Bầu trời đêm thưa thớt sao khiến mặt trăng càng thêm sáng lóa, tuyết rơi ào ào như thác đổ, phản chiếu ánh trăng lấp lánh dị thường.
Nàng đứng trên đỉnh Bạch Đài lộng gió, vạt áo bào bị gió thổi *phần phật* tựa chú ưng đập cánh muốn bay lên, mái tóc dài bay tán loạn sau lưng như lưới nhện phủ tung. Ở xa xa là một tòa cung điện nguy nga kỳ vĩ ẩn mình bên dưới màn đêm mịt mù, cạnh song cửa bằng đá đen như thấp thoáng thấy được một thân ảnh cao ngất, khoảng cách quá xa nên nhìn không rõ mặt mũi, nhưng từ sống lưng thẳng tắp kia liền có thể đoán được là một quân nhân, hơn nữa còn rất trẻ tuổi.
Nàng đã đứng như vậy rất lâu rồi.
Huyền Mặc ở phía sau vẫn không lên tiếng, chỉ lẳng lặng nhìn nàng đứng đó, nhìn ánh trăng dần bao phủ toàn thân nàng. Màn đêm thực yên tĩnh, xung quanh im lìm không một tiếng động, chỉ có tiếng gió thổi vạt áo nàng kêu *phần phật*, mang theo hương bạch lan chậm rãi quanh quẩn nơi chóp mũi của hắn.
Huyền Mặc chợt nhớ đến rất nhiều năm trước khi bản thân vẫn còn là một đứa trẻ, hắn đi theo phụ thân tham gia hội săn, nhờ vào tài bắn cung mà nổi bật trong đám con cháu của hoàng thân quốc thích, được tất cả mọi người tán dương. Nhưng một thân ảnh mặc cung trang vàng óng bất chợt thúc ngựa ào vào trong sân, thiếu nữ bắn ra liên tiếp ba tiễn trúng giữa hồng tâm rồi quay đầu lại kiêu ngạo nhìn hắn, nói: “Không phục thì đến tỉ thí một trận?”
Hoàng đế ngồi trên vương vị cười to, nói: “Nữ nhi của trẫm quả thực không hề thua kém nam nhi!”
Những vương công quý tộc khác luôn miệng khen ngợi công chúa lợi hại, chỉ có hắn vẫn lẳng lặng đứng yên, ngẩng đầu nhìn bóng dáng bé nhỏ ngồi trên lưng ngựa. Hôm đó trời nắng đẹp, gió mát dìu dịu, ánh mặt trời chiếu lên khuôn mặt xinh xắn khiến hai mắt nàng như thêm rạng rỡ, trong ngực hắn như có lửa, ống tay áo bay bay trong gió, vuốt ve da thịt hơi ngứa ngáy. Hắn cứ thế đứng ngây ra trước mặt cô bé kia, tựa như đã mất khả năng nói chuyện.
Chớp mắt mà đã nhiều năm như vậy, hắn luôn nhìn lên thân ảnh rực rỡ chói mắt của nàng như đã thành thói quen, luôn đứng từ xa nhìn nàng dần lớn lên, nhìn nàng càng lúc càng kiên cường hơn, nhìn nàng ngã quỵ rồi lại gượng dậy, nhìn nàng từng bước đi lên đỉnh quyền lực.
Thời gian trôi qua nhanh như nước chảy qua kẽ tay, dễ dàng mài mòn mọi cố chấp cùng bướng bỉnh thời niên thiếu, những ý niệm viển vông chôn giấu tận đáy lòng qua nhiều năm, tất cả cơ hội đều bị bão cát mang tên vận mệnh chôn vùi, biến mất trong phong trần cuồn cuộn.
“Huyền Mặc.” Nạp Lan Hồng Diệp đột nhiên khẽ gọi, trong không gian trống trải mịt mù tuyết, tiếng nói nghe thật xa xăm. Nàng không hề quay đầu lại mà vẫn nhìn đăm đăm về phía cung điện rực rỡ ánh đèn kia, thì thầm hỏi: “Ta sai lầm rồi sao?”
“Điện hạ không hề làm sai.”
Nạp Lan Hồng Diệp khẽ cười, lắc đầu nói: “Chỉ e ta thực sự đã sai rồi. Tào thái phó nói đúng, ta cõng rắn cắn gà nhà, giang sơn Hoài Tống sớm muộn gì cũng sẽ diệt vong.”
“Hoàng đế bị bệnh như vậy, huyết mạch Nạp Lan thị đã không còn ai khác có thể cáng đáng giang sơn.”
“Ai nói không có?” Khóe môi Nạp Lan Hồng Diệp nở một nụ cười lạnh lùng, bình tĩnh nói như trần thuật: “Tấn Giang vương, An Lập vương, Giang Hoài vương chẳng phải cũng có tư cách thừa kế sao?”
Nàng nói không sai, khi hương khói hoàng thất không thể tiếp tục thì đế vị sẽ do thân thích hoàng gia kế thừa, chẳng qua…
Huyền Mặc không nói gì nữa, không gian trên Bạch Đài vô cùng tĩnh mịch, gió theo hành lang luồn vào mang theo hơi nước ẩm ướt, cho dù là mùa hè vẫn hết sức lạnh lẽo.
“Nói cho cùng thì đều do tư tâm quá nặng mà thôi, trong lòng ta vĩnh viễn luôn là nhà trước rồi mới đến nước.” Nạp Lan Hồng Diệp rơi vào trầm tư, ánh mắt trở nên xa xăm. Nhiều năm trên địa vị cao đã khiến vẻ ngây thơ thuần khiết vốn có sớm biến mất, tuy tỉnh thoảng nàng cũng có hành động hơi tùy hứng, nhưng tất cả đều không bì kịp sự cố chấp hằn sâu trong lòng.
Nhớ đến thời gian gần đây, nhớ đến những hành vi và sắc mặt của đám thân thích hoàng thất kia, ánh mắt nàng chợt không tự chủ hiện ra vẻ lạnh lùng sắc bén đến cực độ.
Nạp Lan thị lập quốc đã mấy trăm năm, tổ tiên bọn họ đã đổ bao nhiêu máu và mồ hôi cho giang sơn vạn dặm này. Hoài Tống là do Nạp Lan thị của nàng dùng xương và máu đắp thành, là do nàng hơn mười năm dốc hết tâm huyết bảo vệ. Đám người đó chẳng qua chỉ là lũ sâu mọt ngồi mát ăn bát vàng, có tư cách gì ngồi lên đế vị chứ?
