Ngày mùng sáu tháng Chạp, tuyết tan trời quang đãng, sứ đoàn cầu hòa Bắc Yến đã vào kinh thành.
Nghe nói lần này Bắc Yến mang rất nhiều lễ vật quý giá như da thú, đồ đạc bằng vàng bạc để xin Đại Tấn mở cửa biên giới, thông thương buôn bán với nhau. Mấy ngày trước, Binh bộ Thị lang phụ trách đàm phán đã dâng tấu chương lên triều đình, hiện nay triều đình đang bàn bạc sôi nổi về việc này.
Hoàng đế thiết yến tại điện Quảng Hàn để chiêu đãi sứ đoàn Bắc Yến, các triều thần và ngoại mệnh phụ đều vào cung dự tiệc.
Trùng hợp hôm nay Phó Nhiêu trực, hiện giờ nàng đang mang thai, không muốn tới chỗ đông người bèn giả vờ không biết gì.
Mấy ngày gần đây, Lại bộ và Hộ bộ đã giúp Thái Y viện triệu tập được một nhóm thư lại. Ban ngày nhóm thư lại này làm việc ở các nha môn khác nhau, ban đêm đều tập trung tại Thái Y viện để sao chép y điển, Phó Nhiêu phụ trách việc này. Gần đây số ngày nghỉ lại tại Thái Y viện nhiều hơn, tất nhiên cũng có phần mệt mỏi.
May mắn thay là Hoàng đế đã sớm sai người dọn dẹp một sương phòng sau Điển Dược cục, đồ dùng đầy đủ, Thu Hương cũng đi theo hầu hạ, Phó Nhiêu ăn ở thoải mái.
Buổi tối mệt mỏi, sau giờ Ngọ Phó Nhiêu đã chợp mắt.
Khắc đầu giờ Thân, Lãnh Hoài An đã đích thân đến Thái Y viện, đi đến bàn trực của nàng, nhẹ nhàng lay nàng dậy.
“Huyện chúa, sứ đoàn đã vào cung, tại sao vẫn còn ở đây, mau mau thay y phục vào dự tiệc đi.”
Y không đợi Phó Nhiêu phản ứng, thấp giọng nói: “Là ý của bệ hạ.”
Phó Nhiêu đành phải đi vào thay một bộ đồ của Huyện chúa, đi cùng Lãnh Hoài An đến cung Quảng Hàn. Thu Hương được Lãnh Hoài An cho phép cũng ăn mặc như cung nữ hầu hạ bên cạnh Phó Nhiêu.
Tiệc tối sắp bắt đầu, Phó Nhiêu bị Lãnh Hoài An dẫn vào trắc điện của điện Quảng Hàn, chính điện và trắc điện được ngăn cách bởi một rèm ngọc, có thể mơ hồ thấy người ngồi chật cả chính điện, dường như có quan văn và võ tướng đang trò chuyện với sứ đoàn Bắc Yến.
Một cung nữ dẫn Phó Nhiêu vào chỗ ngồi, vị trí của Phó Nhiêu cực kỳ tốt, ở hàng thứ hai, vị trí đầu tiên, vừa ngẩng đầu đã có thể thấy ngai vàng hình rồng ở ngay phía trên bên trái, nơi đó chính là vị trí của Hoàng đế.
Không cần nói cũng biết chắc chắn là Lãnh Hoài An sắp xếp, để tiện cho Hoàng đế nhìn thấy nàng.
Công chúa Bình Khang đã xuất giá, xếp đầu danh sách mệnh phụ, vừa vặn ngồi phía trước Phó Nhiêu, ả quay đầu nhìn Phó Nhiêu cười.
Phó Nhiêu giả vờ không thấy, cúi đầu uống nước.
Công chúa Bình Khang cũng không giận, ả quay người lại, chống cằm trước bàn Phó Nhiêu, cười khẽ hỏi: “Ngươi có biết tại sao hôm nay bản Công chúa lại có thể đến dự tiệc không?”
Phó Nhiêu cứ đến cuối giờ Thân là bắt đầu thấy đói, nàng lặng lẽ lấy điểm tâm trong túi ra, ăn hết mấy miếng, nàng vẫn coi Công chúa Bình Khang như không khí.
Công chúa Bình Khang tự nói: “Trong sứ đoàn Bắc Yến có một vị Công chúa, nghe nói muốn tới Đại Tấn hòa thân, phụ hoàng ta đã cho ta tới dự.”
Phó Nhiêu nghe vậy hơi khựng lại, đã đoán được ý của Công chúa Bình Khang, ánh mắt hơi ảm đạm hơn một chút.
Công chúa Bình Khang đắc ý nhếch môi, thấp giọng cười: “Không phải ngươi đang ghen chứ?”
Phó Nhiêu nhướng mày, thấp giọng khiển trách một câu: “Công chúa ăn nói cẩn thận!”
Công chúa Bình Khang tức giận, sắp bùng nổ thì nghĩ đến lời dặn của phụ hoàng bảo phải kính trọng Phó Nhiêu, lập tức kìm nén cơn tức, cúi đầu ở trước mặt nàng, hậm hực nói: “Chỉ đùa giỡn với ngươi một câu, ngươi đã cho là thật. Yên tâm đi, phụ hoàng định sẽ chọn trong số các vương phủ và tông thân.”
Ả nói xong rời khỏi chỗ, đi trêu chọc nhị Công chúa và tam Công chúa ngồi đối diện, hai vị Công chúa bên dưới còn nhỏ, nhị Công chúa do Ngu phi sinh ra mới mười tuổi, tam Công chúa do Liễu quý tần sinh mới được bốn tuổi.
Phó Nhiêu cụp mắt xuống, chiếc bánh xốp trong miệng nhai thế nào cũng không ra được vị gì.
Từ khi bị chàng phát hiện mình có thai, nàng đã không còn lựa chọn nào khác, cũng đã chuẩn bị tinh thần bên cạnh chàng sẽ có đủ loại nữ nhân, nhưng khi tự trải qua, trong lòng vẫn không vui, rõ ràng nàng có thể không cần lội vào vũng nước bùn này, giờ đây lại sa lầy trong đó, không thể thoát ra được, tất nhiên là cảm thấy có chút chán nản.
