Lê Kiến Mộc quyết định đi theo con đường lớn trong thôn về phía nam, ngắm nhìn phong cảnh xung quanh thôn Thiên Tây.
Mặc dù trời vẫn còn sáng sớm, nhưng dân làng Thiên Tây đã dậy từ lâu, khói bếp bốc lên từ các mái nhà.
Lê Kiến Mộc ngửi thấy mùi thơm của đồ ăn, vừa đi trên con đường nhỏ trong thôn, thì một cánh cửa hàng rào cao bất ngờ mở ra.
Một chậu nước từ trong sân bỗng nhiên văng ra, vừa vặn hắt lên phía trước cô.
Lê Kiến Mộc quay đầu nhìn qua.
Một bà cụ với khuôn mặt đầy tàn nhang, thân hình khắc khổ, đôi mắt mờ đục nhìn cô một cái rồi tiếp tục bước đi, không hề nói lời xin lỗi. Bà xách theo chậu nước, đi vào trong sân, bước đi có phần tập tễnh.
Lê Kiến Mộc hơi nhíu mày, nhưng rồi quyết định bước tới.
“Bà à,” cô gọi.
Bà cụ không quay lại, vẫn tiếp tục bước đi về phía trước.
Lê Kiến Mộc tiến lại gần cửa hàng rào, lại gọi lớn: “Bà à, dừng lại một chút.”
Lúc này, bà cụ mới quay người nhìn cô, ánh mắt không biểu lộ gì.
Lê Kiến Mộc mỉm cười, cố gắng giữ giọng nói nhẹ nhàng, thân thiện:
“Bà à, cháu là người từ nơi khác đến, buổi sáng cháu vội vã quá, quên ăn cơm sáng rồi. Nhà bà có cơm sáng không, cho cháu một bát được không?”
Bà cụ nhìn cô từ trên xuống dưới, vẻ mặt vẫn lạnh lùng, nhưng có chút gì đó thay đổi trong ánh mắt. Bà nói một cách kỳ lạ:
“Đám đại sư các cô còn thiếu đồ ăn sao? Nhà trưởng thôn có rượu có thịt, đồ ăn ngon hơn nhà bà già tôi nhiều.”
Lê Kiến Mộc khẽ chớp mắt, lắc đầu nhẹ nhàng nói:
“Đại sư mà bà nói là những người tới tìm người sao? Cháu không giống bọn họ đâu. Cháu là được một người bạn gọi tới. À, bạn cháu tên là Văn Nhân, cô ấy cũng là người thôn Thiên Tây. Chắc bà biết cô ấy, giờ cô ấy là đại minh tinh nổi tiếng đấy, có lẽ khi còn nhỏ bà đã từng ôm cô ấy nữa.”
Lời nói của Lê Kiến Mộc có vẻ khiến bà cụ thay đổi thái độ, bà lẩm bẩm một câu:
“Nhóc Năm à…”
Nhóc Năm?
Lê Kiến Mộc nghe thấy cái tên, đôi mắt cô sáng lên một chút, cô tiếp tục nhìn bà cụ đầy chờ đợi.
Bà cụ đẩy cửa rào ra, nói:
“Vào đi.”
Lê Kiến Mộc bước vào trong sân.
Nhà của người dân thôn Thiên Tây sống không tệ lắm, phần lớn là những ngôi nhà ngói, có vài nhà hai hoặc ba tầng. Nhà của bà cụ thì khá đơn giản, là một ngôi nhà bùn hai tầng nhỏ, hàng rào làm từ tre và gỗ, nhìn rất đơn sơ.
Tuy nhiên, trong sân lại rất sạch sẽ, tạo cảm giác cổ xưa và ấm cúng.
Lê Kiến Mộc đi theo bà cụ vào trong nhà chính.
Nhà chính khá trống trải, chỉ có một chiếc bàn vuông nhỏ và một chiếc ghế nhỏ.
Bà cụ nhanh chóng vào bếp rồi mang ra một bát cơm. Một tay bà cầm cái ky nhỏ, tay còn lại xách chiếc ghế nhỏ. Lê Kiến Mộc chú ý, trong cái ky có sáu chiếc màn thầu lớn và một bát sứ đựng tương, trông không nặng nhưng đối với một bà cụ hơn 80 tuổi mà nói, việc cầm một tay mà không hề gặp khó khăn quả thật là rất hiếm.
“Trong nhà chẳng có ai, chỉ có một chiếc ghế, may mà còn ghế nhỏ để nhóm lửa,” bà cụ nói khi đặt cái ky xuống. “Cũng chẳng có gì ngon để đãi cháu, cháu ăn tạm vậy. Không biết các cháu từ thành phố có ăn quen món này không.”
