Trình Thiếu Cung thất vọng: “Còn tưởng Trương Yêu kia một kích tất thắng, hóa ra lại vô dụng đến vậy, tới một hiệp cũng làm không xong.”
Nhắc đến gã phế vật nằng nặc truy hỏi tiểu tiết, Thiếu Thương càng giận: “Đừng nhắc đến gã vô liêm sỉ ấy nữa, chắc chắn lúc này Kỷ đại nhân đang cân nhắc hình phạt cho hắn đấy, nghe Thiện Kiến nói, vô duyên vu cáo trọng thần có chiến công, nhẹ nhất cũng bị cách chức lưu đày.”
“Có nghĩa bây giờ Hoắc Bất Nghi đã bình an? Hầy, Niệu Niệu dã tràng se cát rồi, người ta cũng chẳng cảm kích muội.”
Thiếu Thương dừng bước xoay người lại, cau mày nói: “Thời gian này Tam huynh kỳ quặc thật, đầu tiên vô duyên vô cớ không tán thành hôn sự của muội và Viên Thiện Kiến, đến khi Hoắc Bất Nghi về lại suốt ngày bóng gió xa gần chuyện của ngài ấy. Muội nhớ ngày trước Tam huynh rất sợ ngài ấy mà, dù vô tình gặp phải trên đường cũng vờ không quen mà đi đường vòng.”
Trình Thiếu Cung cười ha hả, vừa nói vừa chạy biến đi: “Niệu Niệu nói gì vậy, hôm nay huynh trưởng thứ huynh đều không ở nhà, huynh là lớn nhất trong nhà, dĩ nhiên phải quan tâm muội muội chứ… Ha ha, ha ha…”
Thiếu Thương trợn mắt nhìn bóng lưng của bào huynh, tiếp tục quay trở về, tới lúc bước vào phòng mình thì hai vai mới xụ xuống. A Trữ nhận ra sự lo lắng của nàng, quan tâm hỏi: “Nữ công tử làm sao thế, mới ra cửa gần nửa ngày mà đã mệt mỏi như vậy.” Bà vừa nói vừa sai Xảo Quả đem cháo lên, còn bảo Liên Phòng đi lấy túi cát nóng để Thiếu Thương chườm đỡ mệt.
Thiếu Thương thở dài: “Chẳng hiểu sao, ta có cảm giác sắp có chuyện không thỏa đáng xảy ra.”
A Trữ nhìn sắc mặt cô gái, hỏi nhỏ: “Là vì Hoắc đại nhân à.”
Một lúc lâu sau, Thiếu Thương mới đáp: “Ừ.”
Khi Hoắc Bất Nghi nắm quyền hành trong tay thì Viên Thận vẫn đang ngủ đông, khi chàng bị lưu đày Viên Thận mới thực sự bộc lộ tài năng trong phương diện chính sự, nhưng xem ra cuối cùng vẫn có khoảng cách, phải là người thực sự vắt hết óc trong chính sự thì mới lĩnh hội được thủ đoạn của đối phương.
Nếu chỉ có lý thuyết là đủ, vậy Hàn Phi Tử tổng hợp chiến thuật và chiến lược của hoàng đế thành hệ thống đã không dễ dàng chết bởi những thủ đoạn của Lý Tư.
Khác với Viên Thận, dẫu gì Thiếu Thương và Hoắc Bất Nghi cũng từng có mấy tháng ở bên nhau, nàng hiểu rất rõ về thủ đoạn tàn nhẫn và hành sự quyết đoán của người này. Có vài lời Hoắc Bất Nghi nói đúng, nếu chàng thật sự muốn bất chấp tất cả, ắt hẳn chỉ có Hoàng lão bá xảo quyệt hơn mới có thể ngăn nổi chàng, đến Thái tử chưa chắc đã có thể – đấy mới là điều khiến người ta tuyệt vọng.