“Quốc gia này là do Nạp Lan thị một tay lập nên, là do tổ tiên ta dùng máu gìn giữ, cho dù phải mất thì cũng chỉ có thể mất trong tay con cháu Nạp Lan thị. Người khác không xứng.” Nạp Lan Hồng Diệp lẳng lặng nói, ánh trăng loang loáng chiếu lên người nàng, thoạt nhìn lạnh lẽo như băng, “Gửi thông cáo chính thức cho Yến Tuân, nói ta đồng ý đề nghị của y, chỉ xin y tuân thủ lời hứa, đối xử tử tế với con dân Hoài Tống, người thừa kế sự nghiệp thống nhất thiên hạ nhất định phải là con do ta sinh ra, ngoài ra, ta cũng muốn đầu của Thái Bình vương.”
Một đám mây bay đến che khuất mặt trăng khiến không gian chợt tối đi, trong bóng đêm dường như có gì đó vừa vỡ vụn, các mảnh vỡ nhanh chóng bị gió thổi bay, phiêu tán đến chân trời góc biển.
Huyền Mặc gật đầu, lặng lẽ đáp: “Thuộc hạ tuân lệnh.”
Nạp Lan Hồng Diệp trầm mặc một lúc rồi đột nhiên mở miệng nói: “Lệnh cho Tư mã chỉnh đốn tam quân, chuẩn bị để có thể xuất binh đến Đại Hạ chi viện Bắc Yến bất cứ lúc nào.”
Trong bóng tối, Huyền Mặc ngẩng phắt đầu lên, hai mắt nhìn nàng chăm chăm hiện ra vài tia khiếp sợ cũng như vẻ không dám tin.
Nạp Lan Hồng Diệp như không hề để ý đến sự chấn động của Huyền Mặc, ngược lại vẫn vô cùng bình tĩnh nói: “Huyền Mặc, Đông Hải lại có thổ phỉ xâm phạm, lần này phải phiền huynh đi bảo vệ biên cương phía Đông rồi.”
Trong khoảnh khắc, Bạch Đài trở nên im ắng không một tiếng động, sống lưng Huyền Mặc cao thẳng vững chãi tựa như một gốc hồ dương. Hắn nhìn nàng chăm chăm, ánh mắt như xuyên qua thời gian dài mười mấy năm, cuối cũng đọng lại trong khoảnh khắc tĩnh lặng này.
Là bằng hữu thời niên thiếu, thân là thế tử của một thân vương nhưng hắn lại nguyện làm cận vệ của nàng, để có thể ngày ngày nhìn thấy bóng dáng ngây thơ yêu kiều kia.
Hoàng đế băng hà, hắn quỳ ba ngày ba đêm trước cửa phòng phụ thân, khổ sở khuyên nhủ phụ thân từ bỏ ý định mưu phản, một lòng phò tá ấu đế và Trưởng công chúa là nàng.
Đã nhiều năm như vậy, hắn luôn đứng sau lưng nàng, nghe theo mọi mệnh lệnh của nàng, là thủ hạ, là thần tử trung thành đáng tin nhất của nàng. Thậm chí khi nàng ban hôn cho hắn với con gái của đại thần quyền thế, hắn cũng chưa từng nửa lời phản bác.
Mà hiện tại, đế vị bấp bênh, giang sơn Đại Tống nguy ngập, thiết kỵ Bắc Yến sắp tràn vào, nàng lại muốn hắn đến biên cương diệt trừ thổ phỉ.
Nhưng chỉ nháy mắt đã nghĩ thông suốt mọi khúc mắc trong mệnh lệnh này, ánh mắt dần bình tĩnh lại, Huyền Mặc khôi phục dáng vẻ tĩnh lặng trước đó, quỳ xuống trầm giọng đáp: “Vi thần tuân lệnh.”
Cứ như vậy, cảm giác căng thẳng đến tột cùng trong lòng Nạp Lan Hồng Diệp chợt tan biến ngay khoảnh khắc Huyền Mặc quỳ xuống nói câu ‘Vi thần tuân lệnh’ kia, nàng xoay người lại, dung mạo thanh tú, mày ngài khéo léo như vẽ, đoan trang diễm lệ đến mức khiến người khác không dám nhìn thẳng.
Cảm thấy cần phải giải thích thêm, nàng nói: “Giữa Bắc Yến và Đại Hạ nhất định sẽ xảy ra một trận ác chiến, chiến trường không có mắt, huynh là người duy nhất ta có thể tin tưởng, ta không muốn huynh xảy ra bất trắc gì.”
Huyền Mặc vẫn cúi đầu, bình tĩnh nói: “Vi thần hiểu.”
Nạp Lan Hồng Diệp hít sâu một hơi rồi khẽ cười, “Được rồi, huynh đứng lên đi, giữa ta và huynh không cần câu nệ lễ tiết.”
Huyền Mặc vẫn không nhúc nhích, trên đầu là vầng trăng bàng bạc, thi thoảng có cánh chim đêm bay xẹt qua, gió đêm thổi tay áo phồng căng, hoa văn mãng long chín ngón sống động chập chờn. Cấp bậc quân thần tựa như lưỡi đao sắc lạnh không ngừng cứa vào da thịt khiến máu chảy đầm đìa.
Hắn từ tốn móc từ trong ngực ra hai tấm lệnh bài để xuống trên thềm đá của Bạch Đài. Nạp Lan Hồng Diệp nhìn thấy thì chau mày, vừa định lên tiếng thì giọng nói đều đều của Huyền Mặc đã vang lên: “Vi thần đi chuyến này không biết khi nào mới có thể trở về, xin giao lại binh phù điều động Kinh Kỳ quân và Huyền Tự quân cho điện hạ.”
Nạp Lan Hồng Diệp định từ chối, nhưng vừa chạm mắt đến hai tấm lệnh bài kia thì chợt ngẩn người. Kinh kỳ quân vốn thuộc về Binh bộ, năm đó nàng và Huyền Mặc liên thủ đánh bại Binh bộ thượng thư, thu quyền điều động Kinh kỳ quân vào trong tay, mấy năm nay vẫn luôn do Huyền Mặc chỉ huy, còn Huyền Tự quân thì chính là thân binh do Huyền Mặc đích thân bồi dưỡng, lực chiến đấu cực kỳ mạnh mẽ, cũng được coi là đội quân lợi hại nhất Hoài Tống.
Như có quỷ thần xui khiến, nàng tiến đến đỡ Huyền Mặc dậy, cười nói: “Được, ta sẽ cất giùm huynh, chờ huynh trở lại sẽ hoàn trả.”
Vóc dáng Huyền Mặc vốn cao ráo, đứng cạnh Nạp Lan Hồng Diệp thì cao hơn hẳn một cái đầu, ánh mắt tựa hồ sâu của hắn lẳng lặng nhìn nàng, không bất kính nhưng lại hơi lớn mật.
Nạp Lan Hồng Diệp ngước lên, môi nhoẻn một nụ cười ôn hòa, ánh mắt lấp lánh rạng rỡ.
“Tuy Thái Bình vương đã bỏ trốn, nhưng đám người Tấn Giang vương cũng không dễ đối phó, sau khi vi thần đi, điện hạ một mình phải bảo trọng.”
