Dưới đất mọc đầy đủ mọi loại dây leo không tên, nếu nhìn kỹ còn thấy rất nhiều loại sâu bọ và côn trùng bò lúc nhúc trên mặt dây leo. Tôi rùng mình, không dám nhớ tới việc mới lúc nãy mình còn lăn lộn trên mặt đất này. Đang cố gắng chiếu đèn pin nhìn kỹ khắp nơi, đột nhiên nghe Bạch Dực “Ủa” một tiếng, sau đó nhanh nhẹn bật người tới, ngồi xổm xuống đất nhặt một tờ giấy gì đó lên, tôi ngao ngán nghĩ: “Mới vừa rồi còn ra vẻ như sắp chết mà…?”
Tôi khệ nệ vác một đống túi theo sau cũng ngồi xuống nhìn, tờ giấy trong tay anh ta đã rách tươm, nham nhở bốn góc, chỉ còn nhìn được mấy chữ viết bằng mực đỏ chói: “Xin cho phép Gọi người chết đi qua.”
Bạch Dực ném tờ giấy xuống đất, sau đó cẩn thận nhìn xung quanh: “Tên cổ nhân kia không nói dối, hèn chi hắn không nhảy xuống xe đuổi theo chúng ta, con đường này quả thực là một âm lộ.”
Tôi dùng đèn pin chiếu đến nền đất xung quanh đó, quả nhiên có rất nhiều những tờ giấy giống hệt như vậy vương vãi khắp nơi, đây chính là một loại tiền âm phủ dùng để “mua đường đi” của giới cản thi. Tôi nhìn lại sắc trời, có lẽ còn vài tiếng đồng hồ trước khi trời sáng. Không khí mang theo hơi nước ẩm ướt khó chịu, gió lạnh thổi qua để lại cảm giác rét cắt da.
Bạch Dực vỗ vỗ lưng tôi: “Lúc này không nên ở mãi một chỗ, không an toàn, rắn rết sâu bọ quá nhiều. Tuy chúng ta có bột trừ cổ, nhưng số lượng của chúng nhiều như vậy, tôi nghĩ nên tiếp tục đi, hi vọng phía trước có nhà dân, có thể cho chúng ta nghỉ nhờ.”
Tôi gật đầu, rồi sực nhớ ra, liền giận dỗi ném lại cái ba lô của anh ta về cho chủ của nó: “Tự mà mang lấy, nhìn anh là biết nãy giờ giả vờ rồi!”
Bạch Dực cười tà cầm lấy ba lô, không phản bác gì.
Chúng tôi đi thêm khoảng hơn một tiếng đồng hồ nữa vẫn không thấy nhà cửa gì. Sương mù xung quanh như len vào tận trong phổi, gây cảm giác nhức nhối khó tả, mớ hành lý cũng càng lúc càng trì xuống. Mắt tôi hoa lên, trong đầu bắt đầu tưởng tượng một ngôi nhà sàn, cùng một đám cô nương Thổ Gia xinh đẹp đang mang một vò rượu nóng tỏa hương ngào ngạt đi tới…
Đột nhiên trước mắt tôi nhá lên bóng dáng của một nóc nhà… Đúng! Là một nóc nhà! Tôi tưởng mình gặp ảo giác, vội đập vai Bạch Dực hỏi: “Coi…coi ở kia có phải có nhà không vậy?”
Bạch Dực nhíu nhíu mày ngập ngừng trả lời: “Ừ… đúng là nhà, nhưng mà…”
Tôi hưng phấn dựng thẳng người lên: “Vậy còn chờ gì nữa, mau mau tới đó nghỉ chân thôi! Nếu cứ đi tiếp thế này thì chân tôi rụng mất!”
Bạch Dực âu lo khẽ gật đầu, rồi lại cười khổ sở: “Có khi tới được đó rồi cậu sẽ không còn muốn ở lại nữa đâu…”
Nhưng tôi lúc này đã rơi vào trạng thái tâm lý nhắm mắt làm bừa không thèm nghe không thèm nhìn thấy gì khác nữa, chỉ chăm chăm nghĩ tìm một chỗ nghỉ ngơi cho đôi chân rệu rã này, ngoài ra không còn gì quan trọng hơn nữa.