Phó Nhiêu ngồi một mình xuất thần, ngay cả khi đế hậu cùng ngồi vào chỗ, nàng cũng không hề để ý.
Không bao lâu sau, tiệc rượu bắt đầu, vũ nữ nối đuôi nhau tiến vào, tay áo dài uyển chuyển, ăn uống linh đình.
Nàng dần dần bị bao phủ bởi âm thanh huyên náo.
Trong số các cung phi, chỉ có Lý tần bị cấm túc, còn lại những cung phi từ ngũ phẩm trở lên đều có mặt.
Phó Nhiêu nhìn thấy Ngu phi, Ngu phi ngồi ở vị trí đầu gật đầu cười với nàng, Phó Nhiêu đứng dậy đáp lễ lại, sau đó nàng yên lặng ngồi trên ghế dùng bữa.
Thu Hương biết nàng không thích ăn đồ dầu mỡ, lặng lẽ đút ô mai cho nàng, thật ra Phó Nhiêu vẫn chưa ăn được bao nhiêu, chỉ làm dáng một chút, không muốn đi xã giao mà thôi.
Chuyện trong cung đợi sau này sẽ tính sau, những nữ nhân kia cũng sẽ chờ vào cung rồi mới sắp xếp, trước mắt tạm thời cứ sống mấy ngày thảnh thơi đi đã.
Không bao lâu sau, vũ nữ múa xong một khúc, sứ đoàn Bắc Yến đề nghị Công chúa múa kiếm trợ hứng, mọi người đều tập trung chú ý.
Hoàng đế gật đầu, liền thấy một nữ tử xinh đẹp mặc trang phục đỏ tươi, hiên ngang bước lên đài, nàng ta thi lễ với Hoàng đế tiên triều, sau đó rút ra một thanh kiếm mềm từ thắt lưng, cơ thể mềm mại uyển chuyển theo điệu nhạc.
Vị Công chúa Bắc Yến này có tài nghệ rất tốt, đôi mắt đầy khí chất oai phong, nhưng lại có chút quyến rũ và tinh nghịch.
Mọi người không khỏi vỗ tay trầm trồ khen ngợi, tiện thể cũng phát hiện, vị Công chúa Bắc Yến này mỗi lần ngước mắt lên đều liếc về phía Hoàng đế, quần thần dần tỉnh táo lại.
Công chúa Bắc Yến không muốn hòa thân với Quận vương, nàng muốn gả cho đương kim Hoàng đế.
Cũng khó trách, Càn Trinh đế văn võ song toàn, khí phách ngất trời, lại thêm tướng mạo anh tuấn lạnh lùng, hỏi có nữ nhân nào không bị khuất phục?
Công chúa Bắc Yến đã nghe chuyện của chàng từ nhỏ đến lớn, hôm nay khó khăn lắm mới được gặp thoáng qua, một lòng đã trót trao ra, không thể giữ lại được.
Tâm trí Hoàng đế không thực sự tập trung vào vị Công chúa dị quốc ở phía trước, chàng nâng ly rượu lên uống, ánh mắt thỉnh thoảng lướt về phía Phó Nhiêu.
Thế nhưng cô nương kia chỉ lo cúi đầu ăn, căn bản không thèm nhìn ra bên ngoài dù chỉ một lần.
Trong lòng Hoàng đế có chút lo lắng, lo nàng không khỏe hoặc không hài lòng.
Sứ đoàn dị quốc tới kinh thành không phải chuyện bình thường, hôm nay gọi Phó Nhiêu tới đây là muốn cho nàng nhìn thấy cảnh tượng này mở mang kiến thức nhưng hiện tại thấy nàng có vẻ không mấy hứng thú.
Nàng không xem thánh chỉ mà chàng để lại, không biết tình ý của chàng?
Hoàng đế một lòng nghĩ đến Phó Nhiêu, đối với những cái liếc mắt đưa tình của Công chúa Bắc Yến thì chẳng thèm để mắt.
Một lúc sau, Công chúa Bắc Yến múa xong, nàng ta thu kiếm, chắp tay hành lễ với Hoàng đế.
“Bệ hạ, Mẫn Mẫn không muốn gả cho Minh Quận vương, Mẫn Mẫn ngưỡng mộ bệ hạ đã lâu, Mẫn Mẫn muốn gả cho nam nhân là bệ hạ!”
Giọng nói của thiếu nữ trong trẻo như tiếng ngọc rơi xuống bàn.
Nàng ta quỳ xuống đất, bái lạy Hoàng đế một cái, tư thế thành kính lại chân thành.
Bá quan trong triều ngỡ ngàng, kinh ngạc với sự can đảm của Công chúa dị quốc, nhưng quần thần đã bàn bạc để Minh Quận vương cưới vợ, lúc này nàng ta công khai từ hôn, thể diện của Minh Quận vương biết để đâu.
Minh Quận vương vốn không thích cưới loại Công chúa này, người mà hắn ta thích là nữ nhân nhu mì, thùy mị, dễ sai bảo.
Hắn ta nổi giận, phất tay áo đứng dậy, chỉ vào Công chúa Mẫn Mẫn, nói với Hoàng đế.
“Hoàng huynh, thần cũng không muốn lấy loại Công chúa không hiểu quy củ này…”
Minh Vương gia kinh hãi đầu đầy mồ hôi, lập tức túm nhi tử kéo xuống giữ chặt, vội vàng thỉnh tội với Hoàng đế: “Bệ hạ, Thương Nhi uống nhiều quá, nói lời hồ đồ, bệ hạ chớ trách tội.”
Bên kia Công chúa Mẫn Mẫn thấy thế, đứng dậy, mặt lộ vẻ vui mừng nói.
“Bệ hạ, người Trung Nguyên các ngài có một câu, gọi là “dưa hái xanh không ngọt”, nếu Minh Quận vương không muốn cưới ta, ta cũng không muốn gả cho hắn, vậy xin bệ hạ hãy thành toàn cho ta, để ta trở thành nữ nhân của bệ hạ!”