Trên triều đình, Hoắc Bất Nghi là hạ thần dễ dùng nhất của Hoàng đế, nhưng trong chuyện hôn phối, Hoàng lão bá lại rất theo ý Hoắc Bất Nghi, nếu Hoắc Bất Nghi muốn thịt kho tàu, vậy ông sẽ là người đưa nước tương. Chớ nói Hoàng đế sẽ không ngăn cản, ông ấy không cổ vũ khuyến khích là có chí khí lắm rồi.
Phiền não ập đến, Thiếu Thương đành tìm việc làm để bớt suy nghĩ, nàng bèn hỏi mẹ ruột đã cảm hóa Đệ Ngũ tráng sĩ như thế nào rồi, Tiêu phu nhân đắc chí mỉm cười, bày tỏ thắng lợi không còn xa, nếu mọi sự thỏa đáng thì coi như sẽ có sư phụ dạy quyền cước cho xấp nhỏ.
Thiếu Thương lại kính nể vợ chồng Trình Tiêu thêm một bậc, vội hỏi làm như thế nào. Tiêu phu nhân giải thích đơn giản.
Đầu tiên nhốt Đệ Ngũ Thành vào hầm trú ẩn bỏ trống, cho ăn uống nhưng không nói chuyện, để hắn tù túng tới phát điên, sau đó cha Trình lại vào nói chuyện, Đệ Ngũ Thành không giữ nổi lạnh lùng mà la hét om sòm, chửi mắng tổ tiên mười tám đời Trình gia.
Gào thét chửi bới là tốt, giai đoạn đầu tiên thành công mỹ mãn.
Sau đó cha Trình vận dụng bản lĩnh năm xưa từng dụ hương thân tạo phản khởi nghĩa, bắt đầu diễn thuyết, kể rằng năm ấy quan lại ở huyện bên tham lam tàn nhẫn thế nào, thường xuyên ức hiếp ngược đãi bách tính, rồi một hiệp sĩ vô danh từ trên trời hạ xuống, nửa đêm giết sạch quan lại trong nha huyện, không một ai có thể bắt y về quy án, về sau quan mới tới nhậm chức không dám quá đáng nữa.
Sự việc ấy đã khiến quan lại ở các huyện gần làng Trình gia sực tỉnh, thu thuế lao dịch đều có chừng mực, nơm nớp sợ hãi sẽ có ngày cả nhà đang ngủ thì bị giết chết; tiếp đó cha Trình lại nói khi khởi nghĩa quan phủ cũng mắt nhắm mắt mở, giả vờ câm điếc, khi giặc cướp chiến tranh nổi lên tứ phía, bọn họ còn liên thủ với cha Trình để đối phó, quan hệ quan dân vô cùng hài hòa.
“… Dù hồi ấy ta còn bé nhưng đã biết, thực ra không chỉ minh quân hiền thần mới cứu được dân chúng khốn đốn, mà tráng sĩ nhân nghĩa hào hiệp cũng có thể giải vây cứu nạn!” Là người được hưởng lợi trực tiếp, Trình Thủy nói rất cảm động.
“Nghe nói ân sư truyền nghề của Đệ Ngũ tráng sĩ là hiệp khách nổi tiếng tiền triều, từng san bằng sạch bảy ổ cướp nội trong một tháng, chỉ để tìm cháu gái của đôi vợ chồng già bơ vơ không chốn nương tựa; và không để quan phủ tàn sát những thôn trang có vẻ bị nhiễm ôn dịch, dù đã ở tuổi xế chiều ông ấy vẫn rời núi, một mình một kiếm nhuốm máu thành sông, bắt danh y nổi tiếng ở vương phủ nào đó đến chữa trị cho dâng làng. Nghe nói đến giờ bách tính ở khu vực ấy vẫn thờ phụng bài vị trường sinh của tôn sư, hương khói nghi ngút. Ôi chao, đây mới là ‘đại trượng phu cần phải như thế’!”