Ngôi nhà trông giống như một ngôi miếu hoang đổ nát xiêu vẹo dựng giữa rừng, đèn nhanh lạnh lẽo đã lâu, quả thực chỉ còn lại cái xác nhà hoang tàn, cánh cửa xô lệch đứt lìa hẳn một cái bản lề, cũng không có cổng che rào chắn gì. Chúng tôi vừa bước tới gần thì đã nghe thấy một mùi hôi thối lợm mửa xông từ trong ra, làm như có xác con gì chết bên trong không bằng. Nhưng vừa bước vào cửa thì tôi liền sững người, bên trong gian nhà chính là bốn năm cỗ quan tài, không có cái nào đóng nắp, mùi hôi thối bốc ra từ đó.
Nghe thấy động tĩnh của chúng tôi, một con vật gì đó có bộ lông trắng xám nhanh như chớp ngẩng cái mõm đen thùi của nó ra từ trong một cái quan tài, đôi mắt xanh lục mở to hung dữ nhìn chúng tôi, sau đó lập tức quay đầu chạy thẳng vào trong rừng. Động tác của nó nhanh tới mức khiến tôi trở tay không kịp, bị nó dọa lùi mấy bước, may mà có Bạch Dực vào sau kịp đỡ lại. Anh ta cũng nhìn bốn phía, sau đó cười khổ nói: “Đây là nghĩa trang, còn gọi là khách sạn tử thi, dùng để cho dân cản thi đem tử thi tới trọ lại, người sống… không thường tìm tới.”
Tự mình đào hố chôn mình, tôi lúc này đây không dám có nửa lời than vãn, chỉ cắn chặt răng bước vào phòng. Một trận âm khí lạnh như băng lập tức dội thẳng vào mặt tôi, tôi rùng mình một cái, cảm giác nhiệt độ xung quanh dường như trong thoáng chốc mà tuột hẳn xuống, xung quang tối mò mò, chỉ có những nơi cây đèn pin nhỏ xíu rọi tới là còn trông thấy một chút, trong không khí lẩn quất một mùi hôi gay mũi. Trong gian nhà lớn để bốn năm cỗ quan tài, tất cả đều sứt mẻ bạc hết cả lớp son sơn bên ngoài, lộ ra lớp gỗ bên trong, bốn góc quan tài cũng muốn bị mẻ nham nhở chỉ còn lại bộ khung gỗ lỏng lẻo. Tôi hoàn toàn không dám tới nhìn vào những tử thi trong quan tài, chỉ có thể từ xa xa trông lại, thấy trước mỗi chiếc quan tài đều để một chén cơm không biết đã mốc meo tự đời nào, cơm trong chén đã sớm chuyển thành một màu mốc xanh lục quái dị. Đôi đũa vốn từng được cắm thẳng trên chén cũng xiên xẹo mỗi nơi một cái. Tôi thực sự tò mò vì sao đám động vật kia không hề đụng tới cơm trong chén mà lại chăm chăm nhằm tới những tử thi trong quan tài?
Bạch Dực tìm một chỗ trống, lôi trong ba lô ra hai tấm bạt plastic ngồi xuống. Tôi nghĩ tới phần còn lại của đêm phải nghỉ lại ở nơi kinh khủng này, cả bao tử cũng run lên.
Liếc mấy cái quan tài một lần nữa, tôi vội vàng chạy tới chỗ Bạch Dực ngồi xuống, trong lòng chỉ sợ từ trong quan tài bất thần nhảy ra con cương thi nào đó chạy tới bóp cổ mà thôi. Thực ra mà nói, ở trong này cũng chẳng che chắn được bao nhiêu gió lạnh, vì nóc nhà ngói bạc phếch trên kia đã sớm tốc đi đàng nào rồi, từ bên trong có thể thấy nguyên cả bầu trời sao lồng lộng, gió cũng cứ theo thế mà thốc vào.
Thế nhưng ít ra trong này không có côn trùng sâu bọ. Vì để bảo vệ cho thi thể không bị hư thối và bị biến thành cương thi nên lúc tẩm liệm thế nào người ta cũng ướp vào thi thể rất nhiều độc dược và thủy ngân, cho nên đám sâu bọ kia sẽ không dám tìm tới.