Công chúa Mẫn Mẫn vui vẻ chắp tay hành lễ theo đúng nghi lễ của người Trung Nguyên.
Hoàng đế xoa trán, liếc mắt ra hiệu cho Lễ bộ Thượng thư Hàn Huyền.
Hàn Huyền hiểu ý, lập tức đứng dậy, vuốt râu cười nói.
“Năm nay Công chúa Mẫn Mẫn mới mười lăm tuổi, còn Công chúa Bình Khang của bệ hạ chúng ta cũng đã mười lăm, Công chúa gả cho Quận vương thì thích hợp tuổi tác hơn.”
Khi Hàn Huyền nói ra những lời này, trong lòng thực ra cũng cảm thấy rất khó hiểu.
Hoàng đế đang ở độ tuổi tráng niên, trong cung không nạp phi tần mới đã nhiều năm, vị Công chúa Mẫn Mẫn này dù là về tài trí hay nhan sắc đều thuộc hàng xuất chúng, nếu Hoàng đế muốn nạp làm phi tần thì chẳng phải là lẽ thường tình hay sao.
Nhưng Hoàng đế đẩy ông ấy ra làm lá chắn, ông ấy cũng không thể tránh được.
Lời của Hàn Huyền cũng chẳng thể làm Công chúa Mẫn Mẫn đổi ý, ngược lại Công chúa còn nhìn Hoàng đế đắm đuối, nói.
“Bệ hạ anh minh thần vũ, giỏi hơn bất cứ nam nhi nào trên thế gian, Mẫn Mẫn không ngại bệ hạ lớn tuổi, nguyện ý phụng dưỡng bệ hạ.”
Phó Nhiêu vừa nghe vậy, không hiểu sao bụng lại cuộn lên cơn buồn nôn, nàng lấy khăn tay che miệng, nhân lúc người khác không chú ý, rời khỏi bàn tiệc, ra khỏi điện Quảng Hàn rồi tới hành lang bên ngoài.
Nàng đứng đón gió, hít thở thật sâu vài cái, mới miễn cưỡng đè nén được cơn buồn nôn.
Bóng hoàng hôn đã tan biến, trên bầu trời đã xuất hiện trăng khuyết, vầng trăng lạnh lẽo ấy nhẹ nhàng lướt qua bầu trời xanh thẫm, báo hiệu đêm đã buông xuống, ánh đèn xung quanh lần lượt sáng lên, toàn bộ đảo Quỳnh Hoa giống như khu chợ đèn, ánh đèn rực rỡ ấy dần đẩy lùi sắc trời ở phía tây.
Phó Nhiêu nhờ Thu Hương dìu tay chậm rãi xuống bậc thang, đường đá uốn lượn quanh co, đi qua một khu vườn, tới đình mái tam giác ở bên hồ.
Phó Nhiêu quay đầu lại, thấy cung điện nguy nga tráng lệ giống như cung điện trên trời lơ lửng giữa rừng cây dày đặc, ngọn đèn ở góc điện lấp lánh, tỏa ra ánh sáng lung linh.
Gió hồ thổi tan sự bực bội trong lòng, sự khó chịu trong cơ thể nàng đã bình phục, nỗi ghen tuông trong lòng cũng dần tan biến trên tứ chi.
Những ngày như thế này còn nhiều lắm, thích nghi sớm thì tốt hơn.
Thu Hương thấy dáng vẻ ghen tuông của nàng, vội vàng khuyên nhủ: “Người đừng tức giận, trong lòng bệ hạ, người vẫn không thể thay thế, cho dù có nạp thêm Công chúa đi nữa, thì cũng chỉ là thêm một phi tử mà thôi, lúc này người nên quan tâm đến hoàng tự…” Câu cuối cùng của nàng ấy văng vẳng bên tai Phó Nhiêu.
Phó Nhiêu quay lại nhìn thấy đôi mắt trầm ngâm của Thu Hương, trong lòng bất giác dấy lên mối ngờ vực.
Lời nói của Thu Hương thật sự không giống với hiểu biết của một nử tử sơn dã.
Thu Hương biết mình lỡ lời, cuống quýt quỳ xuống: “Cô nương, là nô tỳ vượt quá phận sự, nô tỳ thấy cô nương buồn khổ nên mới…” Trong lòng nàng ấy vô cùng sốt ruột, không biết nói sao mới phải.
May thay, lúc này trên con đường lát đá bên hồ xuất hiện một bóng người.
Người nọ bình thản nhìn về phía này.
Bốn mắt nhìn nhau.
Phó Nhiêu hơi sửng sốt, tạm gác lại chuyện của Thu Hương sang một bên, thi lễ với Lý Huân.
“Lý công tử.”
Lý Huân nhìn thấy Phó Nhiêu, dưới đáy mắt hiện lên vẻ ngạc nhiên sửng sốt, sau đó bước lên bậc đáp lễ nàng: “Tại sao cô nương lại ở đây hứng gió lạnh làm gì…” Hắn thấy vẻ mặt nhợt nhạt của nàng, lại cau mày: “Phải cẩn thận thân thể mới đúng.”
Phó Nhiêu cười xấu hổ: “Trong điện ngột ngạt, ra ngoài đi dạo, đúng rồi, vết thương của ngươi thế nào rồi?”
Lý Huân sững lại một lúc, khóe môi nhếch lên một nụ cười nhàn nhạt: “Đã ổn rồi, đa tạ cô nương quan tâm.”
Phó Nhiêu thấy hắn không muốn nói thêm, cũng không tiện hỏi nhiều, chỉ gật đầu, rồi nhìn về phía ánh đèn rực rỡ bên kia bờ. Có vẻ như có người đang thả hoa đăng bên bờ, từng chiếc hoa đăng trôi theo gió về phía giữa đảo, từng ngọn đèn như một chiếc thuyền, chở theo ánh đèn lấp lánh dần tiến lại gần. Phó Nhiêu nhớ lại hồi nhỏ, mình cùng đệ đệ thả hoa đăng và ước nguyện, rồi dần thất thần.