Cha Trình vỗ đùi khen ngợi, vẻ mặt sùng bái, Đệ Ngũ Thành xấu hổ, tay chân sờ soạng bất an.
Biết bản thân hai mươi mấy năm qua không làm nên trò trống gì là tốt, giai đoạn thứ hai thành công viên mãn.
Tới lúc này cha Trình mới bắt đầu nói giúp Viên gia.
Năm ấy Viên gia thật sự ở bên bờ diệt vong, cờ khởi nghĩa bị tháo xuống, binh mã của Lệ đế hô hoán chém giết, chỉ một bất trắc nhỏ là già trẻ toàn tộc sẽ không thoát khỏi. Trong tình hình như vậy, là nam nhi trực hệ trưởng thành duy nhất lại có năng lực, Viên Bái tuyệt đối không thể đi cùng Đệ Ngũ Hợp Nghi. Mà với Đệ Ngũ Hợp Nghi không biết nặng nhẹ chỉ biết quấn lấy Viên Bái, tộc lão Viên thị lòng như lửa đốt chỉ muốn làm thịt cô ta.
Cha Trình có tướng mạo trung hậu hiền lành, mỗi khi kể khổ sẽ có hiệu quả gấp bội, cuối cùng Đệ Ngũ Thành cũng chịu mở lòng: “Cha mẹ mất sớm, từ nhỏ em gái đã theo ta vào nam ra bắc, bị ta chiều hư đâm lỗ mãng, nuôi nên mới kiêu ngạo nóng tính, không biết suy nghĩ kỹ lưỡng.”
Năm xưa khi hay tin Viên gia gặp chuyện, Đệ Ngũ Thành biết nghĩa đệ Viên Bái không thể không trở về, cho nên ông ta đã nói với em gái, hoặc là muội đến Viên gia làm thiếp, hoặc đoạn tuyệt quan hệ. Nhưng Đệ Ngũ Hợp Nghi chưa bao giờ nếm mùi thất bại vô cùng cố chấp, muốn người trong lòng tuân thủ lời thề, ở bên nàng ta đến già. Đệ Ngũ Thành xông pha giang hồ nhiều năm, đã trải qua bao nhiêu biến cố, cũng biết em gái làm vậy rất không ổn, không khác gì xát muối vào vết thương người nhà họ Viên.
“… Ta thấy tráng sĩ cũng là người thấu tình đạt lý, nếu tráng sĩ đã hiểu chuyện bất đắc dĩ thì tại sao năm ấy không khuyên nhủ lệnh muội. Bằng không sau đó đã không xảy ra thảm kịch.” Cha Trình hỏi.
Đệ Ngũ Thành im lặng rất lâu.
Không phải ông ta chưa khuyên, nhưng đúng là không nhẫn tâm trách móc em gái.
Thứ nhất ông ta rất thương em gái, không nỡ nhìn em gái đau lòng đến chết, thứ hai ông ta cũng thầm hy vọng, nghĩa đệ rất có tình cảm với em gái, nói không chừng hắn sẽ đồng ý bỏ lại gia sản lựa chọn em gái mình? Nhưng bản thân ông ta biết suy nghĩ này rất bỉ ổi vô nhân đạo, rất rất có lỗi với gia tộc Viên thị, nên chẳng những ông ta không thể nói ra mà thậm chí còn không dám nghĩ tới.
Lần này đến lượt Tiêu phu nhân lên sân khấu.
“Viên Châu mục đúng là xui xẻo tám đời, quen phải huynh muội các ngươi rồi còn kết nghĩa kim lan! Hừ, quả là xem người ta như huynh đệ trong nhà, cảm động gớm. Khi Viên gia chìm trong biển máu, sao không thấy Đệ Ngũ đại hiệp võ nghệ cao cường hỗ trợ?!”