Tôi vòng tay ôm đầu gối ra sức giữ ấm cho cơ thể. Không khí vừa ẩm ướt vừa lạnh lẽo làm tôi có muốn cũng không sao nhắm mắt mà ngủ nổi. Bạch Dực tuyệt không cấm kỵ người chết, đường hoàng ra bẻ một khúc củi quan tài về nhóm lửa. Tuy có vẻ hơi tàn nhẫn với người đã khuất, nhưng cũng phải thừa nhận là nhờ nó mà chúng tôi mới ấm lên một chút được. Trong lòng tôi âm thầm xin lỗi vị “chủ nhà” xui xẻo bên kia, nhưng cũng không biết cách nào khác, nếu cứ để lạnh thế này thì chúng tôi chưa sáng đã viêm phổi mất.
Lửa khá nhỏ, tôi cuộn chặt người ngồi gần như dán sát vào ánh lửa leo lét mà tham lam hứng lấy hơi ấm tỏa ra từ nó. Tuy chỗ này không thể lạnh được như chỗ nhà chúng tôi, nhưng dù sao vẫn là cuối đông, hơn nữa lại còn là nơi có độ ẩm cao như vậy, hơi lạnh mà nó mang lại tuyệt không thể so sánh nổi. Tôi túm chặt áo khoác, liếc nhìn sang Bạch Dực, anh ta đang loay hoay bẻ cành củi ra thành từng mảnh nhỏ ném vào đống lửa con, giúp nó cháy mạnh hơn một chút.
Từ tối tới giờ bị hành xác một trận, lúc này đầu tóc chúng tôi toàn là đất cỏ, trên mặt cũng lem nhem bùn, nếu bây giờ có thêm một cái chăn cho chúng tôi co ro rúc vào thì quả thực nhìn không khác gì dân chạy nạn.
Nghĩ đến thế tôi tự nhiên bật cười. Bạch Dực thoáng ngạc nhiên nhìn sang, sau đó nghiêng đầu hỏi: “Cười cái gì?”
Tôi thu lại nụ cười nhún nhún vai: “Lão Bạch, có phải chúng ta rất rất là xui xẻo không, chỉ đi chơi thôi mà còn có thể ra thế này?”
Anh ta nhìn đống lửa, trêu đùa nói: “Hay là mẹ cậu nói dối tuổi của cậu rồi, hẳn là năm nay là năm tuổi của cậu mới đúng, cho nên mới phạm Thái Tuế thế này.”
Tôi cũng không vừa, lập tức quặc lại: “Có khi là anh phạm Thái Tuế ấy chứ! Đừng đổ hết mọi chuyện xui cho tôi!”
Lại sực nhớ ra trong ba lô có ít lương khô, liền lôi ra một hộp bánh quy cho Bạch Dực: “Ăn đi, chắc anh cũng đói rồi chứ hả?”
Bạch Dực cầm hộp bánh, tôi lại mò thêm hai cái bao ni lông ra đưa cho anh ta một cái: “Đem cái này bao ngoài tay rồi hãy cầm bánh, nước chỉ đủ cho chúng ta uống thôi, không đủ để rửa tay, ít ra giữ vệ sinh một chút.”
Bạch Dực bắt đầu nhai bánh quy rốp rốp, nhưng chúng tôi không dám ăn nhiều vì cả hai chỉ có một chai nước, chỉ sợ ăn nhiều sẽ mau khát.
Gỗ quan tài nổ thành những tiếng lách tách trong lửa, nghe kỹ còn phảng phất có những thanh âm kỳ quái. Đó dường như là tiếng khóc lóc u oán thương cho những kiếp người bỏ thân nơi xa xứ… có lẽ người nằm trong quan tài cũng là một người như thế chăng? Tôi cảm thấy hơi buồn, vì thế lôi ra một ít bánh đặt trước cái quan tài, chắp hai tay lầm rầm khấn: “Xin lỗi, xin lỗi, chúng tôi không còn cách nào khác, chỉ có thể mượn chỗ của ngài tá túc một đêm… xin đừng trách, đừng trách!”
Khi quay về bên đống lửa, tôi thấy Bạch Dực đang cúi đầu cười thầm, bèn lạnh lùng nói: “Tôi là đang tích đức cho anh đó, anh đem quan tài người ta ra làm củi chụm, tôi phải trả lại cho người ta cơm ăn chứ! Coi như sòng phẳng. Anh lại còn dám cười tôi! Coi chừng vị trong kia ra tìm anh tính sổ bây giờ!”
Dường như chỉ chờ có thế, anh ta lập tức cười phá lên: “Không… tôi chỉ muốn nói cho cậu biết, cái quan tài đó bên trong không có thi thể… vậy thôi… ha ha ha!”