Lý Huân ngắm nhìn góc nghiêng của nàng, xinh đẹp như ngọc, đôi mắt nàng trong veo như dòng suối, luôn toát lên vẻ nhìn thấu thế sự và sự trong sáng không vướng bụi trần, giống như một bình rượu ngon, càng uống càng say, có thể từ từ thấm vào lòng người, đôi tay buông thõng bên hông vô thức siết chặt lại, lòng không khỏi dâng lên chút chua xót.
Hắn cũng không biết từ khi nào đã nảy sinh những ý nghĩ như thế, hình ảnh nàng cứ hiện hữu trong tâm trí, vô thức muốn được nhìn thấy nàng, thỉnh thoảng nhìn thấy nàng rồi, trong lòng vừa vui mừng vừa xót xa rồi lại dâng lên cảm giác ấm áp khó hiểu.
Lý Huân dời mắt, cùng nàng ngắm nhìn phương xa, khẽ hỏi.
“Thời gian tới Phó cô nương có tính toán gì không?”
Phó Nhiêu nghi hoặc, nghiêng đầu đối diện hắn: “Tính toán gì?”
Lý Huân sững sờ, bật cười nói: “À, không có gì, ta chỉ thuận miệng hỏi một chút thôi.”
Phó Nhiêu chỉ cảm thấy Lý Huân có vẻ kỳ quái, đang muốn nói gì đó thì đột nhiên nghe thấy tiếng bước chân sau lưng, quay đầu lại nhìn, thấy Công chúa Bình Khang xách váy tìm tới.
“Phó Nhiêu, sao ngươi lại ở đây, tìm mãi không thấy!”
Ánh mắt dừng trên người Lý Huân, kinh ngạc, chợt nhíu mày: “Biểu huynh?”
Tầm mắt liên tục chuyển đổi giữa Phó Nhiêu và Lý Huân, khóe môi Công chúa Bình Khang cong lên một nụ cười lạnh lùng.
“Biểu huynh, mấy lần thấy huynh ở bên cạnh Phó Nhiêu, không thích hợp lắm nhỉ?”
Ngón tay giấu dưới ống tay áo Lý Huân khẽ cong lên nhưng trên mặt vẫn bình tĩnh, nói.
“Trong điện quá ngột ngạt, ta đi ra ngoài một chút, tình cờ gặp nhau thôi, Công chúa đến tìm Phó cô nương thì ta xin phép cáo lui.”
Hắn dứt lời rồi thi lễ với hai người, bóng dáng biến mất trong rừng cây.
Công chúa Bình Khang lạnh lùng thu hồi tầm mắt, nhìn Phó Nhiêu, thấy Phó Nhiêu đang nhìn chằm chằm hướng Lý Huân, không vui nói: “Này, ngươi có ý gì, lẽ nào ngươi không muốn vào cung là vì biểu ca ta ư?”
Phó Nhiêu bất lực nhìn ả: “Ta không muốn vào cung, là bởi vì ngươi.”
Nàng căn bản không muốn để ý tới Công chúa Bình Khang, trực tiếp đi về.
“Ngươi nghĩ rằng ta muốn ngươi vào cung chắc?” Công chúa Bình Khang tức giận đến giậm chân.
Khi Công chúa Mẫn Mẫn ép hôn ở bữa tiệc, ả quay đầu muốn xem trò cười của Phó Nhiêu nhưng nào ngờ Phó Nhiêu lại biến mất. Khi ả quay lại, ả thấy phụ hoàng ra hiệu cho nàng, Công chúa Bình Khang biết chắc hẳn phụ hoàng không yên tâm về Phó Nhiêu nên sai ả đi tìm người.
Kết quả Phó Nhiêu kia chẳng những tình tứ với nam nhân khác mà còn dám làm ả mất mặt!
Phó Nhiêu đi vào cửa sau của điện Quảng Hàn, đi dọc theo một lối đi tối đen như mực về phía trước.
Giữa đường, một cổ tay quen thuộc nắm lấy nàng, nhẹ nhàng kéo vào gian phòng tối đen.
Thu Hương thấy Phó Nhiêu bị Hoàng đế kéo vào phòng tối thì cuống cuồng nhìn quanh bốn phía. May mà nơi này không có ai qua lại, nàng ấy mới yên lòng, lặng lẽ rời khỏi lối đi, che chắn cho Phó Nhiêu.
Nàng ấy không biết, Tôn Chiêu đã bố trí người canh gác ở góc tối, làm sao để cho người khác đi vào chứ?
Bên trong Hoàng đế ôm Phó Nhiêu trong lòng, ép eo nàng kề sát mình, mượn ánh sáng yếu ớt để nhìn sâu vào mắt nàng.
“Nhiêu Nhiêu của trẫm ghen ư?”
Trong lòng Phó Nhiêu dâng lên chút uất ức, mũi thấy cay cay chua xót, cắn môi không muốn lên tiếng.
Nàng cảm thấy buồn không phải chỉ vì những nữ nhân đó mà còn phải đối mặt với số phận không thể tự lựa chọn.
Hoàng đế cực kỳ đau lòng, lại mang theo chút thỏa mãn khó nói thành lời, nhẹ nhàng lau đi nước mắt trên khóe mắt nàng, cúi đầu chạm trán vào trán nàng, giọng khàn khàn nói.
“Nhiêu Nhiêu đừng khóc, trẫm đã từ chối lời cầu hôn của nàng ta, trẫm sẽ không lấy người nào nữa, Nhiêu Nhiêu có hài lòng không?”
Phó Nhiêu kinh ngạc nhìn chàng, hơi bối rối, cố rút tay ra khỏi cánh tay chàng, Hoàng đế không cho, kéo chặt nàng lại.
Nàng chỉ đành nằm trong lòng chàng, cúi đầu lên án: “Bệ hạ, tại sao ngài lại muốn ta tới đây?”
Hoàng đế bật cười, nhẹ nhàng ôm lấy nàng, đặt nàng lên bàn trong bóng tối, nhẹ nhàng áp nàng vào người, nói mơ hồ không rõ: “Trẫm muốn cho nàng thêm kiến thức, sau này không đến mức luống cuống tay chân…”
Không đợi Phó Nhiêu đáp lời chàng, trong màn đêm tối tăm, giọng nói của chàng mang theo vẻ mê hoặc, trầm như tiếng đàn cổ: “Nói cho trẫm biết, đã bao lâu rồi nàng không lộ mặt? Trẫm truyền nàng vào, nàng lại giả câm giả điếc, nàng không nhớ trẫm chút nào ư?”