Nạp Lan Hồng Diệp mỉm cười nói: “Huyền Mặc, huynh đã biết ta bao nhiêu năm rồi mà vẫn không yên tâm về cách hành sự của ta?”
Huyền Mặc cúi đầu nói: “Điện hạ là bậc kỳ tài, vi thần đã lỡ lời.”
“Được rồi, không cần ăn nói khách sáo như vậy nữa, ta và huynh quen biết nhiều năm, vẫn luôn giúp đỡ tương trợ nhau, quan hệ quân thần đã sớm chuyển thành bạn thân từ lâu rồi. Ta hứa với huynh, bất kể tương lai Hoài Tống đi về đâu, chỉ cần ngày nào ta còn nắm quyền trong tay, thì ngày đó phủ Huyền vương sẽ vinh sủng không ngừng.”
Đầu ngón tay thoáng lạnh đi, sương đêm chậm rãi thấm qua làn áo, Huyền Mặc khom người nói: “Đa tạ điện hạ, đêm đã khuya, nếu không còn chuyện gì khác thì vi thần xin cáo lui.”
Nạp Lan Hồng Diệp vốn còn muốn dặn dò thêm mấy câu nhưng lại không biết nên mở lời thế nào, đành gật đầu nói: “Ban đêm trời tối, bảo hạ nhân cầm đèn lồng dẫn đường cho huynh.”
“Vâng, vi thần đã rõ.” Dứt lời, Huyền Mặc hành lễ với Nạp Lan Hồng Diệp rồi xoay người đi ra hành lang dẫn đến Bạch Đài.
Ánh trăng xuyên qua từng ô vuông dọc theo thông đạo chiếu lên bóng lưng cao thẳng dần xa, Huyền Mặc vững vàng đi từng bước một trên hành lang thoắt tối thoắt sáng. Một lúc lâu sau, hắn rời khỏi Bạch Đài, chậm rãi hòa mình trong bóng đêm mênh mông của quảng trường rộng lớn. Từ trên đài cao, Nạp Lan Hồng Diệp chỉ có thể thấy được một cái bóng mơ hồ.
Gió đêm thổi lên tóc mai của Nạp Lan Hồng Diệp, nàng lẳng lặng đứng yên, thật lâu vẫn không động, tựa như một pho tương bạch ngọc.
Nàng đang nhớ lại lúc còn rất nhỏ, Đông Hải bị hải tặc quấy nhiễu, phụ hoàng tự mình lĩnh binh xuất chinh, khi đó Hoài Tống binh lực cường thịnh, đất nước giàu có phồn vinh. Không rõ vì sao có nhiều tướng tài như vậy mà phụ hoàng vẫn muốn đích thân ra trận, nàng đã níu ống tay áo của phụ hoàng, ngơ ngác hỏi: “Phụ hoàng, sao người phải đích thân xuất chinh vậy?”
Nghe nàng hỏi câu đó, ánh mắt phụ hoàng chợt trở nên xa xăm như đại dương không bến bờ, khiến người khác nhìn không thấy điểm dừng. Phụ hoàng yêu thương vỗ vỗ đầu nàng, nhẹ giọng nói: “Không vì sao cả, chỉ là có một số chuyện, con không tự mình gánh thì sẽ chẳng có ai gánh giùm cả.”
Lúc ấy, nàng nghe mà không hề hiểu, nhưng hiện tại, nàng đột nhiên hiểu ra.
Sống trên đời, mỗi người đều có chỗ bắc đất dĩ của riêng mình, mỗi người đều có cái khó không thể vượt qua.
Nàng sơ ý để vây cánh của Bình An vương thành công hạ độc tiểu hoàng đế, đứa trẻ đáng thương này chẳng những bị điếc từ khi mới sinh mà thời giờ cũng không còn được bao nhiêu vì bị trúng độc. Sau khi hoàng đế băng hà, Hoài Tống nhất định xảy ra đại loạn, đám người Tấn Giang vương và Hoài An vương ắt hẳn sẽ rục rịch ngóc đầu dậy. Đến lúc đó, huyết mạch của Nạp Lan thị suy tàn là chuyện không thể nghi ngờ.
Nàng không cam lòng, mấy năm này nàng đã dốc hết tâm huyết xử lý chính sự, hết lòng phụ tá ấu đế. Trong khi đó, những thân thích hoàng tộc kia đều mong đợi nàng chết đi. Tổ tiên nàng đổ máu gìn giữ giang sơn, chẳng lẽ chỉ để dâng không cho bọn họ? Nhiều năm tâm huyết của nàng, sao có thể để giang sơn của dòng họ nàng rơi vào trong tay bọn họ?
Trong tình cảnh Biện Đường nội loạn, Hoài Tống nội loạn, Đại Hạ càng tồi tệ hơn, Bắc Yến xưng bá thiên hạ đã là chuyện không thể tránh khỏi. Thay vì đợi Thanh Nhi qua đời, chờ nhìn đất nước rơi vào tay đám thân thích bụng dạ khó lường kia, không bằng dùng giang sơn này làm lễ vật đổi lấy bình an cho con dân Hoài Tống và huyết mạch của Nạp Lan thị nàng. Dù sao nàng vẫn còn mẫu thân đang bệnh nặng, Dục Nhi vẫn còn ba nữ nhi còn bé bỏng, và cả những cựu thần một mực trung thành với hoàng thất kia…
Không bằng cứ đáp ứng đề nghị của y, như thế tôn nghiêm của Nạp Lan thị sẽ được bảo toàn. Hai nước kết đồng minh mưu đồ bá nghiệp, huống hồ, đây chẳng phải là nguyện vọng nàng đã chời đợi nhiều năm đấy sao?
Cửa cung mở rộng, bóng lưng của Huyền Mặc dần dần biến mất trong bóng tối khôn cùng.
Nàng đột nhiên cảm thấy hoảng hốt, tựa như vừa mất đi vật gì đó rất quý giá.
Bảo Huyền Mặc đi bình loạn biên giới phía đông cũng là cách làm bất đắc dĩ. Trước mắt binh lính đều đang phản đối Hoài Tống đánh trận này, nếu không dùng vũ lực cứng rắn sẽ chẳng thể khiến cấp dưới theo lệnh. Huyền Mặc từ trước đến nay chưởng binh khoan hồng độ lượng, rất khó hoàn thành nhiệm vụ này. Hắn ở lại chỉ là vật cản, không thể đốc thúc toàn quân phối hợp với Bắc Yến.
Huống chi, sự kiện Thái Bình vương làm phản lần này cũng đã khiến nàng hiểu được tầm quan trọng của binh quyền. Uy tín của Huyền Mặc trong quân đội là thứ nàng không bao giờ có thể bì kịp, thời bình nàng còn có thể dựa vào hoàng quyền nắm giữ hắn trong tay, nhưng trong tình hình hỗn loạn như giờ, nàng không thể không đề phòng.
