Từ lúc lên xe, ta đã bắt đầu khóc, tính ra đã khóc suốt ba ngày ba đêm.
Không phải Tề Tĩnh Tuyết không muốn phát hỏa, nhưng có lẽ nàng thật sự không tìm được cơ hội trong tiếng khóc dai dẳng của ta, nên đành để mặc ta.
Ta khoác một bộ đồ tang trắng, trong tay ôm bài vị của Tằng Tri Hứa, khuôn mặt đầy vẻ u sầu như đã chet đi một phần linh hồn.
Bảy ngày trước, phủ công chúa bị một nhóm thích khách bí ẩn tấn công, Tằng Tri Hứa đã bị giet.
Vụ án tuy chưa có kết luận, nhưng Tằng Tri Hứa đã chet giữa lúc bão tố dư luận đang bao trùm, mà người chết thì luôn được coi trọng. Dù các bên muốn truy cứu, cũng chỉ đành bỏ qua.
Ta đau đớn khôn nguôi, quyết định đưa Tằng Tri Hứa về quê nhà để an táng.
Ta đặc biệt yêu cầu Tề Tĩnh Tuyết đi cùng, nói với nàng rằng chỉ có nàng mới có thể hiểu được cảm giác yêu thương sâu sắc như vậy.
Tề Tĩnh Tuyết bị ta thuyết phục. Có lẽ thấy cảnh ta đau lòng đến mức thảm thương, nàng cảm thấy đã xả được cơn giận nên quyết định giúp ta.
Hứa Tử không thể cùng đi, sau khi Tằng Tri Hứa qua đời, công việc ở Đại Lý Tự chồng chất như núi, mấy vị thiếu khanh cũng không giỏi giang bằng một chủ bạ nhỏ bé như y. Vì vậy, Hứa Tử tự nhiên đảm nhận trọng trách, chỉ trong mấy ngày ngắn ngủi đã nhận được nhiều lời khen ngợi.
Tề Tĩnh Tuyết cũng rất hài lòng với tình hình này, nên mới đồng ý cùng ta về quê của Tằng Tri Hứa.
Trước khi đi, Hứa Tử và Tề Tĩnh Tuyết còn lưu luyến chia tay trước cửa Đại Lý Tự, tất nhiên phần nhiều là từ phía Tề Tĩnh Tuyết.
Nàng nắm tay Hứa Tử, nửa người nghiêng về phía y, nàng nói: “Phò mã, ta sẽ sớm trở về, lúc đó ta sẽ xin mẫu thân ban chỉ, phong ngươi làm Đại Lý Tự khanh.”
Hứa Tử mỉm cười, vén lọn tóc trước trán của Tề Tĩnh Tuyết, nói: “Những điều đó không quan trọng, nàng cứ đi đường cẩn thận, ta sẽ đợi nàng ở nhà.” Khuôn mặt Tề Tĩnh Tuyết lập tức đỏ ửng như hoa đào.
Từ ánh mắt của nàng, ta có thể nhìn ra, nàng thực sự yêu Hứa Tử rất nhiều.
Nhưng ta không thể hiểu được, tại sao một người có thể yêu một người khác nhiều đến vậy?
Ta hỏi Tề Tĩnh Tuyết: “Rốt cuộc ngươi thích hắn ở điểm nào? Hắn không có thân phận địa vị cao quý bằng ngươi, tầm nhìn kiến thức cũng không rộng bằng nàng. Tài hoa có đấy, nhưng có đủ để ngươi yêu sâu đậm như vậy không?”
Tề Tĩnh Tuyết cười lạnh nói: “Ta và phò mã có tình yêu sâu đậm đến mức sống chet không rời, là tri âm tri kỷ như nước với non, là bằng hữu chiến đấu kề vai sát cánh. Ngươi chưa từng có, nên không thể hiểu được.”
Nghe lời nàng, ta đại khái đã hiểu, trong lòng Tề Tĩnh Tuyết, tình yêu của nàng và Hứa Tử có một mức độ tinh khiết vô cùng cao. Niềm tin vào tình yêu đó đã che mờ đôi mắt nàng.
Nhưng loại tình cảm thuần khiết như vậy, ở một mức độ nào đó, lại vô cùng mong manh.
Chẳng mấy chốc, xe ngựa của chúng ta đã đến miền Tây Nam.