Mặt Phó Nhiêu từ từ ửng hổng, đuôi mắt ửng đỏ, nàng cúi đầu nài nỉ.
“Bệ hạ, bên ngoài nhiều người như vậy…”
Ánh mắt Hoàng đế sâu thẳm, mang theo chút áp bức lạnh lẽo, nhìn chằm chằm vào nàng.
Phó Nhiêu tránh cũng không thể tránh, cánh tay mềm mại lặng lẽ ôm cổ Hoàng đế, vùi đầu vào lòng chàng, tránh né câu hỏi ẩn ý của chàng.
“Cũng không phải không nhớ bệ hạ, là sợ bệ hạ bắt nạt ta…”
Hai chữ “bắt nạt” lại gợi lên sức hấp dẫn khó giải thích.
Hoàng đế nhớ tới nàng đêm đó, chậm rãi bật cười, nhéo cằm nàng ép nàng nhìn mình.
“Đêm nay trẫm muốn đưa cho Nhiêu Nhiêu một phần đại lễ, Nhiêu Nhiêu có muốn ở lại với trẫm một đêm không?”
Phó Nhiêu nghi hoặc nhưng lại quyết đoán từ chối: “Không cần.”
Hoàng đế bật cười, lực tay trên người nàng đột ngột mạnh thêm: “Trẫm khổ tâm mưu tính cho nàng mà nàng lại chẳng hề cảm kích chút nào.”
Những người khác vì vị trí đó mà tranh giành đến đầu rơi máu chảy, gia tộc suy tàn, còn chàng thì dâng tận tay nàng nhưng nàng lại chẳng thèm để mắt.
Cô gái nhỏ này thật là hư.
Phó Nhiêu thấy mình đã chọc giận chàng, không hiểu sao vơi đi chút tức giận, cằm cọ cọ vào lòng bàn tay chàng rồi từ từ lùi ra, trong mắt lộ ra vẻ yêu kiều hiếm thấy: “Bệ hạ tha cho ta đi mà…”
Không biết sao lại đốt lửa Hoàng đế, Hoàng đế ôm má nàng, hôn lên.
…
Mặc dù Công chúa Bắc Yến đã bị từ hôn nhưng sứ đoàn vẫn nhận được lời hứa từ Hoàng đế về việc mở chợ biên giới, cho phép hai nước giao thương, cũng coi như tất cả đều vui.
Rượu đã uống say, sứ thần Yến quốc cùng các vũ nữ hát ca nhảy múa, thật là một cảnh tượng say mê lòng người.
Một lúc lâu sau, tiệc tan, các quan viên hai bộ Lễ bộ và Hộ bộ tự tiễn đoàn sứ thần ra khỏi cung.
Hoàng hậu dẫn theo các phi tần hồi cung, Hoàng đế giữ các quan nội các lại để bàn về việc mở biên giới, nghị sự được một nửa, một tiểu hoàng môn vội vã đi tới Ngự thư phòng, quỳ phịch xuống.
“Bệ hạ, Thái Hoàng Thái Hậu thỉnh ngài tới Trân Châu các.”
Mấy vị đại thần nghe vậy sắc mặt lập tức thay đổi.
Trân Châu các là nơi ở của Trân phi đã qua đời, hơn mười năm qua bị đóng cửa phong tỏa, không cho bất cứ ai vào.
Thái Hoàng Thái Hậu đột nhiên gọi Hoàng hậu đến Trân Châu các, chẳng lẽ đã xảy ra chuyện lớn gì?
Hoàng đế nhìn lướt qua những vị đại thần còn ở lại, Lễ bộ Thượng thư Hàn Huyền, Lại bộ Thượng thư Liễu Khâm, Lại bộ Thị lang Lý Duy Trung, Tả đô Ngự sử Trình Khang, Hình bộ Thượng thư Hà Chí Lập, chỉ thiếu Đại lý tự khanh Tưởng Nam Sinh.
Chàng vờ tỏ ra ngạc nhiên, từ từ đỡ án thư đứng dậy, liếc nhìn qua chúng thần, nói: “Các khanh theo trẫm đi xem.”
Bóng đêm tĩnh lặng, núi non trùng điệp uốn lượn khuất trong lớp cây xanh um tùm như những con thú đang rình mò, khiến người ta không khỏi cảm thấy sợ hãi.
Hai tiểu hoàng môn dẫn đầu cầm hai ngọn đèn gió, dẫn Hoàng đế và đại thần đi đến trước một cung điện hẻo lánh.
Trân Châu các nhỏ mà tinh xảo, trước có trúc xanh, sau có hòn non bộ, trước điện còn có bức bình phong, thực sự có phong vị của khu vườn Giang Nam.
Có vài dây leo khô quấn quanh bức tường phủ bóng trước nhà, ao nhỏ bên dưới đã khô cạn, chỉ còn lại một vài viên đá cuội nhẵn bóng trong đó, thầm lặng chống chọi với bụi bặm phủ lên từng ngày.
Phó Nhiêu đeo theo túi thuốc, ngẩn ngơ nhìn bức tường phủ bóng cô độc, tưởng tượng có lẽ năm xưa Hoàng đế vô cùng sủng ái Trân phi, nếu không thì sao lại cho xây một lâm viên Giang Nam trong hoàng cung sâu thẳm này chứ?
Cách đây một lát, nàng với Chu Hành Xuân phụng mệnh Thái Hoàng Thái Hậu đến Trân Châu các.
Vị thái y tóc hoa râm này, đột nhiên được triệu tập đến đây, khuôn mặt không còn vẻ điềm tĩnh như thường ngày, mà hiếm khi lộ ra vẻ cô đơn và bất lực, ông thấy Phó Nhiêu nhìn vào bức bình phong bất động, thở dài nói: “Đi thôi, vào đi, bệ hạ sắp đến rồi...”