Chỉ mong hắn sẽ không trách nàng.
…………………………………………………………………………………………………………………
Huyền Mặc lẳng lặng bước đi trên con đường trống trải, thị vệ thân cận Khương Ngô cẩn trọng đi theo bên cạnh, xe ngựa lăn bánh *lọc cọc* theo ở phía sau.
Trưởng công chúa tín nhiệm Huyền vương nên phủ Huyền vương rất gần hoàng cung. Chưa đến phủ nhưng từ xa đã nhìn thấy ánh đèn lồng sáng sủa trước cửa, tất cả đều là đèn lồng đỏ tỏa ra ánh sáng vô cùng ấm áp.
“Vương gia về rồi.” Vương phi Ngọc Thụ bước ra, y phục xanh nhạt toàn thân bên dưới ánh đèn tô thêm khí chất trang nhã điềm tĩnh, nàng nhận lấy đèn lồng trong tay Huyền Mặc, kinh ngạc hỏi nhỏ: “Vương gia cầm đèn lồng mà lại không đốt sao?”
Huyền Mặc thoáng ngẩn ra, nhìn lại thì mới nhận ra chiếc đèn lồng màu trắng không hề được đốt lên, ánh sáng từ những ngọn đèn khác chiếu lên khiến chất giấy trắng chợt trở nên mỏng manh dễ vỡ như thủy tinh, chỉ cần chạm nhẹ liền sẽ vỡ tan.
Hắn nhẹ giọng đáp một câu ‘quên mất’ rồi đi vào phủ.
Ngọc Thụ cầm áo choàng định khoác lên vai Huyền Mặc thì không cẩn thận chạm vào tay hắn, không khỏi hoảng hốt kêu to: “Sao tay vương gia lại lạnh như băng vậy?”
Huyền Mặc hờ hững nói: “Không việc gì.” Dứt lời liền trực tiếp đi đến thư phòng.
Ngọc Thụ đứng nguyên tại chỗ nhìn nhìn theo bóng lưng Huyền Mặc thoáng cái đã biến mất sau vườn hoa, chiếc áo choàng trong tay bị gió thổi tung bay như một con diều.
“Vương phi?” Nha hoàn thiếp thân đứng bên cạnh thoáng hơi lúng túng, nhỏ giọng gọi: “Ban đêm gió lớn, xin vương phi mau về phòng kẻo bệnh.”
Ngọc Thụ chậm rãi gật đầu, khi xoay người lại thì vẫn mang dáng vẻ dịu dàng muôn thuở, mỉm cười ra lệnh:“Vương gia trễ như vậy mới trở về, nhất định là đang đói, em đến phòng bếp dặn đầu bếp làm ít thức ăn khuya cho vương gia lót dạ đi.”
Nha hoàn bất đắc dĩ gật đầu, “Dạ, nô tỳ đi liền. Vương phi cũng nên đi nghỉ sớm, thân thể người không tốt, không nên cố thức quá khuya.”
Ngọc Thụ cũng không đáp lời mà vẫn giục: “Em mau đi đi.”
Nha hoàn rời đi, Ngọc Thụ quay đầu nhìn qua hành lang gấp khúc, hướng về phía thư phòng sáng ánh nến, trước cửa sổ là một thân ảnh tuấn tú xuất trần. Nàng đứng nhìn một lúc lâu, cuối cùng thì chợt nhoẻn cười, dẫn những nha hoàn còn lại đến phòng trà. Ở đó vừa có được mấy hộp trà ngon, nàng muốn đi pha một ít cho chàng nếm thử.
Trong thư phòng, Huyền Mặc trải rộng một tờ giấy tuyên thành thượng hạng, chấm đầu bút lông vào nghiên mực, giơ cao bút nhưng hồi lâu vẫn chưa hạ xuống. Một giọt mực rơi xuống điểm một chấm thật đen trên mặt giấy trắng tinh nhưng hắn vẫn không hề phát giác, tựa như đang miên man nghĩ gì đó.
Khương Ngô đứng bên cạnh cẩn thận lên tiếng hỏi: “Vương gia, thuộc hạ đổi một tờ giấy khác cho người nhé?”
Huyền Mặc cúi đầu nhìn, sau đó bình tĩnh vo tròn tờ giấy rồi tùy ý ném xuống đất.
Khương Ngô không khỏi rụt cổ lại, hắn hầu hạ Huyền Mặc đã bảy tám năm, vô cùng hiểu tính tình của vị chủ tử vui buồn cũng không lộ này. Theo dáng vẻ như giờ, chắc chắn là đang vô cùng khó chịu.
Huyền Mặc ném tờ giấy cũ đi liền lấy ra một tờ khác, nhìn mặt giấy trống không hồi lâu rồi mới cúi đầu bắt đầu viết, viết cực nhanh, chỉ một chốc mà đã viết đầy tấm giấy. Sau khi viết xong, hắn cuộn lại giao cho Khương Ngô, dặn: “Sáng sớm ngày mai đến lễ bộ đưa cho Vu đại nhân, bảo ông ấy phái người gửi đến Bạch Chỉ Quan, đích thân giao cho Yến Tuân.”
Khương Ngô sửng sốt, trong bụng đánh thót một cái, nhưng vẫn gật đầu đáp: “Thuộc hạ tuân lệnh.” Nói xong thấy chủ tử không nói gì thêm thì lặng lẽ lui ra ngoài.
Phong thư đã được niêm kỹ, Khương Ngô dĩ nhiên không dám tự tiện mở ra xem. Hắn vừa đi vừa thắc mắc, nghe đồn hoàng thất cố ý liên hôn với Bắc Yến, đừng nói là thật chứ? Nếu là thật, vậy sau này vua Hoài Tống sẽ là họ Nạp Lan hay họ Yến đây? Chẳng lẽ mấy ngày trước Thái Bình vương đã hành thích thành công, giết được tiểu hoàng đế sao?
Tâm tư của những đại nhân vật kia dĩ nhiên không tới phiên hắn tùy ý phỏng đoán. Khương Ngô ngẫm nghĩ một hồi liền thôi không nghĩ nữa, sau đó bị mùi thơm ở phòng bếp hấp dẫn liền chạy đến đó.
Huyền Mặc ngồi trong thư phòng, tựa lưng vào lưng ghế khắc hình cửu long, chậm rãi nhắm hai mắt lại.
Tin Bắc Yến kết thân với Hoài Tống nhanh chóng truyền ra khắp đại lục Tây Mông. Trong thời điểm hỗn loạn như hiện tại, hôn sự này đã nói rõ quan hệ đồng minh giữa Bắc Yến và Hoài Tống. Rất nhanh sau đó, thủy quân của Hoài Tống lần lượt tụ tập ở cửa biển Hoàng Phủ, chăm chăm dõi mắt nhìn Đại Hạ tựa như sẵn sàng cùng Bắc Yến tiến quân bất cứ lúc nào.
