Mười Một, Mười Hai, Mười Ba
Lâm Gia Thái Bảo
---
Khu rừng chỗ Miếu Bà Chúa Xứ ngày thường đã thập phần âm u ma quái tựa như cái nhà xác khổng lồ, lúc này bỗng như biến thành chốn âm tào địa phủ, khi phía trên là tán lá rậm rì che gần hết ánh sáng, chỉ chừa được chút màu vàng nhạt tỏa lên hai thân hình to lù lù, phần thân là một thứ gì đó đen sì không nhìn rõ được làm nổi bật lên cái đầu trâu và một khuôn mặt ngựa, cái nào cũng có cặp mắt lồi ra rất to.
Người nam vừa thoáng thấy, chẳng nói chẳng rằng chụp miệng người nữ kéo vào một gốc cây bàng rất to mọc kế bên, thì thầm: “Suỵt! Đúng là bọn chúng rồi, đừng để nó phát hiện được!”
Cu Gạo lắc lư thân hình như cọng rong biển, đứng nép mình giữa hai con quái vật gớm ghiếc. Đầu Trâu nhìn nó chằm chằm, xong rồi cả hai quay lưng đi vào trong, tức thì Cu Gạo lắc nhẹ người, đi theo, đến trước cửa miếu, Đầu Trâu Mặt Ngựa đi vào rồi đến lượt thằng nhóc. Bình thường cái miếu đủ chỗ cho bốn người bình thường đứng, nhưng với thân hình to lù lù cao dễ gần gấp rưỡi người thường của Đầu Trâu Mặt Ngựa, khó mà đứng thoải mái trong miếu được, chẳng biết dẫn vào đó để làm gì?
Người nam khuôn mặt bình thường đã như Hộ Pháp, ấy vậy mà bây giờ lộ rõ vẻ hồi hộp lo sợ, mồ hôi ướt cả cổ áo. Anh ta ghé mắt qua kẽ lá, trông thấy rõ ràng hai cái đầu quái đản kia đi vào trong. Đợi chừng năm phút không thấy động tĩnh gì, khuôn mặt anh ta mới giãn ra được một chút, tay đang bịt miệng người nữ cũng lơi lỏng ra, cô gái ho sụ sụ mấy tiếng nhưng ráng che lại, gằn giọng: “Anh làm cái gì vậy Mười Hai?”
Người có tên Mười Hai này có chút bối rối: “Xin lỗi Mười Ba, lúc nãy tôi có chút hấp tấp...”
“Không sao đâu, anh làm vậy là đúng mà.”
Mười Hai vuốt mồ hôi trán, thở dài: “Cỡ anh Mười Một còn bị chúng hãm hại kia mà, anh đâu thể nào lơ là được.”
“Giờ mình làm sao anh?”
Mười Hai xem đồng hồ, anh lẩm nhẩm gì đó rồi nói: “Bọn chúng sẽ hành động trong đêm nay. Tin báo về là tám giờ tối. Chúng ta có mười tiếng. Bây giờ anh sẽ thám thính bọn chúng, em quay trở lại làng, tìm xem trong làng có thêm tung tích gì của Mười Một hay không, với lại nếu em ở đây với anh sẽ không có ai bắn tin về, khó khăn lắm mới vượt được ma trận của bọn nó. Nhớ phải tuyệt đối cẩn thận!”
“Em rõ rồi!” Mười Ba nói xong thì lặng lẽ quay người lại, bước chậm chậm về làng, không quên thay cái áo khoác ngoài để giống với một bà bán cá. Mười Hai đợi cho Mười Ba đi khuất mới chầm chậm bò đến mé trái của miếu. Không gian im lặng, thậm chí còn không nghe tiếng chim hót hay thú rừng đi lại, Mười Hai phải thận trọng hết sức để không gây ra tiếng động. Anh dùng một tròng kính mát làm gương soi, đưa một phần quay vào miếu để thám thính bên trong. Trống không. Chỉ có bức tượng đá Bà Chúa Xứ đen bóng quấn tấm vải đỏ nhăn nhúm. Mười Hai đảo tròng kính qua lại quan sát khắp miếu. Vẫn không thấy gì khác. Anh ngồi thấp, rút trong người ra một cây dao găm, có thể thấy dưới lớp áo sơ mi khoác ngoài thấp thoáng một khẩu súng ngắn. Mười Hai bước vào miếu, hai tên quái vật kia thực sự đã biến mất!