Mới vừa nói xong, đã thấy từ hướng bên kia có một đoàn người đi tới, người đi đầu bước đi uy nghiêm vững chãi, ánh mắt thâm sâu, chính là Hoàng đế Bùi Tấn.
Phó Nhiêu vừa mới chạm mắt với hắn, lặng lẽ lau đi nước mắt nơi khóe mắt, cụp mắt, cúi đầu thỉnh an.
Ánh mắt Hoàng đế lướt qua nàng, nhanh chân bước vào trong.
Tuy cổng của Trân Châu các cũ kỹ, nhưng chính điện bên trong lại rộng rãi và sạch sẽ.
So với sự hoang phế trước đây, lúc này nơi đây đông đúc hẳn lên.
Thái Hoàng Thái Hậu đeo khăn thêu hình chữ Phúc trên trán, lông mày đen nhánh, dáng vẻ tĩnh lặng, ngồi ngay ngắn ở chủ vị. Bên trái bà là một phụ nhân mặc trang phục hoàng cung màu đỏ thẫm, dung mạo xinh đẹp, nhưng gầy gò, hốc mắt hơi hõm, đó chính là đương kim Hoàng hậu, Kiều thị.
Các cung phi còn lại như Ngu phi đều hầu ở bên cạnh, ai cũng cúi đầu im lặng, không dám nói lời nào.
Muôn hồng ngàn tía, dường như là để tô điểm thêm cho đại điện vốn buồn tẻ trong hơn mười năm.
Nổi bật nhất không phải những chủ tử của hậu cung này, mà là một cung nữ đang quỳ giữa điện, mặc trên người chiếc váy xanh lục của cung nữ cấp thấp, quỳ rạp xuống đất, run rẩy.
Hoàng đế dẫn các đại thần bước vào điện, các phi tần vội vàng hành lễ, Hoàng đế ngồi xuống bên cạnh Thái Hoàng Thái Hậu, hỏi.
“Hoàng tổ mẫu, đêm khuya gọi tôn nhi tới đây, đã xảy ra chuyện gì?”
Thái Hoàng Thái Hậu vẫn lạnh lùng nhìn chằm chằm, chỉ tay vào cung nữ đang quỳ trước mặt: “Ai gia được báo có kẻ vào ban đêm tìm kiếm ở Trân Châu các, đúng lúc bị nội giám tuần tra bắt gặp. Sau khi thẩm vấn, biết được kẻ này phụng mệnh của Hoàng hậu đến Trân Châu các tìm một món đồ, ta nghi ngờ nên đã gọi Hoàng hậu đến đối chất, đáng tiếc là Hoàng hậu không thừa nhận, vì vậy, đành phải mời bệ hạ đến để lấy lại công lý.”
Hoàng hậu nghe vậy liền hừ lạnh một tiếng, đáp lại một cách lạnh lùng: “Thật đúng là vu khống thì sợ gì không có cớ, bản cung chưa từng thấy cung nhân này, làm sao có chuyện sai bảo cơ chứ?”
Thái Hoàng Thái Hậu ngán ngẩm không muốn đôi co với nàng ấy nữa nên ra hiệu cho Hoàng đế thẩm án.
Hoàng đế sầm mặt lại, hai tay tì lên gối, lạnh giọng hỏi cung nữ kia:
“Kẻ nào sai ngươi tới đây, mục đích là gì?”
Cung nữ kia như thể vừa gặp đại nạn, rơi lệ đầy mặt, lắp bắp hồi bẩm: “Nô tì là cung nữ quét dọn của cung Khôn Ninh, Hoàng hậu nương nương nói nô tì thường ngày chẳng mấy khi lộ mặt trước người khác, vừa khéo sai nô tì làm một việc, nô tì hỏi rằng việc gì, nương nương bèn nói đêm qua nàng mơ thấy Trân phi nương nương, muốn nô tì đến ao phóng sinh ở sân sau của Trân Châu các, thắp một nén hương cho Trân Phi, còn nói Trân Phi nương nương lúc sinh thời thích nhất là tấm bình phong gấm Tô Châu ở trong tẩm cung nên sai nô tì đốt giúp Trân phi để bày tỏ lòng thương tiếc với Trân phi nương nương...”
Hoàng hậu nghe vậy thì lộ vẻ hung dữ, đột nhiên cắt ngang lời nàng ta, “Vớ vẩn, bản cung căn bản không sai ngươi, ngươi nói bậy! Năm xưa bản cung với Trân phi không hề hoà thuận, sao biết nàng ta thích bức bình phong kia? Rõ ràng là ngươi bị kẻ gian giật dây, vu oan cho bản cung!"
Một bà lão khoảng năm mươi tuổi, bước đi khó khăn bước ra từ gian phòng bên cạnh, chậm rãi nói.
“Sao nương nương lại không biết Trân phi nương nương thích tấm bình phong đó chứ? Độc Ô Lan Thanh của nương nương năm xưa được giấu trong chính chiếc bình phong này mà...”
Sắc mặt Hoàng hậu đột ngột biến đổi, nhưng rồi nhanh chóng trở lại bình thường, chậm rãi cười thành tiếng: “Thật thú vị, năm xưa bệ hạ đã lật tung cả Trân Châu các mà tìm, nếu như bình phong có độc thì sao lại không phát hiện ra?”
Ngay khi Hoàng hậu vừa dứt lời, hai nội thị liền khiêng bức bình phong chưa kịp đốt cháy đến giữa chính điện,
Hoàng đế ra hiệu, Chu Hành Xuân lập tức cầm kim bạc tiến lên, Phó Nhiêu định đi theo, Lãnh Hoài An đứng sau kéo nàng lại, lắc đầu với nàng.
Phó Nhiêu nhớ ra mình đang mang thai, nếu bức bình phong thật sự có độc, e rằng sẽ hại đến thai nhi, vì vậy nàng lùi lại mấy bước.
Một nội giam cầm đèn cung đình bước tới, Chu Hành Xuân nhíu mày tỉ mỉ kiểm tra hoa văn thêu trên bức bình phong.