Đệ Ngũ Thành đau đớn. Năm đó Viên gia gặp nạn, cô nhi quả phụ lo chạy trốn, trốn không kịp sẽ bị bắt tù hoặc giết chết treo thi thể, lúc ấy bản thân đang làm gì? À, ông ta đang vất vả khuyên giải an ủi em gái mất đi tình yêu.
Tiêu phu nhân cười lạnh: “Đại nhân nhà ta cũng có huynh đệ kết nghĩa, chính là Thái thú quận Từ Vạn Tùng Bách đại nhân. Hai mươi mấy năm qua, hai nhà Vạn Trình đối xử với nhau vô cùng chân thành, có phúc cùng hưởng có họa cùng chia, thân như một nhà! Thiếp dám nói một câu, chỉ cần có thể đổi lấy tính mạng đại nhân nhà ta, ngoài Vạn lão phu nhân ra thì toàn thể Vạn gia, bao gồm tính mạng của Vạn đại nhân cùng thê thiếp con gái của mình, ông ấy vẫn sẵn sàng đánh đổi!”
Lời nói ấy khiến Đệ Ngũ Thành áy náy vô cùng, còn cha Trình chột dạ đổi tư thế, nói một câu không có lương tâm, bảo ông lấy vợ là Tiêu Nguyên Y và con gái đi đổi nghĩa huynh Vạn Tùng Bách, ông… chuyện đó, chắc là… không muốn lắm đâu.
“Bốn chữ chân thành có nhau, nói thì dễ làm mới khó. Trong lòng Đệ Ngũ đại nhân, có khi trong nhà nghĩa đệ gặp chuyện núi thây biển máu, sinh tử treo trên sợi tóc, cũng không quan trọng bằng mấy giọt nước mắt của em gái!”
Tiêu phu nhân nói rất sắc sảo, không hề nể nang: “Tuy Đệ Ngũ cô nương chết thảm, nhưng Viên thái công cũng đã lấy mạng đền mạng. Đại hiệp còn muốn thế nào nữa? Sao, tính mạng của sinh phụ của nghĩa đệ không bằng lệnh muội ư! Hơn hai mươi năm qua, xét về tư, Đệ Ngũ đại hiệp thẹn với tình kết nghĩa, chỉ biết nghĩ cho thân mình; xét về công, đại hiệp có thẹn với ơn tôn sư đã truyền dạy, hai mươi mấy năm qua là lúc thiên hạ đại loạn bách tính lầm than, nhưng ngươi cả ngày chỉ biết báo thù rửa hận, không hề giúp đỡ bách tính thiên hạ! Hừ, tôn sư mù rồi nên mới truyền lại bản lĩnh cho hạng người như ngươi!”
Đệ Ngũ Thành ngơ ngác, giai đoạn thứ tư thành công viên mãn.
“Thế còn bây giờ làm gì?” Thiếu Thương truy hỏi giai đoạn thứ năm.
Tiêu phu nhân cười nhạt: “Dùng tình lay động, dùng lý khai sáng, đánh đòn cảnh tỉnh, bây giờ cứ để ông ta từ từ nghĩ thông là xong. A Trúc và Âu nhi đều thích ông ta, ngày nào cũng quấn lấy ông ta nói chuyện trời đất, chỉ dạy võ nghệ. Để đấy ta tìm người làm mối cho Đệ Ngũ Thành, tương lai sinh con dưỡng cái, chấn hưng gia sản, coi như cho qua chuyện này…”
Thiếu Thương không tin, chạy đến chỗ ở của Trình Trúc Trình Âu nhìn lén, quả nhiên thấy Đệ Ngũ Thành ngồi trong sân hướng dẫn hai cậu bé tư thế lật tay bắt tóm, đồng thời đang đẽo hai thanh kiếm gỗ tinh xảo – người đàn ông trung niên trải qua tang thương đã không còn sát khí, thay vào đó là sự kiên nhẫn bất tận.