Tôi đực mặt ra nhìn, nhưng cũng không có đủ dũng cảm ra kiểm tra lại xem bên trong quan tài có trống thật không, đành tức tối nhìn anh ta, không thèm nói nữa, dù sao lấy gỗ quan tài ra làm củi vẫn là không có đạo đức! Tôi vùng vằng ngồi lại, không thèm nhìn mặt tên vô đạo đức này nữa.
Tôi chống tay lên má ngồi gảy gảy đống lửa. Bạch Dực ngậm bánh quy nhìn chằm chằm vào mặt tôi, nhìn đến mức tôi cũng muốn gai cả người, liền ngước lên hỏi: “Nhìn tôi hoài làm gì vậy!”
Anh ta bất ngờ vươn tay tới phủi một chiếc lá rụng vương trên tóc tôi, sau đó nhẹ nhàng mỉm cười: “Thực ra cậu cũng rất đẹp đấy chứ.”
Tôi sững người sửng sốt, sau đó đưa tay sờ sờ trán Bạch Dực: “Bộ anh bị đụng vào gốc cây mạnh quá nên ngơ ngơ rồi hả? Hay là bị sốt tới mê man rồi?” Vừa nói vừa nghiêm túc kiểm tra… ờ… nhiệt độ cơ thể vẫn bình thường mà? Cũng đâu có thương tích gì? Vì thế liền đảo mắt chán nản, thuận tay đẩy đầu anh ta ra sau: “Anh nói đùa kiểu gì vậy, coi chừng tôi đánh cho anh tỉnh ra bây giờ!”
Bạch Dực chỉ cười tủm tỉm ngồi chống cằm không nói gì, tôi bị anh ta nhìn mãi càng thêm ngượng ngùng, nhưng lại không dám bỏ đi đâu, chỉ biết đỏ mặt cúi đầu nhìn chằm chằm vào ngọn lửa. Mãi một lúc sau thấy anh ta không nhìn sang nữa, mới thở phào nhẹ nhõm.
Gió lạnh vờn trên tóc, tạo cảm giác như có chút siêu thực, bầu trời tối sẫm, tinh tú trốn hết sau tầng tầng mây dày đặc, chỉ những lúc gió thổi xua bớt mây mới lập lòa một vài đốm sáng nho nhỏ yếu ớt, như có như không.
Bên cạnh chợt truyền tới giọng nói trầm ấm của Bạch Dực: “Ngày mai có lẽ trời mưa.”
Tôi ừ một tiếng, lại ngẩng đầu nhìn trần nhà thủng lỗ chỗ, ở lại một nơi thế này một đêm quả là một kinh nghiệm khó có được. Đột nhiên trên mái nhà có bóng một con vật nào đó nhoáng qua, tốc độ cực nhanh, tôi chưa kịp nhìn rõ thì nó đã chạy qua, một tầng bụi dày đã lả tả rơi xuống, trúng ngay vào mắt phải của tôi. Tôi á một tiêng, Bạch Dực vội nghiêng người tới hỏi làm sao vậy.
Tôi tức giận trả lời: “Trên mái nhà có con gì vừa chạy qua, làm bụi rơi hết vào mắt tôi rồi!”
Anh ta bất đắc sĩ lắc đầu: “Cậu rõ ràng xui như vậy mà còn nói là mình không phạm thái tuế? Lại đây, tôi thổi thổi cho.”
Nói xong lập tức vòng tay kéo đầu tôi gần lại, vạch mí mắt tôi lên chuẩn bị thổi. Tôi không thích tư thế này, liền hơi giãy ra ý nói có thể tự lo. Nhưng ngay lúc còn đang giằng co, chợt bên khóe mắt trái của tôi hiện ra một bóng người đứng ngay trước cửa. Người nọ mặc một bộ trường sam bằng vải thô màu xanh, đeo đai lưng màu xanh đen, trên đầu đội mũ vải dựng cao. Dưới chân đi một đôi giầy rơm, cầm trong tay một cái chuông nhỏ, chỉ có khuôn mặt là trông không rõ lắm. Tôi giật nảy người, đầu suýt chút nữa đã tông vào cằm Bạch Dực, vội vã chỉ ra cửa nói: “Chỗ kia… chỗ kia có người!”
