Giữa tháng mười, năm Nguyên Hữu thứ năm, hai nước Dục, Kỳ giao chiến nhiều ngày, binh lực tương đương, tổn thất vô số, máu chảy thành sông.
Đầu tháng chạp, năm Nguyên Hữu thứ năm, hai nước Dục, Kỳ chiến sự liên miên, khói lửa nổi lên bốn phía, dân chúng lầm than, lá rụng nơi đầu đường cuối ngõ, thê lương cực kì.
Đầu tháng giêng, năm Nguyên Hữu thứ sáu, Kỳ Tuyên đế huỷ bỏ thông lệ tuyển tú ba năm một lần, cẩn trọng xử lý chính sự, tránh xa nữ sắc, tới gần hiền thần.
Hạ tuần tháng tư, năm Nguyên Hữu thứ sáu, chiến sự lửa sém lông mày, Kỳ Tuyên đế lĩnh hơn mười vạn tinh binh đích thân ra trận, sĩ khí tăng vọt, tin thắng lợi bay về.
Giữa tháng tám, năm Nguyên Hữu thứ sáu, mấy năm liên tục chinh chiến, người chết vô số, lụa trắng phiêu phiêu, cử hành quốc tang, nhạc buồn khắp chốn.
Ta ở Không Minh đường đã một năm ba tháng, làm đệ tử tục gia của sư bà Tĩnh Tuệ, được đặt cho danh hào Tĩnh Tâm. Nay ta chính như tên này, tâm ma tiêu trừ, không hề quyến luyến hồng trần thế tục.
Từ lần đó rời đi, Kì Hữu không đến Không Minh đường nữa, cũng không tìm sư bà Tĩnh Tuệ. Ta biết mỗi ngày trong triều đều bộn bề việc chiến sự, chàng giải quyết không kịp, cộng thêm nỗi thất vọng về ta, xem ra lần này thật sự muốn từ bỏ ta. Trong lòng ta vui mừng, có lẽ chàng đã nghĩ thông suốt, không còn quá áy náy nữa. Hoa Tịch và Mộ Thiên vẫn thường xuyên đến đây thăm ta, ta đều đóng cửa không gặp, nếu thật sự muốn dứt đoạn hồng trần, ta không nên tiếp tục liên hệ với người trong nhân thế.
Ta đã hứa với sư bà Tĩnh Tuệ, đợi Kì Hữu thống nhất thiên hạ xong, ta sẽ cạo phần tóc đen còn lại. Xoa xoa mái tóc chạm vai, cảm giác lạnh lẽo mềm mại quanh quẩn trong lòng bàn tay, nửa năm trôi qua, tóc đã dài thêm đôi chút.
Việc triều chính, phải sau một năm sư bà Tĩnh Tuệ mới đề cập lại với ta, bởi khi đó lòng ta đã tĩnh lặng hơn nhiều, lắng nghe chuyện thế gian, ta không xúc động hay bồi hồi như trước nữa.
Vết thương xưa cũ đã trở nên nhạt nhòa, mỗi khi nhớ lại không còn đau thấu tim gan, ta có thể cười tươi như xem một vở kịch.
Cánh nhạn cô đơn liệng trên nền trời xanh biếc, khói nhẹ lượn lờ bao phủ sườn núi cao. Ánh nắng đỏ lúc chiều tà chiếu rọi ngày mùa thu càng thêm buồn bã.
Hôm nay là ngày quốc tang, ta cùng sư bà Tĩnh Tuệ đi lên Diêu Lãm sơn, nhìn cảnh sắc Kim Lăng thành thê lương phía xa xa, sư bà Tĩnh Tuệ lã chã rơi nước mắt, "Thiên hạ phân tranh, dân chúng có tội tình gì?"
"Sư phụ vẫn chưa chân chính làm được cái gọi là "Nhìn thấu hồng trần" của nhà Phật, trái tim người còn vướng bận giang sơn." Mần đếm tràng hạt, ta cười nhẹ cảm thán.
Nước mắt rơi trên khuôn mặt già nua, bà không nâng tay lau, để mặc nó chảy dài, "Tĩnh Tâm, con có trách vi sư không?"
"Sao sư phụ lại nói vậy?" Ta khó hiểu, nhìn bà bằng ánh mắt nghi hoặc.
