*Quan huyện không con: nguyên văn là "Đơn phụ tễ" (Quan huyện là người cha cô đơn). Ngày xưa quan lại thường được gọi là "dân chi phụ mẫu” (cha mẹ của dân), quan huyện này gặp phải việc hai người con thiến cha nên nói như vậy. Chữ Đơn (Đan) còn có một âm là Thiện, "Thiện Phụ”, lại là một huyện cũng trong tỉnh Sơn Đông, nên ba chữ trên còn có nghĩa là "Quan huyện Thiện Phụ”, ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được.
Huyện ta có Vương sinh, cưới vợ được hơn tháng thì bỏ vợ, người cha vợ kiện lên quan. Lúc ấy ông Tân làm Tri huyện huyện Truy, hỏi Vương vì sao bỏ vợ, Vương đáp là không thể nói được. Hỏi mãi mới đáp rằng “Cô ta không thể sinh nở". Ông Tân nói "Nói bậy! Mới cưới hơn một tháng, làm sao đã biết là không thể sinh nở". Vương ngượng nghịu hồi lâu mới đáp "Vì chỗ kín của cô ta méo". Ông Tân phì cười nói "Té ra là vì méo mó nên trong gia đình không êm thắm"*. Đây cũng là một chuyện nên chép lại cùng chuyện Quan huyện không con để cười vậy?
* Té ra... êm thắm: nguyên văn là "Thị tắc thiên chi vi hại, nhi gia chi sở dĩ bất tề dã". Tề gia (sắp xếp việc nhà cho êm đẹp) là một trong những nhiệm vụ của người quân tử theo quan niệm Nho giáo, đây quan huyện chơi chữ, đem chữ tề đối với chữ thiên.