Đây là một bức bình phong thêu cảnh sông núi Giang Nam hai mặt, tay nghề thêu rất tinh xảo, đây là món quà phủ Nội vụ cung kính dâng lên nhân sinh nhật mười tám tuổi của Trân phi, lúc bấy giờ Trân phi mang thai chưa được bao lâu, Hoàng đế rất vui, lệnh Nội vụ phủ thêu theo sở thích của nàng.
Nếu không có bà lão thoát chết này thì làm sao Hoàng đế và Thái Hoàng Thái Hậu biết được chất độc ẩn giấu trong bức bình phong này.
Sắc mặt Hoàng hậu thay đổi kỳ lạ, đôi tay trong tay áo cũng run run, nàng ta nhìn chằm chằm vào bà lão: “Là ngươi? Năm đó chính ngươi thêu bức bình phong này?”
Bà lão nhẹ nhàng mỉm cười, hành lễ với Hoàng hậu: “Không ngờ rằng nương nương vẫn còn nhớ đến lão nô, năm xưa phụng mệnh nương nương và Thái Hoàng Thái Hậu hậu thêu bức bình phong này, thêu cỏ Ô Thanh vào trong hoa văn. Việc này, ngoài lão nô ra, chỉ có nương nương là biết. Năm đó, bệ hạ có lật tung cả Trân Châu các tìm kiếm, đáng tiếc là cỏ Ô Thanh chỉ như một sợi chỉ nằm ẩn trong bình phong, thần không biết quỷ không hay. Dù những thái y kia có lật tìm như thế nào đi chăng nữa thì làm sao ngờ tới độc dược lại giấu trong bình phong chứ? Nương nương của ta, tâm tư của người ngay cả thái hậu cũng không sánh được!”
Hoàng hậu run rẩy người, nhưng trên mặt lại không lộ ra vẻ gì cả, nàng ấy vẫn nhẹ nhàng mỉm cười.
“Ngươi là người do Thái Hoàng Thái Hậu tìm đến, đương nhiên phải nghe theo chỉ thị của lão nhân gia bà ấy, tùy tiện vu cáo bản cung, theo lời ngươi nói, cũng có thể là Ngu phi hoặc Lý tần chỉ thị ngươi, tại sao nhất định là bản cung được? Cho dù thực sự là bản cung thì chắc chắn đã hủy bỏ chiếc bình phong này từ lâu, còn giữ lại nó để làm gì?”
“Chính bởi vì người biết tấm bình phong này là vật mà Trân phi yêu thích nhất khi còn sống, dù bệ hạ không cho ai bước vào nhưng vẫn cho phép Đại Hoàng tử tới đây tế bái, đồng thời căn dặn cung nữ thân cận quét dọn, người sợ lộ ra sơ hở nên mới giữ lại tới bây giờ.”
Hoàng hậu cảm thấy lòng mình trống rỗng, rất lâu sau vẫn không lên tiếng.
Trong điện hoang vắng đột nhiên có tới chục ngọn đèn cung đình sáng choang, như bất chợt chưa kịp thích nghi, vài sợi tơ nhện bám vào các thanh đỡ mái cao, bị gió thổi, rơi xuống, để lộ ra mái vòm rực rỡ phức tạp bên dưới, cho dù đã mười mấy năm trôi qua, mái vòm vẫn còn hiện rõ vẻ uy phong ngày trước.
Tất cả mọi người trong điện đều ngạc nhiên nhìn bà lão, vẻ mặt căng thẳng.
Bà lão mỉm cười thản nhiên, mang theo quyết tâm và bình thản sẵn sàng chịu chết, đối mặt với khuôn mặt cứng đờ của Hoàng hậu, bà bật cười nói.
“Lần này lão nô vào kinh không phải vì Trân phi nương nương năm đó, mà là vì Hoàng hậu nương nương...”
Hoàng hậu nhíu mày, nhìn chằm chằm bà lão một hồi lâu, rồi cười lạnh: “Vì ta ư? Ta với ngươi không quen biết, sao ngươi lại vì ta mà đến?”
Bà lão gật đầu: “Năm đó vì lão nô nhất thời bất cẩn, đã thêu sai một đường chỉ của hoa văn vuốt rồng, suýt nữa thì bị tiên đế đánh chết, nhờ hoàng thái hậu thương tình cho rằng lão nô còn chút tài nghệ nên đã bảo vệ tính mạng cho lão nô, lão nô nhớ kỹ ân tình này, lão nô đã phụ giúp nương nương phạm phải lỗi lớn, khiến Trân phi băng huyết qua đời, còn khiến điện hạ phải chịu đựng nỗi đau bệnh tật suốt mười năm trời.”
Bà lão nói đến đây như đã dùng hết sức lực, thở hổn hển: “Đáng lẽ lão nô đã phải chết từ lâu rồi, nhưng vẫn luôn có một nỗi lòng chưa thể hoàn thành.”
Bà lão bước tới gần Hoàng hậu, cẩn thận quan sát gương mặt trắng bệch của Hoàng hậu, thì thầm hỏi: “Nương nương có biết tại sao bấy lâu nay người không mang thai không?”
Sắc mặt Hoàng hậu đột ngột thay đổi, ngón tay bấu chặt vào tay áo, môi tím tái, nàng ta lẩm bẩm: “Năm đó... năm đó không may sảy thai… ảnh hưởng cơ thể...”
Một dòng nước mắt nóng hổi lăn dài trên má, nàng ta bất chợt xúc động, ôm chặt ngực, thân thể run rẩy, không thể nói nên lời.
Đại lý tự khanh Tưởng Nam Sinh phụng chiếu chạy tới thì thấy dáng vẻ của Hoàng hậu lúc này, lập tức vội vã tiến lên đón, vội la lên.
“Hoàng hậu nương nương…”
Bỗng dưng ông lại dừng bước, dời mắt nhìn về phía Hoàng đế vẻ mặt lạnh lùng, quỳ xuống bái lạy: “Bệ hạ...”
Ông đang định cất lời thì bị Lại bộ Thượng thư Liễu Khâm kéo lại, ra hiệu cho ông im lặng.
Tưởng Nam Sinh đau lòng nhìn Hoàng hậu, đau đớn nhắm mắt lại.