Nơi đây cách xa kinh đô, nhưng lại có phong cảnh tuyệt đẹp, nhà nhà có suối, cửa nhà nào cũng có hoa, đó là một thiên đường tươi đẹp.
Tề Tĩnh Tuyết nhìn cảnh đẹp trước mắt, vẻ mặt hiếm khi dịu lại.
Ta có thể hiểu được, đối với người từ nhỏ đã chứng kiến quá nhiều cuộc tranh giành quyền lực, đẫm ma’u và chet chóc như nàng, sự yên bình và tươi đẹp này quả là điều quý giá.
“Thích nơi này không?” Ta hỏi.
Tề Tĩnh Tuyết hiếm khi trả lời ta một cách tử tế: “Đợi sau này ta và phò mã già rồi, đến đây sống cũng không tồi.”
“Đúng là ngươi.” Ta cảm thán. “Luôn dành những điều tốt đẹp nhất cho người mình yêu thương nhất.”
Tề Tĩnh Tuyết khẽ nhếch miệng, nụ cười đầy tự mãn.
Ta đưa Tề Tĩnh Tuyết đến một ngôi nhà nhỏ, nơi này dựa vào núi, gần dòng suối, tựa như một chốn đào nguyên ngoài đời thực.
Trong sân có hai mảnh vườn nhỏ, nuôi thêm vài con gà vịt. Hai hài tử
đang chạy nhảy, vui đùa trong sân.
Trên mái nhà, khói bếp bốc lên từng làn. Từ trong nhà, một giọng phụ nhân vang lên:
“Đại Lang, Nhị Lang, mau dọn bàn ăn cơm!”
Hai hài tử đồng thanh đáp lại: ‘Dạ, nương!’ rồi cùng nhau hợp sức kéo một chiếc bàn ra. Nhưng chiếc bàn ấy có lẽ đã cũ kỹ, đặt xuống chỗ nào cũng nghiêng ngả, không vững vàng.
Một trong hai đứa chạy vào nhà, rồi quay ra với một quyển sách trên tay. Nó dùng quyển sách ấy làm chân kê cho bàn, cuối cùng mới đặt bàn ổn định được.
Tề Tĩnh Tuyết chứng kiến toàn bộ cảnh tượng, nở nụ cười hả hê: “Đây là nhà của Tằng Tri Hứa sao? Hoàng tỷ, người trong lòng tỷ cưới thê, sinh hài tử từ bao giơ vậy?”
Ta chỉ cười, không đáp, tiếp tục cùng nàng quan sát.
Chẳng mấy chốc, ‘thê tử’ của Tằng Tri Hứa bưng mâm thức ăn từ trong nhà bước ra. Nàng trông hết sức bình dị, chỉ mặc bộ quần áo của một thôn phụ, nhưng đôi mắt lại rất đỗi dịu dàng, rõ ràng là một phụ nhân ngập tràn hạnh phúc.
Nụ cười của Tề Tĩnh Tuyết cứng đờ trên mặt, trong ánh mắt nàng giờ đây chỉ còn sự ghen ghét và căm hận, ánh mắt dán chặt vào người phụ nữ kia, như thể muốn nuốt sống nàng ta.
Ta hỏi: “Muội quen à?”
Tề Tĩnh Tuyết nhận ra sự thất thố của mình, vội thu lại biểu cảm, nhưng vẫn nghiến răng nghiến lợi nói: “Chỉ là một thôn phụ, sao ta có thể quen biết? Ngươi dẫn ta đến đây làm gì?”
Ta không đáp lời, chỉ tiếp tục im lặng quan sát.
‘Thê tử’ của Tằng Tri Hứa phát hiện ra quyển sách mà hai đứa trẻ dùng để kê bàn. Nàng hốt hoảng kêu lên, vội vàng nhặt quyển sách lên, cẩn thận vuốt ve như thể đó là một báu vật.
Nàng nhẹ nhàng trách mắng hai hài tử: “Nương đã nói rồi, đây là tập thơ của phụ thân, nó rất quý giá, không được dùng để kê bàn.”
“Nương, nương không biết chữ mà, cũng đâu hiểu gì.”
“Đúng đó, nương, khi phụ thân viết thơ cho nương, lần nào người cũng ngáp ngắn ngáp dài mà.”