"Năm đó con bước vào Không Minh đường, tự xưng là Nhã phu nhân, bần ni đã tính khuyên con xuất gia. Là bần ni ích kỷ, hy vọng con rời xa Hoàng Thượng, thậm chí... Ngay lần đầu gặp, bần ni đã nhận định con là hồng nhan họa thủy hại nước hại dân." Bà áy náy cúi đầu nhìn tràng hạt trong tay, tiếp tục nói, "Nhưng ở chung một thời gian dài, vi sư mới phát hiện, lúc trước giật dây con xuất gia quả là sai lầm. Con vốn có tuệ căn nhà Phật, bản tính lại thiện lương, chỉ cần được cởi bỏ khúc mắc là có thể trở thành một hoàng hậu tốt, mẫu nghi thiên hạ, kề vai sát cánh giúp đỡ Hoàng Thượng."
Nghe được lời này, ta thản nhiên cười, "Sư phụ cho rằng, nếu Tĩnh Tâm thật sự buông bỏ thù hận, còn có thể đồng ý lên ngôi hoàng hậu nữa sao? Không, vị trí hoàng hậu con chưa bao giờ thật lòng muốn, con chỉ muốn một cuộc sống bình thường, một tình yêu trong sáng. Hoàng Thượng không cho con được thứ ấy, vậy nên chúng con phải rời xa nhau, tương tư hai phía. Đây là mối tình đầy tiếc nuối, nhưng tiếc nuối cũng là một kỉe niệm đẹp, không phải sao?"
"Con đã hiểu thật rồi." Bà ngẩng đầu, rung rưng nhìn ta, "Tĩnh Tâm, thế nước lúc này như mành chỉ treo chuông, nếu không phải Kỳ Quốc tự lụi tàn, thì sẽ là bị Dục Quốc tiêu diệt."
"Sư phụ, người mong Kỳ Quốc thắng phải không?"
"Con không mong vậy sao?"
"Thân là con dân Kỳ Quốc, đương nhiên hy vọng quốc gia của mình có thể xưng bá, nếu Kì Hữu thống nhất thiên hạ, dân chúng sẽ không còn vây trong cảnh lửa bỏng nước sôi. Nhưng liệu sư phụ có dám nói, hoàng đế Dục Quốc không phải hoàng đế tốt? Nhớ rõ chín năm trước, lãnh thổ Dục Quốc còn rất nhỏ, binh lực chỉ coi là tương đối mạnh. Mà nay Dục Quốc, từ lúc Liên Hi đăng cơ, ngắn ngủn hai năm đã thâu tóm Hạ Quốc, mạnh ngang Kỳ Quốc. Người nói, nếu hoàng đế Dục Quốc không phải hoàng đế tốt, sao có thể dẫn dắt quốc gia tới thời kì hoàng kim hưng thịnh như vậy? Liệu người có dám nói, nếu Liên Hi thống nhất thiên hạ sẽ làm kém hơn Kì Hữu hay không?"
Ánh mắt sư bà Tĩnh Tuệ sâu thẳm nhìn ta, cảm xúc thay đổi liên tục khiến ta khó hiểu. Thật lâu sau, bà mới thu tầm mắt, "Con còn nhìn thấu hơn vi sư." Bà thở dài một tiếng, bước lên mấy bước, chăm chú nhìn phố phường thê lương. Bên dưới đó, đâu còn bóng trẻ con chơi đùa, đâu còn tiếng rao hàng phấn khởi, đây, chính là nỗi đau chiến tranh mang đến cho thiên hạ.
"Có lẽ vì vi sư không biết hoàng đế Dục Quốc, theo như con nói, có lẽ hắn còn làm tốt hơn hoàng đế Kỳ Quốc, thế nhưng... Trong lòng bần ni đã sớm nhận định, thống nhất thiên hạ, mang yên vui cho dân chúng, chỉ có thể là Nạp Lan Kì Hữu." Lời nói khẳng định, ánh mắt kiên quyết làm rung động lòng ta, ta biết, sư bà Tĩnh Tuệ luôn yêu thương Kì Hữu, thậm chí coi chàng là con ruột của mình.
Kì Hữu đáng giận, nhưng cũng rất đáng thương, nửa đời chàng gần như không có vui vẻ, tâm nguyện của chàng là thống nhất thiên hạ, bù đắp những ăn năn vì soán vị, giết mẹ giết cha. Chàng phải dùng hành động để nói cho phụ hoàng mẫu hậu biết, chàng là hoàng đế tốt, cho dù sau trăm tuổi chia lìa nhân thế, cũng có thể xuống suối vàng đối mặt hai người.
Mà Liên Hi, tài năng đế vương của hắn sinh ra từ thù hận.
Hắn muốn thống nhất thiên hạ để báo thù cho Liên Thành, san bằng Kỳ Quốc, giết ta và Kì Hữu. Riêng điểm ấy, tấm lòng hắn đã không rộng lớn bằng Kì Hữu, hắn chỉ vì hận, mà Kì Hữu vì cả thiên hạ.