Tối hôm đó, Bạch Chỉ Quan chìm trong vẻ tĩnh mịch lạnh lẽo như băng. Kể từ khi quân Bắc Yến chiếm đóng cửa khẩu, vẻ phồn hoa vốn có ở nơi này đã mất dạng không còn tung tích.
Khoảng canh hai, một nhóm người giả dạng quân lính mặc giáp đen lặng lẽ áp sát cửa khẩu.
Sở Kiều đi lẫn trong đội ngũ, lại một lần nữa lặp lại kế hoạch hành động lần này.
Đầu tiên, chuẩn xác đánh lén, nhất định phải gọn gàng hạ gục bất kỳ người nào có khả năng phát ra báo động hay uy hiếp bọn họ. Thứ hai, sau khi nhóm 1 tạo ra hỗn loạn, nhóm 2 ở hướng đông bắc xua ngựa ra khỏi chuồng đánh lạc hướng binh lính canh phòng, dàn cảnh quân Hạ bất ngờ đột kích. Thứ ba, những người còn lại chờ ngoài thành, vừa sẵn sàng tiếp ứng cho chiến hữu, vừa nhân dịp hỗn loạn chạy qua cửa khẩu.
Thời gian trôi qua từng giây, khoảnh khắc tiếng trống canh ba vang lên, Hạ Kỳ dẫn nhóm 1 nhanh chóng áp sát Bạch Chỉ Quan. Cùng lúc đó, nhóm 2 cũng tiến thẳng về phía đông bắc, nơi tất cả ngựa chiến được nhốt giữ.
Trong bóng tối, Hạ Kỳ mang theo các chiến sĩ Tú lệ quân tinh nhuệ nhất nhanh chóng khuất dạng. Sở Kiều và các thân vệ chờ trong rừng, nàng lẳng lặng cân nhắc toàn bộ kế hoạch lại một lần nữa, cố tìm xem còn điểm sơ hở nào không.
Một lần, hai lần, ba lần.
Tốt rồi, không còn vấn đề gì nữa.
Sở Kiều hít sâu một hơi rồi lẳng lặng chờ đợi tín hiệu.
Khoảng hơn nửa canh giờ sau, hướng đông bắc đột nhiên vang lên tiếng vó ngựa tung trời xen lẫn tiếng binh sĩ gào thét như sấm, đuôi đàn ngựa đều bị buộc thêm nhánh cây khiến bụi mù tung tứ tán che khuất ánh trăng, nhìn qua như có vài chục vạn nhân mã đang ập đến. Trên tường thành Bạch Chỉ Quan lập tức vang lên tiếng trống báo hiệu, sự chú ý của tất cả binh lính đều hướng về phía đông bắc. Rất nhanh sau đó cửa thành hướng đông bắc của Bạch Chỉ Quan hé mở, hai đội thám báo lặng lẽ vọt ra, nhưng bọn họ còn chưa kịp chạy xa thì đã bị Tú lệ quân mai phục bên ngoài tiêu diệt gọn.
Lại thêm nửa canh giờ nữa trôi qua, khi nhìn thấy bên trong lóe lên ánh lửa, Sở Kiều đứng bật dậy, trầm giọng nói: “Đã đến giờ, đi thôi!”
Sở Kiều dẫn nhóm thuộc hạ lên chiếc bè đã được chuẩn bị trước bên bờ sông Xích Thủy, theo thủy lộ chèo hết tốc lực về phía Biện Đường.
Quân Bắc Yến đều do kỵ binh và giáp binh hợp thành, không hề có thủy quân. Bọn họ chỉ mới tiếp quản Bạch Chỉ Quan, dĩ nhiên không thể canh phòng toàn bộ thủy vực rộng lớn trong thời gian ngắn như vậy, nói chi đến hiện giờ trong ngoài đều có kẻ địch tập kích. Trong tình hình như vậy, đi đường thủy chính là lối vào Biện Đường tốt nhất.
Nhưng mới vừa đi được khoảng thời gian không đến một nén nhang thì phía trước chợt vang lên tiếng nước xao động mạnh mẽ. Sở Kiều giương cung, thả tên trong nháy mắt, mũi tên bay ra kéo theo một tiếng hét thảm trong bóng tối. Ngay sau đó, mấy trăm ngọn đuốc nhất thời bùng sáng, chiếu rõ hơn năm chiếc thuyền chiến.
Trường thương phóng đến từ bốn phương tám hướng, một gã binh sĩ Bắc Yến đứng ở đầu thuyền, liên tục huơ đao hô to: “Phản tặc chịu chết đi!”
Tên nhọn của mười mấy chiến thuyền đi đầu đều chĩa vào đám người Sở Kiều, gã thống lĩnh phất mạnh chiến đao, mưa tên lập tức rời cung lao đến.
“Nhảy!” Hạ Tiêu rống to.
Một giây sau, Tú lệ quân đồng loạt bỏ bè nhảy xuống sông Xích Thủy, bè bị tên cắm chi chít nhưng không hề vương giọt máu nào.
“Thống lĩnh, bọn chúng nhảy xuống sông rồi!” Một người kêu to, nhưng rất nhanh sau đó liền có người cuống cuồng hét lên: “Tướng quân! Thuyền bị rỉ nước!”
Ngay sau đó, vô số tiếng kêu hoảng hốt liên tiếp vang lên, rất nhiều chiến thuyền bị thủng đáy khiến nước sông tràn vào. Thoáng cái đã có ba chiến thuyền loại nhỏ bị chìm, binh lính trên thuyền lóp ngóp ôm lấy ít nhành cây thân gỗ trôi trên sông, ánh đuốc chập chờn, tiếng kêu gào tán loạn, cảnh tượng vô cùng hỗn loạn.
“Bọn chúng ở dưới nước!” Gã tướng quân kia giận dữ quát to: “Dùng nỏ đá, dùng trường mâu đâm chết bọn chúng! Mau đâm chết bọn chúng!”
“Tướng quân, không được đâu, dưới sông còn có người của chúng ta.”
“Cút!”
Gã thân binh bị mắng nhưng vẫn không từ bỏ, vừa định hô to thì lại bị chiến hữu kéo sang một bên cho nên hết sức bất bình nói: “Nhưng bệ hạ đã nói phải bắt sống!”
Những người khác gấp gáp nói: “Bắt sống? Người chết rồi chưa chắc bắt được, giờ còn muốn bắt sống?”
Mặt sông sáng rực ánh đuốc, nỏ đá xếp thành hàng.