“Phụ thân mẫu thân quả là có bản lĩnh!” Thiếu Thương thán phục.
Trình Thiếu Cung nói: “Con người luôn vậy mà, chuyện nhà thì bó tay, nhưng chuyện của người ta lại rất thông thạo. Đến giờ muội vẫn không chịu giảng hòa với tổ mẫu, không phải phụ thân mẫu thân cũng hết cách đấy à?”
Thiếu Thương cau mày: “Nghe nói tổ mẫu bị bệnh.”
“Đúng vậy, cũng không biết nguyên nhân, chỉ là ăn uống không ngon, ngày một gầy đi, đại phu nói là bệnh tuổi già.” Trình Thiếu Cung nói, “Thực ra tổ mẫu cũng không còn trẻ. Mẫu thân nói, nếu tổ mẫu vẫn chưa khỏe lại thì phải gọi thúc phụ cùng các huynh trưởng về.”
Thiếu Thương biết điều ấy có nghĩa cần chuẩn bị hậu sự. Nhưng nàng vẫn không nói gì, từ chối quan tâm Trình mẫu đang sắp sửa lâm chung. Không phải nàng sắt đá, mà là, dù gì vẫn phải có người nhớ đến Trình Thiếu Thương thật sự đã chết oan.
Quả nhiên sự chú ý đã bị di dời, đêm hôm ấy Thiếu Thương ngủ rất ngon, không nằm mơ hay gặp ác mộng; còn tại Lạc phủ bên kia đô thành, một danh môn thục nữ nổi tiếng hiền thục lại thao thức cả đêm.
Sáng sớm hôm sau, Lạc Tế Thông thức giấc khi trời còn chưa hửng sáng, rửa mặt chải đầu trang điểm, thậm chí không kịp thông báo cho Lạc phu nhân đã vội sai người chuẩn bị xe ngựa. Nửa canh giờ sau, Lạc Tế Thông bắt kịp lúc cửa chính Hoắc phủ rộng mở, đoàn người sắp sửa rời đi.
Hoắc Bất Nghi mặc triều phục màu đỏ, thân hình cao ráo, cưỡi trên tuấn mã càng khiến chàng thêm anh tuấn oai phong, nghiêm nghị nhưng không kém phần tao nhã.
Lạc Tế Thông thật lòng kính trọng, dịu dàng thưa: “Thiếp bái kiến tướng quân.”
“Sao cô lại đến đây.” Hoắc Bất Nghi ngạc nhiên.
Lạc Tế Thông vén rèm xe, nét mặt đoan trang rầu rĩ: “Thiếp có chuyện muốn thưa với tướng quân, hôm qua gia phụ đã… Thiếp thực sự rất hoang mang sợ hãi…” Nàng ta không nói tiếp.
“Ta cho rằng cô là người thông minh.” Hoắc Bất Nghi bình tĩnh nói, “Người thông minh cần biết tiếp theo nên làm gì.”
“Năm năm bầu bạn, lẽ nào tướng quân không nên cho thiếp một câu trả lời hợp lý.” Lạc Tế Thông khẩn khoản.
Hoắc Bất Nghi nhìn nàng: “Ta cũng từng bầu bạn với một cô gái, từng ăn cơm từng nói đùa, từng tranh chấp từng tóc mai cận kề; ta biết ‘bầu bạn’ là như thế nào. Cô và ta chưa bao giờ ‘bầu bạn’.”
Các thị vệ gia tướng đang đứng hoặc đang cưỡi ngựa xung quanh, dưới biết bao con mắt nhìn đăm đăm, Lạc Tế Thông khó chịu, rất muốn bật khóc; Lương Khưu Khởi bàng quan đứng ngoài, Lương Khưu Phi lại chẳng đành lòng.
“Nếu không được tướng quân nói rõ, thiếp thực sự không cam lòng.” Lạc Tế Thông thấp giọng nói.
