Thẩm Ngôn lắc đầu nguầy nguậy: "Điên rồi sao mà dám cùng người Mông Cổ chơi trò đụng rượu? Anh có tin không, tôi dám cá là thằng nhóc cháu trai bốn tuổi của Bayaer cũng có thể đụng ngã anh luôn đó."
"Ha ha ha ha!"
Mọi người xung quanh nghe thế liền cười vang một trận. Cả nhà của Bayaer không biết rõ bọn Thẩm Ngôn nói cái gì, nhưng thấy bọn họ cười rộ lên bèn ngây ngô cười theo.
Đúng lúc ấy, cậu con trai của Bayaer lại đứng lên, nói vài câu với Thẩm Ngôn.
Thẩm Ngôn nghe xong liền hào hứng mỉm cười vỗ tay, gật đầu với anh chàng nọ rồi quay sang phiên dịch cho mấy người cạnh bên nghe: "Cậu ta muốn hát tặng nhóm chúng ta một bài."
"Được thế thì còn gì bằng!”
"Hoan nghênh hoan nghênh! Có rượu có thịt, bây giờ có cả âm nhạc nữa thì còn gì sướng hơn."
Mấy thành viên vui vẻ vỗ tay, lao nhao reo hò.
Cậu trai nọ chạy đến bên đám ngựa, cầm một cây đàn đầu ngựa (1) đi tới. Sau khi ngồi xuống cậu ta bèn chỉnh vài dây lại cho chuẩn thanh âm, sau đấy hắng giọng rồi bắt đầu một bên kéo đàn, một bên cất tiếng hát vang.
Bởi vì cậu ta hát bằng tiếng Mông Cổ nên ngoại trừ Thẩm Ngôn, những người còn lại đều nghe không hiểu. Nhưng âm nhạc vốn là cầu nối mọi người với nhau. Trong âm nhạc không có cách biệt cùng trở ngại, không phân dân tộc, không phân loại ngôn ngữ.
Mọi người nhắm mắt lại cảm thụ, vừa nhẹ nhàng lắc lư thân thể, vừa vỗ tay theo tiết tấu du dương vang lên từ tiếng đàn của cậu trai kia.
Cậu con trai của Bayaer hiển nhiên chưa từng học qua bất kỳ trường lớp chuyên ngành âm nhạc ca hát nào, nhưng dường như cậu ta có được bản năng ca múa trời sinh.
Có lẽ bởi vì dân tộc thiểu số không có quá nhiều sự ràng buộc cũng như chế độ khắt khe về lễ nghi lễ giáo, vì vậy bề dày văn hóa của bọn họ có hơi kém so với người dân ở vùng trung nguyên, nhưng chỗ tốt là nhờ thế mà tính cách của bọn họ cởi mở hơn nhiều, đây là điểm mà người dân tộc Hán có dùng ngựa đuổi cũng không cách nào theo kịp.
Hầu như mỗi người dân tộc thiểu số đều có thể nhảy múa ca hát cực kỳ tốt. Bọn họ trời sinh đã có năng khiếu trong việc dùng loại phương thức này để diễn đạt nội tâm cảm xúc của chính mình.
Cậu trai kia hát dứt lời, mọi người liền ra sức vỗ tay reo hò, cảm thấy tiết mục mới rồi thật là đặc sắc.
Tống Đan Đan sung sức mười phần: "Người ta đã làm mẫu hát trước một bài rồi kìa, nhóm chúng ta không uống rượu nổi thì cũng không thể để mất mặt trong lĩnh vực này được. Chúng ta cũng nên ra đáp lễ một bài đi, người nào xung phong hát trước đây?"
Mọi người nghe vậy liền không tự giác quay đầu nhìn về phía Đông Lỵ Á cùng Cổ Lệ Na Trát, hai nàng đều là mỹ nhân đến từ dân tộc thiểu số, vốn nổi tiếng hát hay múa giỏi.
Đông Lỵ Á thấy vậy bèn vội khoát khoát tay, mỉm cười nói: "Em với Na Trát đúng là được sinh ra ở Tân Cương, thế nhưng tài nghệ không bằng ai, thật sự không dám ở trước mặt bằng hữu Mông Cổ mà tự bêu xấu, quá mất mặt rồi."
Tống Tổ Nhi hào hứng nói: "Thẩm Ngôn ca, anh lên đi, lúc trước anh biểu diễn ảo thuật em còn chưa được xem đã thèm đâu."
"Đúng rồi, Thẩm Ngôn mau lên biểu diễn đi!"
"Thẩm Ngôn, nhất định cậu không được làm mất mặt anh đâu đấy!"
Mọi người tóm được một ‘con cừu xấu số’ bèn ra sức vỗ tay cổ vũ hắn, Thẩm Ngôn cười cười, không để ý tới bọn họ. Hắn cũng không làm màu từ chối, đã đề cử rồi thì cứ biểu diễn vậy.
Thẩm Ngôn đi đến bên người cậu trai trẻ kia, dùng tiếng Mông Cổ nói mấy câu, sau đấy nhẹ nhàng cầm lấy cây đàn đầu ngựa của cậu ta.
Cậu trai nọ và gia đình Bayaer nghe xong liền có vẻ rất cao hứng, con trai trưởng của Bayaer đem một túi da chứa đầy rượu sữa ngựa giơ lên, lần này Thẩm Ngôn không cự tuyệt, hắn trực tiếp cầm lấy cái túi, ngửa đầu uống một hớp lớn.