Bạch Dực bất thình lình dùng một tay bịt chặt miệng tôi lại, một đôi mắt sắc bén quét vội qua cửa, nhưng ở cửa không có ai, chỉ nghe một tiếng chuông đang vọng lại từ xa xa. Mắt trái của tôi từ nhỏ đã quái dị, có thể nhìn thấy một vài thứ người khác không thấy được. Đặc biệt là khi nhắm mắt phải, chỉ mở mắt trái, thế nào cũng thấy những thứ kinh khủng diễu xung quanh.
Tiếng chuông càng lúc càng to, nghe thấy cả tiếng bước chân chậm rãi theo sau. Tôi có cảm giác hình như không phải là của một người. Mắt phải của tôi bị dính bụi còn bịt kín, chỉ có mắt trái mở to nhìn xung quanh, chợt phát hiện sương mù xung quanh như dày đặc hẳn lên, đến ánh lửa cũng dần dần chuyển thành một màu xanh lam lạnh lẽo. Tôi sợ hãi muốn mở mắt phải ra để nhìn được bình thường trở lại, nhưng mắt phải vẫn còn bị bụi, huống chi Bạch Dực lúc nãy thổi thổi mấy cái, lúc này nó không chịu mở ra nữa. Tôi muốn nói cho Bạch Dực biết những gì mắt trái của mình đang nhìn thấy, nhưng anh ta đã thấp giọng gằn lại: “Đừng lên tiếng!”
Thanh âm càng lúc càng gần, tôi cảm thấy mấy cỗ quan tài xung quanh cũng dường như bắt đầu động đậy, dộng thình thình như bất an về cái gì đó, lại dường như lo lắng về thứ đang tới gần. Dần dần tôi nghe được tiếng người nói, giọng nói khàn đục u ám như vọng lên từ địa ngục: “Xin cho Gọi người chết đi qua…!” Sau đó giữa màn sương trắng xóa trước cửa xuất hiện một bóng người, bóng người đi tới gần, hóa thành một người đàn ông trung niên, ăn mặc giống hệt như cái bóng lúc nãy đã xuất hiện trước mắt tôi, nhưng lần này có thể trông rõ mặt mũi của ông ta, thật xấu xí đến mức kinh người! Môi vừa dày vừa to, một vết sẹo dài chạy thẳng từ giữa trán xuống tới cằm như muốn xẻ đôi gương mặt ra làm hai nửa, đôi mắt vừa to vừa lồi như mắt ốc bươu.
Ông ta vừa hô to vừa rải tiền giấy xung quanh. Phía sau ông ta có một người đi theo, cao to khác thường, mặc một thân áo mạo màu đen kịt, không có tay áo, nhìn vừa rộng lại vừa dài, cái đầu to đặc biệt, khuôn mặt đen thui, trên đầu đội một cái mũ lông chiên cao, đuôi mũ hếch lên sau lưng. Toàn thân cứng còng, di chuyển về phía trước một cách máy móc, nhưng nhìn kỹ thì có tiết tấu riêng, đặc biệt là chỉ bước lên những tờ tiền âm phủ mà người trước rải xuống đất.
Người mặc trường sam nhìn về phía chúng tôi, rồi thản nhiên như không có chuyện gì mà dẫn người cao to phía sau đi thẳng vào phòng, sau đó để cho người nọ đứng thẳng băng bên cạnh cửa không nhúc nhích, lại lấy ra một đạo bùa từ trong túi áo dán lên trán người cao to nọ, lầm bầm vài câu. Làm xong thì bước sang chỗ chúng tôi ngồi xuống.
Bạch Dực cẩn thận mở lời: “Sư phụ hóa ra là một hành cước sư phụ, hai người chúng tôi chỉ là khách lạc đường, dừng lại đây nghỉ chân mà thôi.”
Người mặc trường sam gật đầu, lấy ra một cái tẩu thuốc kiểu xưa, gõ gõ vài cái lên mũi giầy rơm của mình, từ cái tẩu tỏa ra một làn khói nhẹ. Ông ta hút một hơi, thở ra một làn khói trắng, sau đó mới chậm rãi trả lời bằng một giọng cực kỳ thô trầm: “Rất ít người từng chạm mặt chúng ta, các ngươi sao lại có mặt trên con đường này?”
Tôi dụi dụi mắt mấy cái, bụi trong mắt cuối cùng cũng trôi ra hết, giương đôi mắt hồng hồng lên quan sát kỹ người nọ, chỉ thấy giữa mùa đông mà ông ta chỉ mặc một bộ trường sam mỏng manh, trên chân cũng chỉ đi một đôi giầy rơm, nhưng cạnh và lòng bàn chân đầy vết chai nứt nẻ cho thấy ông ta thường xuyên qua lại trên núi.