Mười Hai không dám thở mạnh, rõ ràng lúc nãy anh thấy bọn chúng vào miếu này, bây giờ biến mất chỉ có thể là do có thông đạo. Anh thận trọng xem dưới nền đất, không có dấu gì khác. Mười Hai không bỏ cuộc, anh lấy trong người ra cây nến, như để chuẩn bị cho tình huống này, anh đốt nến, rà sát dưới bệ thờ tượng bà. Ánh lửa dao động nhẹ, chứng tỏ bên dưới bệ là thông đạo, có điều cơ quan mở thông đạo nằm ở đâu? Mười Hai nhìn ngay lên tượng bà. Tấm vải nhăn nhúm này có thể là chìa khóa. Anh kéo nó lên, nhìn xung quanh thân tượng, lập tức phát hiện ra điều bất thường. Miếu hoang vắng như vầy thì tượng phải bị phủ một lớp bụi, nhưng phần hông bức tượng có vết bóng mờ không bám bụi, rõ ràng có người dùng hai tay đặt vào, tư thế đó chỉ có thể là xoay bức tượng. Mười Hai làm theo, quả nhiên vừa xoay nhẹ tượng đã chuyển động, phần bệ thờ được nâng lên lui về sau một chút, để lộ phần lối vào thông đạo nằm ngay bên dưới. Lối đi vừa đủ cho một người, bên dưới là những bậc cầu thang đá lấm tấm xanh màu rêu, một mùi ngai ngái xộc lên...
Mười nói thầm, như để động viên chính bản thân mình: “Anh Mười Một, tôi đến cứu anh đây!”
Mười Hai vừa đặt chân xuống cầu thang, nơi đuôi mắt anh thấy có thứ gì đó di chuyển bên ngoài cửa miếu, có hình dáng một cái đầu trâu mắt lồi...
-0-
Thằng Xí đột nhiên thấy tâm trí bình thản đến lạ. Nó cảm giác mọi chuyện chẳng còn gì đáng sợ nữa, đây là cảm giác của người sắp chết hay sao? Nó thấy xung quanh im lặng, chỉ có một màu trắng đục tựa như sương tháng Tết bủa vây khắp nơi. Nó đứng dậy, bước đi mà chân nhẹ như không, da thịt không còn cảm giác nữa. Khắp nơi toàn một màu trắng, thằng Xí không thấy lạ lẫm, không thấy sợ hãi, chân bước mà cứ tưởng như đi trên đất bằng, quen thuộc vô cùng.
Đột nhiên khắp nơi vang lên tiếng súng, súng nổ rất lớn, rất nhiều, ánh lửa lóe lên khắp nơi, không có tiếng ai kêu gào cả, chỉ có tiếng súng và mùi khói thuốc, cay nồng, hăng hắc xộc lên mũi.
Xí choàng tỉnh. Nó thở gấp tựa hồ như mới ngoi lên khỏi hồ nước tử thần, tính mạng vừa mới được cướp về từ tay thần chết. Trái lại với giấc mơ đó, khi tỉnh dậy, nó thấy hoang mang, tâm trí không thể bình tĩnh được, cảm giác cứ như cuộc đời của nó vừa bị một cú tát từ số phận. Xí đứng dậy, chạy ngay vào làng.
Sự rối loạn tâm trí dần bị thay thế bởi một cảm giác lạc lõng nơi cuối đường hầm mà trớ trêu thay, chính những chuyện ma quái xảy ra ở xã Trạm Phèn lúc này lại là ánh sáng dẫn đường. Nó cần phải tìm ra chuyện gì đang diễn ra! Có một manh mối hoặc là do Xí cho rằng đó là manh mối, chính là cái kho báu và hang động mà Cu Gạo đã nói, nó phải tìm ra nơi đó.
-0-
Quỳnh Hương quỳ thụp xuống ngay cửa sổ, khóc nức nở khi thấy cảnh tượng mấy bà trong xóm đang hành xử vô cùng kỳ lạ, trông chẳng khác gì bầy chó đang sủa cả. Khải bán tín bán nghi, nhìn cảnh tượng kỳ lạ đó thì trong lòng không tránh khỏi tò mò mới đẩy cửa bước ra, Quỳnh Hương cản lại không kịp, chỉ kêu mấy tiếng, “Anh Khải! Anh Khải!” rồi đứng nép sau cửa chính.
Khải ra sân, quát: “Mấy bà làm cái gì vậy? Bị khùng hả?”