Chốc lát sau, Hoàng hậu mới từ từ ngẩng đầu lên, đáy mắt hiện lên tia máu đáng sợ: “Ta vốn nên có đích tử… ta vốn nên có…”
Bà lão im lặng một lúc, gật đầu và nghẹn ngào nói, “Đúng vậy, lẽ ra người sẽ có hài tử, nhưng cho dù bệ hạ sủng ái người, người cũng sẽ không bao giờ có hài tử...”
“Tại sao?” Hoàng hậu đột ngột lớn giọng hỏi.
Bà lão ngước nhìn đôi mắt u ám của nàng ta: “Bởi vì, trước khi Trân phi nương nương sinh đã đoán được người sẽ hạ độc nàng ấy, vào ngày sinh, người ở trong phòng sinh, để trả thù, nàng ấy cố tình kéo người lại nói chuyện, giả vờ hứa sẽ đưa đứa bé cho người nuôi dưỡng, thừa dịp người không để ý, nàng ấy đã nhét một ít nghệ tây vào túi thơm mà người thường mang theo mình, cái túi thơm đó là hoàng thái hậu năm ấy ban tặng, người rất quý trọng nó, cho tới bây giờ vẫn giữ lại...”
Hoàng hậu vừa nghe xong thì mắt đột nhiên trừng lớn, lập tức tháo chiếc túi thơm ở eo mình xuống, đây là một chiếc túi thơm đinh hương, tay nghề không được tinh xảo, nhưng lại là do hoàng thái hậu tự tay làm, chỉ vì hoàng thái hậu từng cầu phúc ở chùa Đại Báo Ân, bỏ vào bên trong một tượng Quan Âm ban con cái, nói là phù hộ nàng ta sinh được đích tử.
Hoàng hậu vì chấp niệm đích tử mà làm tất cả, thế nên trong nhiều năm như vậy, nàng ta luôn đeo bên mình, ngày đêm không rời, ngay cả khi Hoàng đế không sủng ái mình, nàng ta vẫn kiên quyết mang theo chiếc túi thơm này bên mình, như thể tìm kiếm một nơi nào đó an ủi cho tâm hồn phiêu bạt của mình.
Hoàng hậu vội vàng gỡ chiếc túi thơm đó ra, thì thấy bà lão mệt mỏi khuyên nhủ.
“Nương nương không cần gỡ nữa đâu, bấy nhiêu năm nay thân thể nương nương vẫn không tốt hơn, chẳng phải đã rõ ràng rồi sao?”
Lời bà lão nói chẳng khác nào cắt đứt sợi dây cứu mạng cuối cùng của Hoàng hậu, khiến tinh thần nàng ta sụp đổ, nàng ta trượt khỏi ghế, ôm mặt khóc lớn.
“Hài tử của ta… hài tử của ta…”
Năm đó nam thai kia đã thành hình, là ma niệm trú ngụ sâu trong tim nàng ta, hơn mười năm rồi, nàng ta chưa từng phút nào quên.
“Bệ hạ...” Nàng ta bò lên phía trước níu lấy vạt áo Hoàng đế, nước mắt giàn giụa, vẻ mặt thương tâm.
“Bệ hạ, đúng là ta đã hại Trân phi, nhưng ả cũng đã hại ta, bấy lâu nay thân thể thần thiếp ốm yếu triền miên, lẽ ra nếu không phải vì ả thì cơ thể thần thiếp đã bình phục từ lâu rồi, bệ hạ cũng sẽ không nỡ lòng xa lánh thần thiếp như vậy...”
“Là ả Trân phi kia, ả hại bệ hạ ngồi trên ngai vàng hơn mười năm mà không có đích tử, đều là lỗi của tiện nhân kia…”
Nàng ta đau khổ ôm chặt lấy góc áo của Hoàng đế mà khóc lóc kể lể, song lại thấy nam nhân cao lớn vĩ đại lạnh lùng giật mạnh góc áo ra, liếc mắt cười lạnh:
“Hoàng hậu, rốt cuộc ngươi cũng chịu thừa nhận chính ngươi đã hại Trân phi!”
Hoàng hậu vừa nghe xong bỗng chốc ngừng khóc, thân thể cứng đờ, kinh hãi đột nhiên tụ lại trong mắt, rồi lại dần dần vơi đi như nước thủy triều rút xuống, chỉ còn lại sự tuyệt vọng và suy sụp.
Bỗng nhiên, nàng ta mở chiếc túi thơm ra, nào có thấy nghệ tây, chỉ thấy tượng Quan Âm nhỏ mà năm xưa cô cô tặng nàng ta.
“Các ngươi... các ngươi gạt ta?” Nàng ta ôm chiếc túi thơm, hét khàn giọng.
Hoàng hậu nhìn thấy ánh mắt bình thản của Hoàng đế và bà lão mới bừng tỉnh, những lời vừa rồi của bà lão chính là để dẫn dụ nàng ta tự thú.
Không có bằng chứng, chỉ dựa vào lời buộc tội của một người, lý do phế hậu vẫn chưa đủ, trừ khi nàng ta thừa nhận mình là kẻ giết người, là thủ phạm gây ra thảm họa cung đình đó...
Cát trong đồng hồ cát ở góc tường vô tư chảy xuống.
Thái Hoàng Thái Hậu nhìn sắc trời tối đen như mực ngoài điện, từ từ thở dài một hơi.
Vở kịch này, bà dàn dựng nửa đầu, chưa nắm chắc phần thắng, không ngờ lại để Hoàng đế tiếp quản nửa sau, dễ dàng ép Hoàng hậu nhận tội.
Trái tim của đế vương này, ngay cả lão tổ mẫu là bà cũng không thể nhìn thấu.
Chàng đã mua chuộc bà lão kia từ khi nào? Trước khi vào cung hay là sau khi vào cung?
Nhưng chuyện này không còn quan trọng nữa, điều quan trọng là, đêm nay phế hậu là chuyện đã định, vậy thì làm sao bà có thể ngồi dưới trướng của chàng để kiếm cho Thẩm gia ngôi vị Hoàng hậu chứ?