Hoắc Bất Nghi suy nghĩ: “Hôm nay bệ hạ mở đại triều hội, đợi ta về rồi nói.”
Đưa mắt nhìn người trong lòng rời đi không chút bận tâm, trong lòng Lạc Tế Thông đau đớn vô cùng, nàng ta cúi đầu nhìn, phát hiện lòng bàn tay đã bị móng tay bấm chảy máu. Nàng ta không muốn về nhà, cũng không muốn ở lại Hoắc phủ chờ đợi, suy nghĩ một lúc, nàng ta bèn bảo phu xe đến Trình phủ.
Dù Trình thị là gia tộc vừa trỗi dậy nhưng nô bộc rất lễ phép, khi biết Tiêu phu nhân không có ở phủ, Lạc Tế Thông được tỳ nữ dẫn đến viện của Thiếu Thương, lúc này mới hay dù mặt trời đã lên cao nhưng nữ công tử Trình gia vẫn còn say giấc nồng.
Lạc Tế Thông chua chát, nghĩ bụng đây chính là tình địch của nàng, xét phương diện nào cũng kém, đáng lý Hoắc Bất Nghi phải nên tuyệt vọng.
Thiếu Thương cũng rất bực bội, hiếm lắm mới được nghỉ một ngày, không ngủ đến giờ ăn trưa thì thật có lỗi với bách tính xã tắc; nhưng bây giờ nàng phải trang phục chỉnh tề, khách sáo đối diện Lạc Tế Thông. Nàng cố kìm cơn ngáp: “Chẳng hay Lạc nương tử đến nói chuyện gì.”
Lạc Tế Thông mỉm cười.
Tính cách của Trình Thiếu Thương như vậy đấy, một khi có khúc mắc thì chẳng buồn xã giao; từ khi có xích mích ở Vĩnh An cung, nàng ta không gọi mình là “Tế Thông a tỷ” nữa, chỉ gọi là “Lạc nương tử”.
“… Hôm đó ta nói năng không thỏa đáng, muội muội trách ta xem nhẹ Tuyên nương nương cũng đúng.” Nàng ta thấp giọng nói, “Nhưng xin muội muội thứ lỗi cho ta, hôn sự với Hoắc tướng quân sắp thành lại bị hủy bỏ, ta thực sự rất vội.”
Thiếu Thương nhếch mép, không bình luận.
Có nói dễ nghe tới đâu cũng vô dụng, từ khi trở lại Lạc Tế Thông vẫn chưa bái kiến Tuyên Thái hậu lần nào, việc gì làm bộ làm tịch, nhưng nàng chẳng buồn vạch trần cô gái này, chỉ uể oải nói, “Không sao không sao, ta cũng vội lắm, vội nghỉ ngơi tiếp. Rốt cuộc Lạc nương tử có chuyện gì mà ghé nhà ta, đáng nhẽ phải báo trước chứ.”
Lạc Tế Thông sượng mặt, nhưng ngay lập tức ra vẻ ai oán tội nghiệp: “Ta kính trọng Hoắc tướng quân từ nhỏ, ngày trước ta và chàng mỗi bên đều có hôn ước, cứ ngỡ cuộc đời này sẽ vô vọng, nào ngờ ông trời xót thương, để ta và Hoắc tướng quân gặp lại nhau ở Lương Châu, ắt hẳn Thiếu Thương muội muội không biết lúc ấy ta đã mừng đến đâu… A…”
Thiếu Thương vui vẻ lắc ngón tay, ngắt lời nàng: “Ba chuyện. Thứ nhất, cô đoán xem trong đô thành này có bao nhiêu danh môn thục nữ kính mến Hoắc Hầu từ nhỏ? Nếu triệu tập lại, ắt cũng đủ một đội tiên phong.”
Lạc Tế Thông không vui.