Gã tướng quân phẫn nộ quát to một tiếng ra hiệu, nỏ đá và trường thương liên tục bắn ra như mưa xuống sông, khiến mặt sông nhất thời nổ lên vô số bọt sóng màu đỏ quạch. Hết đợt công kích này đến đợt công kích khác, mãi đến khi mặt nước dần yên tĩnh trở lại. Chiếc bè gỗ của nhóm người Sở Kiều đã bị bắn tan nát, mảnh gỗ vụn dập dềnh tụ lại dưới đáy thuyền quân Bắc Yến.
Sau khi được lệnh dừng bắn, đám thủy quân Bắc Yến nghi ngờ nhìn mặt sông tĩnh lặng, cau mày hỏi: “Bọn chúng chết hết rồi sao? Sao vẫn chưa thấy xác nổi lên?”
“Nhìn kìa!” Không rõ là ai đột nhiên la lên, tất cả quay đầu nhìn thì thấy rất xa phía sau thuyền của mình lần lượt xuất hiện chi chít đầu người. Những người đó nổi lềnh bềnh trên mặt nước, vừa cởi áo ra vừa tụ lại một chỗ, chỉ một chốc sau đã theo dòng nước trôi đi càng lúc càng xa.
Gã tướng quân kinh ngạc mở to mắt nhìn, tức giận hỏi: “Đó là cái gì?”
Một lão binh nhiều kinh nghiệm nghi ngờ phỏng đoán: “Hình như là bè da dê.”
“Mau đuổi theo!”
“Tướng quân, thuyền chúng ta bị bè gỗ vỡ cản đường, tạm thời không thể di chuyển.”
Gã tướng quân đứng chết trân tại chỗ, gã có ưu thế thuyền cao người đông và vũ khí lợi hại nhưng cuối cùng vẫn để kẻ địch nghênh ngang thoát khỏi tay. Gần sáu vạn thủy quân Bắc Yến đứng trên chiến thuyền khổng lồ nhìn theo bóng đối phương dần biến mất trong bóng đêm mịt mù, hồi lâu vẫn chưa thôi thẫn thờ.
Sau khi hợp lại với nhóm Hạ Kỳ, Sở Kiều thống kê sơ qua nhân số thì phát hiện bên mình tổn thất hơn ba ngàn chiến sĩ. Trong đó có hai ngàn người là mất mạng dưới nỏ đá và trường thương của quân Bắc Yến. Đổi bằng cái giá này chính là toàn bộ Tú lệ quân và Sói binh đều thuận lợi vượt qua Bạch Chỉ Quan, quả thực là thắng lợi không thể ngờ. Có điều đây chưa phải là điểm cuối, bọn họ thành công vượt qua Bạch Chỉ Quan nhưng cũng đồng thời thu hút sự chú ý của quân Bắc Yến, trong khi đó, đại đa phần lãnh thổ lân cận Bạch Chỉ Quan hiện giờ đều do kẻ địch khống chế.
Sở Kiều quả quyết dẫn quân vào rừng, chọn đường núi mà đi. Đi được hai ngày, bọn họ lần đầu tiên đụng độ quân phe địch, trong ba ngày, hai bên giằng co giao chiến hơn hai mươi lần, phần lớn đều kết thúc bằng thắng lợi của Tú lệ quân. Dù sao đi nữa, so với quân Bắc Yến sở trường tấn công bằng kỵ binh, Tú lệ quân thông thạo nhất là dã chiến và tập kích cự ly gần. Dưới sự lãnh đạo của Sở Kiều, đoàn người vừa đánh vừa chạy, nhanh chóng tiến gần đến khu vực do hoàng thất Biện Đường cai quản.
Thế nhưng, ngay lúc bọn họ chuẩn bị rời khỏi sơn lộ áp sát địa phận Hàm Thủy thì Bắc Yến lại đột nhiên phóng hỏa đốt núi. Lửa cháy suốt bốn ngày, lan khắp các khu vực lân cận, liên lụy cả thôn trang gần đó, tử thương vô số. Sở Kiều bất đắc dĩ đành phải dẫn binh rời khỏi sơn lộ, vì phải tránh lửa cháy nên bọn họ đã đi chệch khỏi lộ trình hơn ba trăm dặm. Tuy Sói binh quen thuộc địa hình nhưng sáng sớm ngày thứ hai bọn họ lại chạm trán với truy binh của Bắc Yến.
Đến địa phận thành Lập Khang, đôi bên trực diện đánh một trận, đều thương vong nặng nề. Sở Kiều dẫn ba ngàn tinh binh đánh sâu vào doanh trại địch, trong lúc giằng co chủ soái địch không may bị tên lạc bắn trúng, sinh tử không rõ. Nhưng quân Bắc Yến quả không hổ là đội quân hạng nhất đại lục, chủ soái bị thương nhưng đội hình quân không hề hỗn loạn, vừa đánh vừa lui, vô cùng kiên cường.
Quân số cồng kềnh sẽ mất đi tính cơ động, đánh xong trận ở thành Lập Khang, Sở Kiều quyết đoán chia quân thành mười phân đội nhỏ, mỗi đội bốn ngàn người, cách nhau không đến bốn ngàn dặm thành hình cánh quạt*, dùng ngựa chiếm được trong mấy trận đánh trước đó, phi thẳng đến Hàm Thủy Quan.
*Dàn thế hình cánh quạt:
Nhưng vừa đến quận Nam Ly thì Sở Kiều lại đột ngột ngã bệnh. Trên thực tế, từ năm ngày trước nàng đã cảm thấy thân thể không ổn, bụng liên tục đau quặn, cả người hầm hập như phát sốt, đầu choáng váng, nôn khan không ngừng, tay chân rã rời không sức lực. Nhưng vì chiến sự khẩn cấp, nàng vẫn ngoan cường cầm cự cho đến giờ. Sau khi thoát khỏi tầm đuổi bắt của quân Bắc Yến, nàng cuối cùng cũng ngã quỵ.
Hạ Tiêu mặc kệ mọi phản đối của Sở Kiều, để tất cả binh sĩ chờ ngoài thành, mang nàng vào thành Nam Ly.
Tuy Biện Đường xảy ra nội chiến, Bắc Yến cũng mượn đường quét qua, nhưng độ hư hại vẫn kém xa so với Đại Hạ. Mấy thành trì lớn vẫn hết sức phồn vinh, ngoại trừ hàng hóa tăng giá khá cao vì chiến tranh thì không bị ảnh hưởng gì khác.
Hạ Tiêu đã ra ngoài tìm đại phu, Sở Kiều vốn luôn buồn ngủ hiện tại lại không ngủ được. Nàng nằm trên một chiếc giường sạch sẽ, thất thần nhìn lên màn giường trên đầu, suy nghĩ lẳng lặng bay xa.
Lúc quân Bắc Yến đuổi giết bọn họ, miệng không ngừng gọi ‘phản tặc’, có lẽ đã biết thân phận của nàng. Không sai, dựa vào trí khôn của Yến Tuân, hẳn đã sớm đoán được người có thể liều chết vượt qua cửa khẩu bây giờ, chỉ có Tú Lệ vương nàng mà thôi.