Lê Kiến Mộc cười nhẹ, cảm ơn bà:
“Cháu cảm ơn bà, món tương này nhìn thật hấp dẫn.”
Trên khuôn mặt đầy nếp nhăn của bà cụ bỗng nở ra một nụ cười hiền hậu.
“Nhớ hồi xưa, cả làng này chỉ có bà là nấu món tương ăn với cơm. Món đó ăn với mì hay màn thầu đều ngon lắm, còn ngon hơn cả thịt kho tàu. Nhưng giờ lớn tuổi rồi, trí nhớ kém, người cũng không còn khỏe, có lúc nấu mặn mặn, có lúc nhạt nhạt, nhưng cũng không sao, tôi ăn đại cho xong bữa thôi.” Bà cụ nói rồi tự ăn cơm, vẻ mặt có chút buồn bã.
Lê Kiến Mộc thử một miếng cơm, quả thực tương có hơi mặn, nhưng lại rất thơm. Dưới ánh mắt chăm chú của bà cụ, cô lại cầm lên một chiếc màn thầu, chấm vào tương rồi ăn một miếng lớn.
Bà cụ thấy vậy, nụ cười trên mặt càng thêm tươi tắn.
Bà bắt đầu ăn cơm cùng cô, vừa ăn vừa hỏi:
“Nhóc Năm lâu lắm không về, con bé bảo cháu đến đây làm gì?”
Lê Kiến Mộc khẽ gật đầu, vừa ăn vừa trả lời:
“Cũng không rõ nữa, nhà cháu ở gần đây, đến sớm nên muốn ghé qua. Cô ấy từ nơi khác gấp gáp trở về, có lẽ lát nữa mới đến. Cháu là người thôn Tiên Tiến, ngửi thấy mùi cơm nấu nên nhớ quê, hơi đói bụng nên đến đây một chút.”
Bà cụ ngạc nhiên:
“Nhóc Năm sắp về ư?”
Lê Kiến Mộc gật đầu:
“Đúng vậy. Nói thật ra, lúc trước cháu còn không biết đại minh tinh lớn lên ở đây đâu, cô ấy luôn giấu cháu rất kỹ. Bà có thể kể cho cháu nghe chút về lúc Văn Nhân còn nhỏ không?”
Bà cụ thở dài, hừ một tiếng rồi nói:
“Có gì để kể đâu.”
“Văn Nhân lúc nhỏ rất xinh đẹp, lại biết hát biết múa, chắc chắn là học nghệ thuật phải không bà? Nghệ thuật là lĩnh vực tốn kém lắm, mà cô ấy lại xuất thân từ nơi này, chắc chắn cha mẹ đã đầu tư rất nhiều cho cô ấy, phải không ạ?” Lê Kiến Mộc hỏi với vẻ mặt tò mò.
Bà cụ bĩu môi, cười mỉa mai:
“Cha mẹ của con bé nói với mọi người như thế à?”
Chưa kịp để Lê Kiến Mộc lên tiếng, bà cụ đã bắt đầu mắng ngay:
“Đúng là không biết xấu hổ! Nếu không có tôi và... Khuyên nhủ lúc trước, nhóc năm đã bị mẹ con bé dìm chết trong thùng nước rồi, làm gì có chuyện bồi dưỡng cho con bé, còn bắt nó làm việc gì nữa! Giờ lớn lên, nó kiếm được tiền, lại bắt đầu bám lấy những công lao trước đây, chẳng sợ trời đất gì cả!”
Đôi mắt của Lê Kiến Mộc hơi lóe sáng. Cô đã từng nhìn qua tướng mạo của Văn Nhân và biết rằng mối quan hệ giữa cô ta và cha mẹ rất mỏng manh. Từ nhỏ, cuộc sống của Văn Nhân không dễ dàng, cho đến khi cô ta có cơ hội học nhạc và bước chân vào giới giải trí. Tuy vậy, những sự kiện cụ thể về gia đình cô ta, rõ ràng cần người trong cuộc kể lại mới có thể rõ ràng hơn.
Bà cụ càng nghĩ đến đôi vợ chồng kia càng thấy tức giận. Có lẽ vì cô cảm nhận được sự ngạc nhiên trên mặt Lê Kiến Mộc, bà ta lại tức giận nói thêm:
“Còn nữa, cháu biết vì sao bà gọi Văn Nhân là nhóc năm không?”
Lê Kiến Mộc trong lòng đã có đáp án, nhưng vẫn lắc đầu tỏ vẻ khó hiểu.