Đột nhiên, những bà hàng xóm ngưng “sủa”, đồng loạt quay mặt qua nhìn Khải làm anh ta nhũn ra như con chi chi. Ánh mắt đó đích thị là đã hóa dại, tuy vẫn còn mặt mày bình thường, nhưng môi xếch lên lộ cả nướu, má phồng, gầm gừ, nhiểu đầy dãi nhớt. Khải chột dạ, bước lui mấy bước, mấy bà hàng xóm cũng tiến đến gần, bao vây anh ta, định nhảy qua hàng rào bông bụt mà cắn cổ xé xác Khải hệt như cách bầy chó hoang. Khánh vừa định quay lưng bỏ chạy đột nhiên hệ thống loa truyền thanh trong xã đồng loạt réo vang, âm thanh rè rè, đinh tai nhức óc vô cùng, kỳ lạ là đám “chó người” khi nghe âm thanh ấy, đột nhiên chuyển trạng thái, rên lên ư ử, vụt bỏ chạy.
Khải tuy thấy tình hình căng thẳng vừa trôi qua nhưng trong lòng đã bị hù sợ gần chết, anh ta chạy vào trong, kéo sập cửa lại, thở hổn hển. Quỳnh Hương mếu máo: “Có chuyện gì vậy anh?”
“Anh không biết... Nó... Nó là cái gì... Nhưng rõ ràng cái xã này không ổn thật rồi!”
“Bây giờ làm gì anh? Còn ba em... Ba em không biết có bị gì không nữa...”
Bên ngoài tiếng loa truyền thanh réo càng lúc càng dữ dội, không thể nghe thấy gì khác, Khải phải la lớn mới nghe được: “Cứ ở đây thêm một lúc nữa, xem tình hình thế nào rồi mới tính được, bây giờ mà ra ngoài trong lúc rối loạn còn nguy hiểm hơn đó em! Chú Tư không sao đâu!”
Bụp. Một tiếng nổ đanh gọn vang lên, nghe qua thì giống như là nổ bình điện, nhưng dường như không phải, vì xã này chỉ có một đường dây, lúc này trong nhà Quỳnh Hương đèn và quạt vẫn bình thường. Loa không dây im bặt. Khải ghé mắt qua khe cửa, ngoài đường vắng hoe, cảm giác như một thị trấn ma trong phim vậy.
Quỳnh Hương hoảng loạn, tay bấu chặt tay Khải, khóc: “Anh ơi em sợ...”
Khải cố trấn an: “Em đừng sợ, có anh đây, có anh đây...”
Loạt soạt. Là tiếng động bên hè. Quỳnh Hương kêu “Á” một tiếng: “Hồi nãy, hồi nãy ông hàng xóm, bơi dưới ao, nhìn ghê lắm, có khi nào...”
“Bình tĩnh đi em, chưa gì mà em sợ vậy có khi còn hù chết người đó!”
“Tắc bà nội mày!”, Khải mắng, “Mày còn dám giỡn mặt tao hả?”
Thằng Xí nghe lụp cụp trên mái nhà, biết chắc rằng là ông Tư, nó chỉ tay: “Là ổng đó, là ổng đó!”
Khải dường như chịu hết nổi, vung tay đấm vào mặt Xí, nó né ngon hơ, tuy vẫn còn bần thần run rẩy, nhưng phản xạ nó một lần nữa lại vô cùng tinh nhạy trước đòn tấn công bất ngờ kia. Quỳnh Hương nãy giờ đứng trong góc nhà, kế bên cửa buồng và bàn thờ, khóc mếu máo. Đột nhiên vai cô thấy ướt, có thứ gì đó nhiểu xuống, Quỳnh Hương đưa mắt nhìn lên, sau tấm rèm sáo cửa buồng, ông Tư trồi cái mặt có hai con mắt lồi to như cái đèn pin ra ngoài, lưỡi trong chốc lát đã quấn cổ Quỳnh Hương làm cô bất ngờ đến không kịp hét.
Khải giật mình thấy quả nhiên ông Tư đã biến thành con tắc kè, anh chưa biết nên xử trí thế nào, ai dè thằng Xí vô cùng nhanh chân, lao đến chụp lấy cái ấm trà bằng sứ, đập bề, tay cầm mảnh sành lao đến vừa kịp lúc ông Tư lôi Quỳnh Hương đi, nó cắt phăng cái lưỡi, máu phún ra nhuộm đỏ cả một mảng tường lớn, vừa nóng vừa hôi.
Thằng Xí dường như trở thành một con người khác, nó lầm lì, chụp tay Quỳnh Hương lôi đi ra khỏi cửa, Khải ú ớ đuổi theo.
Quỳnh Hương tuy tim vẫn còn đập như trống đình, nhưng trong lúc bị Xí kéo đi, Quỳnh Hương thấy được ở cổ của Xí có một con số, là số La Mã, được tạo bởi vết cắt để lại thẹo. Là số XI.