“Thứ hai, cô nói từ nhỏ mình đã ngưỡng mộ Hoắc Hầu, khi gặp lại ở Lương Châu mừng khôn xiết. Có nghĩa khi cô và chồng trước đang là vợ chồng, trong lòng vẫn nhớ nhung Hoắc đại nhân?”
“Sao muội có thể nói như vậy! Ta và chồng trước, ta và chồng trước…” Lạc Tế Thông vừa ngạc nhiên vừa tức giận, “Ta và chồng trước tương kính như tân, sống hòa thuận vui vẻ, muội đừng tự ý đoán mò!”
“Được được được, vậy tức là cô ‘từ nhỏ ngưỡng mộ’ Hoắc Hầu cho đến trước khi cưới, đợi chồng chết thì cô ‘ngưỡng mộ’ lại, có phải không?”
Lạc Tế Thông nổi đóa nhưng không làm được gì.
Nụ cười của Thiếu Thương phai dần: “Thứ ba, tính cách ta thế nào cô cũng biết đấy, không khoan dung độ lượng cũng không thân thiết, càng không biết mềm lòng thương xót, cho nên cô không cần ra vẻ tội nghiệp dỗ dành ta làm gì. Một khi ta đã có thành kiến với ai thì đến xã giao cũng không có hứng. Lạc nương tử, rốt cuộc hôm nay cô đến là có chuyện gì, nói nhanh lên, ta còn phải đi ngủ tiếp.”
Lạc Tế Thông kín đáo nói: “Muội không sợ tiếng xấu bắt nạt ta lan truyền ư.”
“Sợ cái gì, ta chưa bao giờ có tiếng thơm, nhưng ta vẫn cứ đính hôn bình thường đấy thôi, ừ, mà lần nào lang tế cũng rất không tệ, Lạc nương tử không cần lo cho ta.” Thiếu Thương tự giễu, chỉ cần không tổn thương tới mình thì đủ khiến đối phương tức chết.
“Được, ta nói.” Lạc Tế Thông có tu vi cao lường, bị châm chọc như vậy mà nàng ta vẫn có thể tỏ vẻ đoan trang đau buồn, “Mấy ngày nay gia phụ bận rộn bên ngoài thành, nhưng chập tối hôm qua ông bỗng sai tâm phúc về nhà, nói rằng ngay trước mặt rất nhiều người Hoắc tướng quân đã đưa một hộp gương soi cho ông, bảo là của hồi môn cho ta. Ta không dám tưởng tượng, lúc ấy gia phụ nhục nhã đến cỡ nào!”
Thiếu Thương ngạc nhiên: “Lệnh tôn không đi tìm Hoắc đại nhân phân xử sao, không phải ở Tây Bắc hai người suýt đã đính hôn rồi hả?”
Lạc Tế Thông cười rầu rĩ: “Vẫn chưa.”
“Không phải Thái tử điện hạ rất coi trọng cô à.”
“Điện hạ coi trọng Hoắc tướng quân hơn.”
Dù Thiếu Thương không vừa mắt Lạc Tế Thông, nhưng cũng cảm thấy cô gái một chân bước vào cửa lại bị vứt bỏ thật đáng thương: “Vậy… Cô định làm thế nào?”
“Ta cũng không biết.” Lạc Tế Thông rớm nước mắt.
Thiếu Thương gãi đầu.
Một người đàn ông đã không muốn cưới một người phụ nữ, trừ khi quá thiếu thốn quyền thế lợi ích, bằng không sẽ rất khó nên duyên; ngay cả Hoàng lão bá cũng không ép được Hoắc Bất Nghi thì nói gì đến Lạc đại nhân, huống hồ vốn dĩ Hoắc Bất Nghi và Lạc Tế Thông cũng không có danh phận.