Phụ nhân bật cười, yêu thương xoa đầu hai hài tử, trách nhẹ: “Tuy nương không hiểu phụ thân các con viết gì, nhưng nương yêu phụ thân các con! Phụ thân cũng yêu nương, yêu các con.”
“Nhưng sao phụ thân chỉ về nhà mỗi năm một lần thôi vậy? Mỗi lần về cũng chẳng ở lại được bao lâu.”
Nét mặt của phụ nhân thoáng chút buồn bã nhưng nàng nhanh chóng mỉm cười trở lại: “Phụ thân các con ra ngoài kiếm tiền nuôi gia đình, cực khổ lắm.”
“Con nhớ rồi, phụ thân từng nói lão bản của người rất dữ.”
“Nhanh thôi mà, đến lúc ấy cả nhà ta sẽ được sống bên nhau, không bao giờ chia xa nữa đâu!”
Nhưng giấc mơ về tương lai tươi đẹp của nàng bị cắt ngang khi Tề Tĩnh Tuyết bất ngờ xông vào, đẩy nàng ta ngã xuống đất.
Hai hài tử sợ hãi khóc thét, nhưng chúng vẫn cố gắng bảo vệ mẫu thân của mình, dù run rẩy nhưng vẫn lao lên, cố gắng dùng đôi tay lấm lem bùn đất kéo giật và đánh vào vạt áo của Tề Tĩnh Tuyết.
Tề Tĩnh Tuyết đứng yên bất động, tay nàng siết chặt lấy quyển sách thơ, toàn thân run rẩy.
Nét chữ trên tập thơ ấy, nàng quá quen thuộc.
Tập thơ của Trọng Liễu.
Ngoài Hứa Tử, còn có thể là ai khác?
Phụ nhân ấy đã nhận ra Tề Tĩnh Tuyết, người vài năm trước đã đưa cho nàng một số bạc lớn, yêu cầu nàng rời xa Hứa Tử. Sau cú sốc ban đầu, đôi mắt nàng hiện rõ sự tuyệt vọng.
Nàng cố gắng bảo vệ hai đứa con, bò lê lết đến dưới chân Tề Tĩnh Tuyết, khúm núm như một con kiến đang cầu xin lòng thương xót: “Công chúa, công chúa đại nhân đại lượng, xin người, xin đừng làm hại con của chúng tôi, đừng làm hại các con của chúng tôi.”
‘Con của… các ngươi…’ Khi Tề Tĩnh Tuyết cất lời lần nữa, giọng nói của nàng đã khàn đặc, méo mó đến mức khó nghe.
Như chợt tỉnh ngộ, nàng bắt đầu cười, ban đầu nhẹ nhàng, sau đó tiếng cười lớn dần, trở nên chua chát và đầy điên loạn.
“Ta và hắn bên nhau đã bảy năm, nhưng hắn chưa từng cho ta một đứa con.”
Ta nhìn Tề Tĩnh Tuyết với ánh mắt thương xót, mơ hồ nghe thấy tiếng vụn vỡ từ sâu thẳm đâu đó trong lòng nàng.
Như ta đã nói, trong lòng Tề Tĩnh Tuyết, tình cảm giữa nàng và Hứa Tử quá đỗi thuần khiết, vì thế, nàng không thể chấp nhận bất kỳ vết nhơ nào trong mối quan hệ ấy.
Đúng như Tằng Tri Hứa đã nói, muốn biết Hứa Tử có thực sự dành tình cảm cho Tề Tĩnh Tuyết hay không, thực ra rất đơn giản.
Tằng Tri Hứa đoán rằng Hứa Tử và thanh mai trúc mã của y năm xưa bị chia lìa, nhưng tình cảm vẫn còn. Nếu Hứa Tử thật sự không quan tâm đến Tề Tĩnh Tuyết, nhiều năm qua y chắc chắn đã cẩn thận giấu đi ái thê của mình, để tránh khỏi sự ghen tuông độc địa của công chúa.
Phụ nhân này chính là mấu chốt.
Hứa Tử đã khéo léo giấu nàng ở một nơi xa xôi, cách kinh thành núi cao sông sâu. Dù mỗi năm chỉ có thể về nhà một lần, nhưng đây mới chính là ngôi nhà của y.
Còn Tề Tĩnh Tuyết, nàng chỉ là ‘lão bản’ của y.