Bạch Dực vẫn không hề thả lỏng, nghiêm túc lựa lời: “Trên đường đụng phải quỷ, đành phải đến đây trú tạm một lúc.”
Trường sam gật đầu, không nói thêm gì nữa, lấy bánh nướng và rượu Thổ Gia trong túi ra ăn uống. Bên hông của ông ta treo một cái chuông, nhưng được dùng vải bịt kín lại nên không phát ra tiếng động.
Trường sam thấy tôi chăm chú quan sát mình, cũng nhìn lại, sau đó cười to, trông ông ta cười nhìn còn kinh khủng hơn là khóc. Ông ta ha hả cười mà nói: “Cậu nhóc này nhãn thần có hồn lắm, ta đi lần này chỉ gặp được có hai người các ngươi, hẳn là có duyên.”
Tôi lúng túng nhìn sang Bạch Dực, Bạch Dực vội vã cướp lời: “Trên đường gặp được Hỉ thần, mong hành cước sư phụ cứ yên tâm cất bước, tích nhiều âm đức.”
Tuy tôi không hiểu lắm cách hai người nói chuyện với nhau, nhưng từng nghe bà nội kể dân cản thi không bao giờ tự xưng mình là “cản thi”, mà tự xưng là “hành cước sư phụ”. Giống như đám trộm mộ tự xưng là “đảo đấu”, đám trộm vặt tự xưng là “Phật gia” vậy. Còn cái gọi là “Hỉ thần” chính là thi thể hiện đang đứng im phăng phắc trong góc tường kia. Gặp được Hỉ thần là chuyện may mắn, nghe nói có thể phát tài to, nhưng đồng thời cũng phải gánh nhiều sát khí. Cho nên Bạch Dực mới nói người kia cứ yên tâm đi đường của mình, chúng tôi nước giếng không phạm nước sông.
Trường sam gật đầu có vẻ tán thưởng, uống thêm một hai ngụm rượu, nhưng sắc mặt vẫn cứ tái nhợt kinh khủng. Ông ta ồ ồ nói: “Thanh niên bây giờ khó thấy ai hiểu rõ từ ngữ trong nghê như các ngươi, xem ra các ngươi cũng là dân có nghề. Phải không?”
Bạch Dực lập tức lắc đầu: “Chúng tôi chỉ là hai khách du lịch bình thường, không phải ‘dân chuyên nghiệp’.”
Trường sam tháo mũ ra, gãi gãi đầu, sau đó tìm một chỗ đất trống nằm xuống. Tôi thấy ông ta dường như đã ngủ, liền nhẹ giọng hỏi Bạch Dực: “Lão Bạch, ông ta thật sự là cản thi à? Vậy thứ phía sau cửa kia thực là thi thể sao?”
Vừa nói tôi vừa len lén liếc mắt nhìn người cao to mặc áo đen đứng im trong góc tường kia, trên trán đã bị dán một đạo bùa dài, đứng thẳng tắp như bức tượng không hề nhúc nhích, quả thực nhìn rất giống một cương thi.
Bạch Dực khẽ lắc đầu: “Cản thi rất hiếm gặp, hơn nữa ba mươi sáu công phu truyền lại trong giới bọn họ cực kỳ quỷ dị, nhất là ‘Hoàn hồn công’, cho tới giờ ngoại trừ những đồ đệ được trực tiếp truyền thụ lại thì không còn ai biết cách làm nữa.”
Nghỉ lại trong nghĩa trang đã là chuyện kinh dị, vậy mà lại còn vô tình gặp được nghề cản thi trong truyền thuyết. Tôi nuốt nước bọt, ánh mắt không hề dời khỏi cái thi thể đứng thẳng kia. Bạch Dực cũng không còn cái vẻ thờ ơ như trước nữa mà dùng ánh mắt chăm chú tỉ mỉ quan sát nhất cử nhất động của thi thể.