Rượu sữa ngựa màu trắng theo khóe miệng của hắn chảy tới chỗ vạt áo. Thẩm Ngôn tiện tay lau đi, thế nhưng trông dáng vẻ không hề chật vật hay lôi thôi chút nào, ngược lại còn có một loại cảm giác thoải mái phóng khoáng.
Chứng kiến cảnh này, ánh mắt của Đông Lỵ Á, Lưu Sư Sư, Cổ Lệ Na Trát cùng Tống Tổ Nhi đều không tự chủ được lóe sáng lên.
"Thẩm Ngôn, em nói gì với nhà Bayaer thế?"
"À, em bảo mình muốn mượn cây đàn của bọn họ một lúc, tặng lại cho nhà Bayaer đại thúc một ca khúc ấy mà."
"Ồ, được đấy, cậu nhóc này thiệt là toàn năng, thế em định hát bài gì vậy?"
"« Nhạn Đỏ »."
Thẩm Ngôn trở lại vị trí ngồi ban nãy, đem đàn đầu ngựa ôm vào trong ngực.
"Cậu còn có thể đàn được luôn hả?" Lôi Gia Âm ngạc nhiên hỏi.
Thẩm Ngôn không trả lời, chỉ cúi đầu tập trung chỉnh lại thanh âm cho phù hợp với bản thân. Sau đó đưa tay nhẹ nhàng kéo dây đàn.
Giai điệu nhu hòa mà du dương tức khắc vang lên. Tất cả mọi người im lặng nhìn Thẩm Ngôn. Trong giai điệu duyên dáng ấy, bọn họ chỉ nhẹ nhàng lắc lư thân thể, chỉ có thanh âm ngọn lửa bạo liệt ngẫu nhiên vang động, như thể muốn làm nền cho lời bài hát của đối phương.
“Hồng Nhạn trên bầu trời
Lần lượt bay thành hàng
Nước sông lạnh, cỏ thu héo vàng
Trên thảo nguyên có tiếng đàn ưu thương
Hồng Nhạn bay về phương nam
Bay qua bụi cỏ lau
Trời mênh mông, nhạn đi nơi nào
Trong lòng là quê hương xa xa nơi phương bắc
Trời mênh mông, nhạn đi nơi nào
Trong lòng là quê hương xa xa nơi phương bắc
Uống cạn rượu thì ta lại rót đầy
Đêm nay không say không về…"
Giọng hát của Thẩm Ngôn vốn mượt mà nhẹ nhàng mà khoan khoái, nhưng giờ phút này thanh âm của hắn lại khác hẳn. Vừa khàn khàn vừa pha chút tang thương, nhất là khi hắn hát đến đoạn "Uống rượu vơi, lại rót đầy. Tối nay không say không về" thì thanh âm lại càng vỡ òa. Giọng hát gần như gào thét biến thành cái gai nhọn đâm vào trong tim, khiến cho trong lòng mỗi người hằn lên từng đạo vết thương, da đầu của bọn họ cũng căng lên, toàn thân bất giác run rẩy, đầu ngón tay cũng không rõ từ khi nào mà trở nên tê dại.
- ---
(1) Nhắc tới đàn đầu ngựa thì chợt nhớ tới câu chuyện này, mình nghe kể từ lâu rồi, lúc đầu nhìn còn sốc vì nghĩ đàn đầu ngựa là người ta thật sự chặt lấy đầu con ngựa xuống để làm vật trang trí cây đàn, sau này đọc tích xưa thì mới biết không phải như thế. Nhất là các cây đàn sau này đều được biến tấu làm từ gỗ hết rồi. Chứ nghe bảo một cây đàn đầu ngựa đúng nghĩa có giá đắt đỏ khiếp lắm cơ. Đọc thử cho biết sự tích về cây đàn này mọi người ha.
Trên thảo nguyên mênh mông bát ngát lưu truyền một câu chuyện đẹp. Trên thảo nguyên có một người chăn nuôi yêu ca hát tên là Tô Hòa, anh có một con ngựa trắng với bộ lông bóng mượt như nhung, tiếng hý êm tai như chuông bạc. Tại một cuộc đua ngựa, con ngựa trắng của anh đã đoạt giải nhất, nhưng vương gia độc ác đã cướp đi con ngựa trắng của anh. Con ngựa trắng nhớ chủ nhân Tô Hòa, một hôm tìm được cơ hội làm tuột dây cương chạy thoát, không may bị trúng tên độc của vương gia. Anh Tô Hòa đau buồn tột đỉnh, ngày đêm ở bên cạnh ngựa trắng, tiếng hý của ngựa trắng lúc nào cũng vang vọng bên tai anh. Sau khi con ngựa trắng chết, anh Tô Hòa lấy xương đùi của ngựa trắng làm cần đàn, xương đầu làm hộp đàn, da ngựa làm mặt đàn, đuôi ngựa làm dây đàn, cọc buộc ngựa làm cung đàn, và đã khắc hình đầu ngựa giống như đầu con ngựa trắng trên đỉnh cần đàn, chế tạo ra cây đàn đầu ngựa đầu tiên trên thảo nguyên. Anh Tô Hòa kéo đàn đầu ngựa ca hát, từ đó, trên bầu trời thảo nguyên lúc nào cũng vang lên tiếng đàn đầu ngựa hùng hồn, trầm lắng.
- ---
Chương sau: Quê Hương Và Nỗi Nhớ Quê Da Diết