“Nè nè, cô đừng nhìn ta nữa, ta không muốn có liên quan gì tới Hoắc Bất Nghi cả.” Thiếu Thương thấy Lạc Tế Thông nhìn mình cầu khẩn, đoán được ngay suy nghĩ trong lòng nàng ta, “Ta sẽ không nói hộ cho cô với Hoắc Bất Nghi, cũng sẽ không xin Hoắc Bất Nghi cưới cô. Đây là chuyện của chính cô.”
Lạc Tế Thông buồn bã cúi đầu.
“… Vả lại, nếu ta yêu cầu ngài ấy mà ngài ấy đồng ý… giờ ta yêu cầu Hoắc Bất Nghi đừng đến làm phiền ta nữa, cô xem ngài ấy có nghe hay không.” Thiếu Thương càng nghĩ càng ảo não.
Lạc Tế Thông tự biết điều đó, trong lòng càng thêm rối loạn.
Đúng lúc này A Mai đi vào phòng, dâng nước hoa quả vừa pha cho hai người, trước khi lui thấy chuông gió treo ngoài cửa im ru, định tháo xuống cầm đi sửa. Thiếu Thương thấy nàng nhón chân cũng không với tới, thế là cười cười đứng dậy đến phụ một tây.
Bấy giờ đã vào tháng Tư, tiết trời ấm áp, Thiếu Thương mặc một xiêm y cũ rộng thùng thình.
Nàng giơ tay phải lên trước, ống tay áo trượt xuống cánh tay trắng nõn mềm mại. Khi sắp trượt tới gần vai, theo phản xạ nàng che ống tay áo lại, sau đó thả tay phải xuống rồi đổi sang tay trái lấy chuông gió.
Lạc Tế Thông giật mình.
Thiếu Thương đưa chuông gió cho A Mai, mỉm cười xoay người lại, thấy sắc mặt kỳ lạ của Lạc Tế Thông thì hỏi: “Cô làm sao vậy.”
“Cho ta nhìn cánh tay muội đi.” Lạc Tế Thông nói thẳng.
“Cô nói gì.” Thiếu Thương không hiểu.
“Cho ta nhìn tay phải của muội.” Lạc Tế Thông đứng dậy.
Thiếu Thương rụt vai phải về phía sau, “Cô nói lung tung gì vậy… Được rồi, hôm nay nói xong rồi, Lạc nương tử nên về sớm đi, mời về không tiễn.”
Vẻ mặt của Lạc Tế Thông gần như điên cuồng, nàng ta thấy Thiếu Thương sắp gọi thị tỳ thì lập tức đi tới nắm lấy cánh tay nàng, khuỵu gối lật người lại, Thiếu Thương nén đau – đây chính là sự khác biệt giữa nữ lưu manh không chính thống và quý nữ văn võ song toàn thật sự.
Lạc Tế Thông vén tay áo bên phải của Thiếu Thương lên, nheo mắt nhìn chòng chọc, thấy hai hàng dấu răng ngay ngắn trên cánh tay mũm mĩm trắng hồng, dấu răng đã thành sẹo lâu ngày chỉ còn lại vòng tròn màu vàng nhạt.
Nàng ta đã nhớ ra, hồi ở biên thành Tây Bắc, Hoắc Bất Nghi thường làm một động tác rất kỳ lạ: thỉnh thoảng vuốt ve cánh tay phải của mình, trầm ngâm một lúc rất lâu, trong sự dịu dàng là nỗi buồn man mác.
“Được được, hóa ra là vậy, hóa ra là như vậy!” Lạc Tế Thông cười thảm, “Giờ ta đã hiểu rồi!” Nàng ta cảm thấy có nói chuyện với Trình Thiếu Thương thêm cũng vô dụng, thế là buông tay, run rẩy lùi về sau mấy bước rồi phất tay áo bỏ đi.
Thiếu Thương xoa tay bò dậy, tức giận quát lên theo bóng lưng của Lạc Tế Thông: “Cô là đồ điên, đi uống thuốc đi!”