Sắc trời dần dần chuyển sáng, ngoài cửa sương mù vẫn tràn ngập, nhưng đã có một vai tia sáng len lỏi qua mái nhà mà chiếu xuống nền đất ẩm ướt. Tôi thở phào một tiếng, đêm dài rốt cuộc đã trôi qua. Trên mặt hai chúng tôi đều đầy mệt mỏi. Người mặc trường sam vẫn không hề động đậy, dường như đang ngủ rất say. Thi thể đứng cả đêm vẫn không động đậy nửa bước, y hệt như tượng sáp, nhìn nó, không biết trong lòng cảm thấy sợ hay là có hơi thất vọng…
Dù sao cũng là không quen không biết, chỉ có duyên cùng tá túc dưới một mái nhà một đêm, tôi và Bạch Dực chỉ lẳng lặng thu xếp hành trang sau đó lặng lẽ đi, không nói một tiếng. Cản thi chỉ đi buổi tối, ban ngày nghỉ ngơi, đó cũng là lý do người thường hiếm khi nhìn thấy bọn họ.
Ra khỏi khách sạn tử thi rồi, đột nhiên cảm thấy một thứ áp lực tối tăm nà đó vừa nhẹ nhàng rời khỏi người, dù trên người vẫn còn mang theo một mùi hôi thối đặc trưng. Chúng tôi dựa theo trí nhớ quay trở về con đường nhỏ mà đêm qua đã nhảy xuống khỏi xe, vì đang là ban ngày nên trông nó không âm u kinh khủng như đêm, hơn nữa còn có xe cộ qua lại. Đây đã là thời hiện đại, cho nên rất nhiều thanh niên trẻ không hề tin tưởng vào mấy chuyện “âm lộ”, do đó chúng tôi rất nhanh chóng tìm được một cái xe đẩy. Tài xế rất vui lòng chở chúng tôi tới tận nơi, điện thại đi động của Bạch Dực cũng đã gọi được. Hóa ra sóng điện thoại ở đây không phải không có, mà là rất chập chờn, cho nên đôi khi bị mất sóng gọi không được. Khi người nhà Bạch Dực tới ga đón chúng tôi thì chúng tôi đã đi mất tiêu, hai bên không gặp được nhau. Lúc này biết chúng tôi bình an sắp tới, bọn họ cũng thở phào một hơi nhẹ nhõm.
Khi xuống xe bước vào trại, tôi mới thấy đây quả là một khu định cư điển hình của dân tộc Thổ Gia. Một dãy nhà sàn dài, trên mặt đất là đường đất trải đá, tuy khu trại có hơi cũ nhưng vẫn có rất nhiều người cư ngụ. Trong khu trại cũng có điện, nhưng thông tin thì không hiện đại lắm, nói thẳng ra là ở chỗ này viết thư còn chắc chắn hơn gọi điện thoại.
Các cô gái đều mặc áo cánh ngắn, tay áo dài có thêu những hoa văn hình thù khác nhau cùng với quần lụa rộng, nhìn rất yểu điệu. Thấy hai người lạ từ xa tới đều che miệng cười khúc khích. Một ông chú lớn tuổi thấy chúng tôi tới liền lập tức bước ra, vỗ vỗ vai Bạch Dực: “Ai, cuối cùng cháu cũng tới rồi, lại đây cho ông chú nhìn kỹ xem nào!”
Bạch Dực có hơi bối rối, ông chú cứ vỗ vai anh ta liên tục, anh ta cũng chỉ biết gật đầu không ngừng. Tôi đứng ngoài nhìn thấy có hơi buồn cười, Bạch Dực đúng là hoàn toàn không biết cách đáp lại sự nhiệt tình của người khác, cho nên ngoại trừ cứ trả lời nhát gừng từng câu một được hỏi thì cũng không biết làm gì khác.
Có thể thấy ông chú này là người có địa vị cao, có uy tín trong khu trại, rất có thể là người đứng đầu bổn gia, tất cả mọi người đều có vẻ tôn kính ông ta. Ông ta nhiệt tình đón tiếp chúng tôi, đưa chúng tôi vào phòng riêng. Tầng dưới của nhà sàn không ở được vì đã chất đầy bếp ăn, nên chúng tôi lên lầu hai, ở đó có một bà lão đội khăn xếp trao cho chúng tôi hai chén canh dầu.
Tôi cầm chén canh uống một hớp, tẩy bớt hơi lạnh ám vào người từ đêm qua, sau đó buông chén. Ông chú chờ tới lúc đó mới hỏi: “Tiểu Dực, cậu thanh niên bên cạnh cháu là…?”
[1] Huyện Lô Khê thuộc tỉnh Hồ Nam