Bà cụ tiếp tục giải thích:
“Đó là vì cha mẹ con bé đã giết chết bốn đứa trước đó. Bốn đứa bé trước nhóc năm đều là con gái. Lão đại được sinh vào mùa đông, lúc ấy hai vợ chồng nhà Văn rất muốn có con trai. Họ bồi bổ quá mức trong thời gian mang thai, kết quả là đứa bé không thể sinh ra dễ dàng. Lão đại ở trong bụng quá lâu, khi sinh ra, mặt nó đỏ bừng vì nghẹn, may mà còn sống được. Tuy yếu đuối nhưng nếu được đưa đến bệnh viện thì cũng không sao. Nhưng cha mẹ nó vừa thấy là con gái thì lập tức từ chối chữa trị, không bỏ ra một đồng nào, khiến đứa bé sống không nổi, chết ngay lúc đó.”
“Sau đó, lần lượt lão nhị, lão tam, lão tứ cũng lần lượt sinh ra, nhưng không đứa nào sống quá một năm tròn.”
“Đến khi có nhóc năm, vì lo sợ vẫn là con gái, hai vợ chồng nhà đó cầu thần khấn Phật khắp nơi, mong muốn có con trai. Họ còn quỳ lạy suốt bảy ngày tại miếu Nương Nương ở phía sau thôn, mang cả một con heo đến dâng. Sau khi nhóc năm sinh ra, Nương Nương đã báo mộng cho vợ chồng nhà Văn, nói là ‘Trước có con gái, sau có con trai’, và rằng chỉ có nhóc năm sống sót thì họ mới có con trai. Lúc đó họ mới quyết định cứu nhóc năm.”
“Nhưng đến lúc nhóc năm lên hai tuổi, em trai ra đời, cha mẹ nhóc năm vui mừng vô cùng, nhưng lại bỏ mặc con gái nhỏ, bắt cô ấy chăm sóc em trai. Nhóc năm vất vả như vậy, lấy đâu ra thời gian đi học, học hành gì nữa? Đã vậy, cha mẹ còn không đánh đập thì cũng coi như không có gì tốt đẹp.”
Lê Kiến Mộc nhẹ nhàng thốt lên:
“Như vậy… thật là quá đáng.”
Bà cụ thở dài, nhìn vẻ mặt của Lê Kiến Mộc rồi cười mỉa:
“Cô nhóc từ thành phố đến như cháu chưa từng thấy chuyện này, nên nghĩ vậy là đúng. Nhưng thực ra, chuyện này cũng chẳng có gì quá mức đâu, trong thôn này, chuyện này chẳng có gì lạ. Thôn Thiên Tây này, họ làm nhiều chuyện tuyệt tình lắm. Báo ứng ấy à, ở đây cũng không ít đâu.”
Lê Kiến Mộc vẫn giữ vẻ bình tĩnh, nhẹ nhàng nuốt miếng màn thầu rồi hỏi:
“Bà à, miếu Nương Nương mà bà nói, nó ở đâu vậy?”
Bà cụ hơi giật mình, lắc đầu:
“Miếu linh thiêng đó là ở đồng ruộng phía sau thôn. Có một số người nói nó rất linh nghiệm, cầu gì được nấy. Tuy tôi chưa bao giờ đến đó nên không thể nói rõ, nhưng mấy tháng trước, có người từ chính phủ đến đào bới, giờ thì miếu ấy cũng không còn nữa rồi.”
Lê Kiến Mộc thở dài:
“Thật đáng tiếc, trên đời này không có nhiều miếu linh thiêng đâu, cháu còn định đến để lạy nữa đấy.”
Bà cụ nhìn cô, vẻ ngạc nhiên:
“Người thành phố các cháu cũng tin vào miếu linh thiêng sao? Tôi nghe mấy người từ nhà trưởng thôn nói, gần đây có những chuyện kỳ lạ như lệ quỷ tà ám gì đó đấy.”
Lê Kiến Mộc cười nhẹ:
“Lệ quỷ tà ám sao có thể không làm hại người khác? Nhưng nếu nó cứu được Văn Nhân, thì dù là quỷ cũng là quỷ tốt thôi.”
Bà cụ nhìn Lê Kiến Mộc cười tươi, vẻ mặt cô có chút dao động, nhưng cuối cùng vẫn không nói gì thêm.
Lê Kiến Mộc ăn hết hai chiếc màn thầu khá to rồi đứng dậy, nói:
“Bà à, bạn cháu vừa gửi tin nhắn cho cháu, cháu phải đi ra ngoài một chút. Cảm ơn bà đã cho cháu ăn sáng, đồ ăn rất ngon. Tiền cơm cháu không để lại đâu, cái này là tặng bà, nghe nói nó cũng rất linh nghiệm.”