Nói cách khác, Yến Tuân đã hạ sát tâm đối với nàng.
Cũng đúng, Yến Tuân bây giờ đã kết thành đồng minh với Tĩnh An vương phi, nàng lại muốn dẫn binh trợ giúp Lý Tu Nghi, thân là thủ lĩnh ở Bạch Chỉ Quan, y dĩ nhiên sẽ phải giúp đỡ đồng minh cản đường nàng. Nơi chiến trường thậm chí còn không tính đến quan hệ cha con, nói chi là bọn họ?
Nàng hiểu rất rõ đạo lý này.
Yến Tuân càng lúc càng có phong phạm của một bá chủ, không những sát phạt quyết đoán mà còn hết sức can đảm cẩn trọng, thủ đoạn lại kinh người. Y bây giờ đã không còn là thiếu niên ẩn nhẫn co mình trong cung Thịnh Kim mười mấy năm trước, không cần nhìn sắc mặt của bất kỳ ai nữa.
Đại phu nhanh chóng được dẫn đến, Hạ Tiêu đứng phía sau, mặt căng thẳng nhìn đại phu thăm mạch cho Sở Kiều.
Lão đại phu râu bạc phơ trầm ngâm hồi lâu rồi đột nhiên cười nói: “Chúc mừng, chúc mừng, phu nhân của ngài đã có tin vui.”
Hạ Tiêu thoáng sửng sốt, ngay sau đó lập tức đỏ bừng mặt, cuống cuồng phân bua với lão đại phu: “Chớ nói bậy, đây là phu nhân nhà ta, ta chỉ là hộ vệ.”
Lão đại phu nghe nói liền vội vàng xin lỗi, cười nói rằng thấy Hạ Tiêu khẩn trương như vậy nên mới tưởng lầm hắn là cha của đứa trẻ.
Trong lúc Hạ Tiêu và lão đại phu đối đáp qua lại thì Sở Kiều vẫn còn ngây người tựa như vừa bị một đao bổ trúng đầu, miệng há to, thật lâu cũng chẳng nói được câu nào.
Lão đại phu vừa nói gì? Có tin vui? Nàng mang thai?
Sở Kiều không thể tin nhìn lão đại phu, hỏi lại: “Ông vừa nói gì? Có thể nói lại một lần nữa không?”
“Phu nhân thật sự quá sơ ý rồi, sao lại không cảm nhận được gì cả khi cái thai đã ba tháng rồi? Ngoài ra, thể chất phu nhân đang rất yếu, mạch tượng hỗn loạn, nếu không tịnh dưỡng thì thai nhi sẽ bị nguy hiểm đấy.”
Ba tháng?
Sở Kiều cúi đầu nhìn phần bụng vẫn bằng phẳng của mình. Nàng làm sao có thể mang thai được? Thời gian qua nàng liên tục chiến đấu, ngâm nước sông, cưỡi ngựa xông pha mưa tên biển đao, làm sao trong bụng nàng có thể có một đứa trẻ chứ?
“Ta sẽ viết cho phu nhân một phương thuốc dưỡng thai, phu nhân nhớ uống đều đặn, sau đó phải an tâm tịnh dưỡng, tuyệt đối không thể lặn lội đường xa, để bản thân mệt nhọc.” Lão đại phu an ủi thêm mấy câu rồi cùng Hạ Tiêu đi ra ngoài.
Sở Kiều vẫn thất thần ngồi trên giường. Mấy tháng nay liên tục có tin dữ, không ngừng phải đối đầu với chiến sự căng thẳng, không ngờ nàng lại có thể mang thai trong hoàn cảnh như vậy.
Sở Kiều run rẩy đưa tay lên bụng, tựa như có thể cảm nhận được một sinh mạng đang lớn dần ở đó. Khóe mắt đột nhiên ươn ướt, nàng nhẹ cắn môi dưới, tiếng nức nở dừng ở cổ họng, lặng lẽ rơi lệ.
Nguyệt, ta đã mang thai con của chàng.
Chúng ta có con rồi.
Màn đêm dần phủ xuống, Hạ Tiêu đi vào thắp nến lên, mua ít thức ăn và canh bổ khí huyết mang đến bên giường Sở Kiều, lẳng lặng hỏi: “Đại nhân, chúng ta vẫn đi Đường Kinh sao? Hay là trực tiếp đổi hướng trở về Thanh Hải đi?”
Sở Kiều ngẩng lên nhìn hắn đăm đăm, không nói gì.
“Đại nhân, thân thể người bây giờ không thích hợp xông pha mặt trận nữa, người không nghĩ cho mình thì cũng phải nghĩ cho Tứ thiếu gia và đứa trẻ trong bụng.”
Sở Kiều nghe đến đó thì chấn động, cúi nhìn bụng mình, vẫn im lặng không nói. Thật lâu sau, nàng mới ngẩng đầu lên, nhẹ giọng nói: “Hạ Tiêu, ta đã lừa thằng bé một lần rồi.”
Hạ Tiêu sửng sốt, không biết nàng đang nói ai nên hỏi lại: “Đại nhân nói gì cơ?”
“Ta đã lừa thắng bé một lần rồi.” Sở Kiều đưa ánh mắt mông lung nhìn ngọn nến trên bàn, “Ta từng hứa sẽ ở lại bảo vệ thằng bé, không để người khác ức hiếp thằng bé, nhưng cuối cùng ta lại không làm được. Thằng bé đã không còn cha còn mẹ, ta nghĩ cho con mình, nhưng ai sẽ nghĩ cho thằng bé?”
Đến đây Hạ Tiêu mới hiểu Sở Kiều là đang nói đến Lý Tu Nghi – tiểu hoàng đế của Biện Đường, hắn cau mày nói: “Đại nhân, cục diện hiện giờ đã không còn như trước, sức lực của một mình người sẽ chẳng thể thay đổi được gì. Cho dù lúc trước người không rời khỏi Biện Đường thì cũng chưa hẳn có thể ngăn được chuyện xảy ra ngày hôm này. Thân thể người không tốt, chớ nên suy nghĩ quá nhiều, đừng ôm đồm mọi chuyện lên người mình nữa.”
Sở Kiều ngẩng đầu lên, hít một hơi thật sâu, “Hạ Tiêu, trên đời này, ai cũng có những trách nhiệm không thể trốn tránh.”
Nàng lẳng lặng nói tiếp: “Ta đã nhận quá nhiều ân nghĩa từ Lý Sách và Biện Đường, hiện tại đã đến lúc hoàn trả. Nếu ta để mặc đứa trẻ kia rơi vào hiểm cảnh, có lẽ cả đứa con trong bụng cũng sẽ xem thường ta.”
