sâu đậm trong trái tim của cô cô. Ngài nguyện làm anh hùng của một mình cô cô, còn cô cô cũng nguyện là mỹ nhân của một mình ngài.
Hai người họ đẹp đôi là vậy, đến mức cô cô nghĩ rằng mình có thể thả hồn ngân nga: “Ong và bướm kết tình kiếp trước, rượu và hoa khiến đời ta vui.”
Ngài cho rằng cuối cùng mình có thể đạt được nguyện ước, hân hoan đưa lời thề cùng cô cô: “Tứ Nhi, ta sẽ cưới nàng.”
Một khi tỉnh giấc mộng đẹp, quay đầu nhìn lại đã qua trăm năm. Chẳng đạt được gì, chỉ còn lại tuyết hoa.
Ta ngước đầu lên nhìn bầu trời càng lúc càng âm u, khẽ đưa lời khuyên nhủ: “Cô cô, trời lạnh rồi, chúng ta nên quay về thôi.”
Cô cô dịu dàng nói: “Đúng thế, trời lạnh rồi, Tử Diễn, chúng ta quay về thôi.”
Cả người của cô cô đột nhiên ngã lên cỗ quan tài, mái tóc đen dài rơi cả vào bên trong, khuôn mặt xinh đẹp nhợt nhạt ghé sát phần đầu Tử Diễn.
Vào lúc đó, ta chẳng hề dám động đậy, gần như ngờ rằng phải chăng mình đang nằm mơ? Chiếc áo choàng lớn khoác trên vai người rơi xuống mặt đất gần cỗ quan tài. Phần trước ngực của cô cô đang cắm một thanh kiếm ngắn, còn phần y phục nhạt màu trước ngực đã thấm đẫm đầy máu, không ngừng rơi lên bộ xương trắng xóa. Máu chảy ra từ cả miệng của cô cô, điểm lên xương cốt và tuyết trắng, trông như những bông hoa mận đỏ nở rộ trong mùa xuân.
Đôi môi cô cô nhếch lên mỉm cười tươi tắn, mê say mà tràn đầy hoan hỉ, là vẻ đẹp tuyệt sắc mà trước nay ta chưa từng thấy.
Cô cô dường như đang nói: “Vãn Vãn, chúng ta quay về rồi. Tính mạng của ta, tình ý của chàng, cũng chẳng uổng kiếp này của đôi ta...”
“Năm đó, ta đã từng nói: Đợi đến ngày chàng bay lên trời thành rồng, chúng ta lại tiếp tục tiền duyên.”
“Mười sáu, mười bảy năm sau, chàng đáp lại ta: Tử Diễn phụ nàng. Nếu còn kiếp sau, nàng còn nguyện lòng nối tiếp tiền duyên với ta không?”
“Nguyện lòng, ta nguyện lòng mà!
Nếu còn có kiếp sau, ta nhất định sẽ nối tiếp tiền duyên cùng chàng.
Kiếp này đồng hành, kiếp sau nối tiếp tiền duyên, cùng nhau phi ngựa đến tận chân trời, mỉm cười ngắm chúng sinh, tiến về phía trời xuân ấm áp, tuyệt sắc, hoa mận ngập tràn khắp nơi...”
“Cô... cô cô.”
Ta choáng váng, hai chân mềm nhũn sắp sửa ngã xuống, vội vã vịn vào thành quan tài, bất lực quỳ xuống. Trước mắt đen sầm, tiếng gọi của Tư Đồ Lăng cũng mờ nhạt hẳn đi.
Ta dường như đã nhìn thấy quán rượu với gốc mận già, người thiếu nữ xinh đẹp lần đầu gặp được người đàn ông trẻ tuổi khiến mình động lòng xuân.
“Huynh đài, có thể mời ta một ly rượu không?”
“Xin hỏi danh tính của các hạ?”
“Ta họ Tần, xếp hàng thứ Tư trong nhà.”
“Các hạ có biết ta là ai không?”
Nàng mỉm cười tươi tắn đáp: “Ai cần biết huynh đài là ai, ta là ai? Đối diện với cảnh đẹp mỹ nhân, chúng ta cùng uống một trận no say thì đã sao chứ? Ong và bướm kết tình kiếp trước, rượu và hoa khiến đời ta vui.”
Ong và bướm kết tình kiếp trước. Rượu và hoa khiến đời ta vui...
Rượu ngon dễ say, mộng đẹp dễ tỉnh! Một giấc mộng uyên ương hồ điệp, đã đắm say lòng ai, lại khiến ai đoạn trường?