Nàng ngồi dậy mang giày vào, đi đến bàn bắt đầu ăn cơm, ăn xong liền tự giác uống cạn chén thuốc. Bên dưới ánh nến, vóc dáng nàng vẫn hết sức gầy gò, không hề nhìn ra là người đã mang thai ba tháng.
“Yên tâm đi, sẽ không sao đâu.”
Hạ Tiêu nhìn nàng, nhất thời không rõ nàng đang nói ai, là chính nàng, là đứa bé trong bụng nàng hay là Đường hoàng Lý Tu Nghi.
Gió đêm lành lạnh lay động cành liễu ngoài cửa sổ. Cảnh sắc Biện Đường vẫn như cũ, nhưng hơi thở của chiến tranh đã rất gần.
Cùng lúc đó, bên trong đại trướng ở Bạch Chỉ Quan, Yến Tuân mặc trường bào tuyền đen ngồi trên giường, phía dưới là hơn mười mỹ nhân trẻ tuổi vừa được phú thương địa phương đưa đến. Tất cả đều mặc xiêm y lụa mỏng, nửa hở nửa kín vô cùng mê người. Thỉnh thoảng cũng có thiếu nữ bạo dạn ngước lên lén nhìn nam tử quyền khuynh thiên hạ kia. Chỉ tiếc ánh mắt của hắn chưa bao giờ liếc về phía bọn họ dù chỉ một lần.
“Bệ hạ, chúng ta đã bố trí binh lực ổn thỏa, nhất định sẽ một mẻ diệt gọn Tú lệ quân ngay tại Hàm Thủy Quan.”
“Người đâu!” Yến Tuân đột nhiên ngẩng đầu lên, vẫy tay với thân binh bên ngoài, “Lôi xuống đánh hai mươi côn!”
Thân binh lập tức kéo gã quan tham mưu lôi ra ngoài. Gã nọ không biết bản thân đã nói gì sai, cuống quít xưng tội nhưng không hề dám cầu xin tha thứ. Một lát sau, bên ngoài vang lên tiếng la hét thảm thiết, đám thiếu nữ quỳ trên mặt đất sợ hãi đến mặt trắng bệch, không ai dám ngẩng đầu lên nữa.
“Một mẻ diệt gọn…” Yến Tuân hờ hững lặp lại bốn chữ này, ngữ khí không nghe rõ buồn vui. Ánh nến chiếu lên khuôn mặt tuấn tú, mông lung như có tầng giấy vàng che phủ.
Bắc Yến vương cứ thế nghiêng mình nằm trên giường nhắm mắt lại, mặc kệ đám giai nhân yêu kiều quỳ phía dưới, nhanh chóng chìm vào giấc mộng.
Một đêm này, hai con người cách nhau mấy ngàn dặm nhưng đều thì thầm cùng một câu nói: “Chỉ mong không phải gặp lại.”
Trong giấc ngủ chập chờn, khung cảnh rất nhiều năm trước như được tái hiện, bên dưới mái hiên rách nát, đứa bé gái mặc y phục hồng nhạt ngồi bên ngọn nến tù mù, xoa xoa bàn tay rồi áp lên khuôn mặt đỏ ửng, vừa vá quần áo vừa nói với thiếu niên ngồi bên cạnh: “Sa trường không có phụ tử, tất cả đều vì lợi ích của quốc gia, cho dù đối phương là huynh đệ ruột thịt cũng không thể lùi bước. Cái này không phải trong Tùy Đường Diễn Nghĩa, ta đang nói đến lịch sử nhà Đường, là chính sử đấy, huynh nghe rõ chưa?”
“Chính sử của ai? Sao ta chưa từng nghe nói đến?”
“Nghe hiểu là được rồi, chỉ cần học hỏi cái hay thôi, không cần biết là sử của ai.”
“Nếu muội là Lý Thế Dân, muội cũng giết đại ca của mình sao?*”
“Dĩ nhiên, tha hắn sống để hắn đến giết ta à? Chẳng phải vừa kể huynh nghe rồi sao, về sau bọn họ không còn tình nghĩa gì cả. Phải rồi, huynh thì sao, chẳng lẽ sẽ không xuống tay?”
Thiếu niên im lặng suy nghĩ một chốc rồi đột nhiên nói: “Nếu là ta, lúc tấn công Lưu Chu Vũ** đã ra tay giết luôn rồi.”
*Sự biến cửa Huyền Vũ (玄武門之變, Huyền Vũ môn chi biến) là sự kiện tranh giành quyền lực diễn ra vào ngày 2 tháng 7 năm 626 khi Tần vương Lý Thế Dân, một người con trai của Đường Cao Tổ (vị hoàng đế sáng lập nhà Đường), trong cuộc đua giành ngôi vị với anh mình là Thái tử Lý Kiến Thành đã tổ chức một cuộc phục kích trước cửa Huyền Vũ, trên con đường tới cung của Đường Cao Tổ, giết chết Lý Kiến Thành cùng em là Tề vương Lý Nguyên Cát. Sau khi biết chuyện, Đường Cao Tổ đã truyền ngôi cho Lý Thế Dân, tức Đường Thái Tông, còn mình làm Thái thượng hoàng cho đến hết đời.
**Lưu Chu Vũ là Định Dương khả hãn của Đông Đột Quyết nổi dậy năm 616. Sau trận này, cha của Lý Thế dân mới khởi binh lập ra đời Đường, và lập anh trai của Lý Thế Dân là Lý Kiến Thành làm thái tử. Ý Yến Tuân là giết mối hại từ trong trứng nước.
Đứa bé gái thoáng sửng sốt rồi giơ ngón tay cái lên nói: “Huynh lợi hại.”
Ký ức cứ thế dần chìm vào trong màn đêm thăm thẳm, tất cả cảm xúc và tình cảm còn sót lại cũng vô thanh vô thức bị cuốn theo…
Sang ngày thứ hai, một người bí mật rồi khỏi Bạch Chỉ Quan, thúc ngựa đi thẳng đến Hàm Chỉ Quan, nơi hiện giờ có mười vạn tinh binh Bắc Yến đóng giữ, một là để trợ giúp Tĩnh An vương phi, hai cũng là phòng ngừa, bảo vệ đường lui cho quân chủ lực.
Cùng một ngày, Sở Kiều tụ hợp với Tú lệ quân và Sói binh bên ngoài quận Nam Ly. Bốn vạn người cùng giơ cao chiến đao nhìn như rừng gươm sắc.
“Hàm Thủy Quan cắt ngang thông lộ duy nhất dẫn đến tây bắc, chúng ta không công phá được Hàm Thủy thì sẽ không cách nào đến Đường Kinh chi viện cho hoàng thượng.” Sở Kiều chỉ vào địa đồ, khoanh một vòng tròn quanh Hàm Thủy Quan, trầm giọng nói: “Đây chính là trận đánh sinh tử quyết định thế cục.”