Liếc nhìn Quan Hử và Tần Thiên Hạo bị trói hai tay ra sau lưng không động đậy được, Giang Bồi ra lệnh cho Phùng Trù và tài xế. Đoạn hắn quay sang người làm vườn Tôn Phổ đang đứng bên kia, chỉ vào đôi song sinh một người bị Quan Hử bẻ tay, một người bị Tần Thiên Hạo đâm xuyên bàn tay, dặn gã đưa hai người này đi chữa thương.
Làm theo lời dặn, Phùng Trù và tài xế chia nhau kéo Quan Hử và Tần Thiên Hạo đang bị đè lên, hai người họ ngoan ngoãn đi, bọn Giang Bồi thì theo phía sau, trong tay vẫn cầm súng uy hiếp họ, ép hai người phải nghe lời chủ động phối hợp.
Lưu Quản đứng cuối thấy sắp rời khỏi phòng khách rồi, bấy giờ mới khom lưng thu dọn quần áo và vật dụng ngụy trang ban nãy Giang Bồi ném xuống đất, sau đó cũng im lặng đuổi theo đoàn người, cùng họ đi vào ‘hành lang bí ẩn thông xuống lòng đất’.
Bấy giờ cũng chỉ còn Tôn Phổ và hai anh em bị thương. Tôn Phổ bèn dìu đôi song sinh Trâu Văn và Trâu Võ đi bôi thuốc, khâu vết thương.
Trâu Văn đau đớn thét lên, Tôn Phổ qua đó muốn dìu, thấy cánh tay Trâu Văn buông thõng xuống, lắc lư theo từng nhịp bước.
Bấy giờ mới biết cánh tay Trâu Văn bị thương nghiêm trọng cỡ nào. Lúc nãy họ đổ dồn mọi sự chú ý lên bàn tay bị đâm xuyên của Trâu Võ, chẳng ai để ý đến Quan Hử luôn giữ im lặng cả, rốt cuộc y đã dùng sức cỡ nào mới bẻ tay Trâu Văn đến mức như vậy, trông không hề nhẹ hơn vết thương bị đâm xuyên của Trâu Võ…
Bấy giờ máu trên tay Trâu Võ vẫn chưa đông lại, hắn cố gắng nâng cao cánh tay mình để máu chảy ngược xuống, không bị trào ra quá nhiều nữa. Chỉ mong sao được mau chóng bôi thuốc cầm máu, hắn rất rõ nếu mình cứ đổ máu thế này, e rằng sẽ rất nguy hiểm.
Trước đây từng thử nghiệm cắt hết mạch máu của những kẻ bị dụ đến đây chơi, quan sát quá trình tử vong của kẻ đã trở thành người máu, chưa được bao lâu đã thấy kẻ đó chết vì mất máu quá nhiều. Thế nên hắn rất rõ tầm quan trọng của máu, phải nhanh chóng cầm máu và khâu vết thương lại đã, hắn bây giờ đã không còn thời gian đi theo vào hành lang cùng xử lý hai con mồi vừa bị bắt nữa.
…
“Người chủ ban đầu của tòa nhà này đang ở đâu?” Rõ ràng đang bị nòng súng chỉa sau lưng ép phải đi lên trước, song Tần Thiên Hạo dường như vẫn có tâm tình hỏi vấn đề này.
Giang Bồi đang cầm súng phía sau nghe cậu đột ngột mở miệng hỏi như thế, cảm thấy rất quái lạ. Bao nhiêu năm qua hắn từng bắt rất nhiều người, nhìn thấy đủ loại phản ứng sợ sệt kinh hoảng khác nhau, nhưng phản ứng của hai người trước mắt lại phối hợp và bình tĩnh ngoài dự kiến, đây là thái độ rất hiếm thấy, không chỉ không định chạy cũng không định van xin thống thiết, mà còn tự dưng hỏi đến chuyện chẳng liên quan gì mình, quả thật không biết nên khen chúng ngây thơ hay mắng chúng ngu si đây.
Giang Bồi thấy mình đã khống chế được tình thế, nhìn hai con mồi lần này trông khỏe mạnh hoạt bát biết nhường nào, còn giỏi đánh đấm nữa. Hắn vững tin lát nữa ăn đồ bổ làm từ họ sẽ bổ dưỡng cho cơ thể mình lắm đây, chắc chắn hiệu quả chữa trị sẽ tăng mạnh, nghĩ thế tâm trạng tốt hơn nhiều, cũng vui lòng trả lời câu hỏi của Tần Thiên Hạo: “Người chủ ban đầu của tòa nhà này, ý mày là bà cụ do tao giả trang? Khà khà, dù sao bà ta cũng đã sống lâu như vậy rồi, tao giúp để bà ta sớm ngày được giải thoát, đến Tây thiên đoàn tụ với người nhà bà ta. Tin là bà ta sẽ biết ơn tao lắm. Cái đèn lồng đỏ bên cửa sổ trong căn phòng mà tụi bây ở chẳng phải cũng là một bộ phận của cơ thể bà ta đó sao?”
“Bộ phận?” Quan Hử luôn im lặng chợt lặp lại. Qua lời gợi ý của Giang Bồi, y đã liên kết được nhiều chi tiết, bất kể là cổng lớn bên ngoài tòa biệt thự hay mỗi căn phòng, thậm chí là phòng khách đều có treo những chiếc đèn lồng đỏ tươi.
Những chiếc đèn lồng đó có kích cỡ khác nhau, nhưng hình dáng và màu sắc đều thống nhất. Ban đầu Quan Hử tưởng đây là phong cách trang trí của tòa nhà nên không để ý quan sát kỹ, nhưng y đã từng nhìn chiếc đèn lồng bên cửa sổ phòng mình ngủ, thậm chí còn từng vươn tay chạm vào nó, bây giờ nhớ lại cảm giác khi chạm vào có hơi lạ, không giống chất liệu giấy như bao chiếc đèn lồng khác mà cứng hơn một chút.
“Đúng vậy, chuyện về đèn lồng tao không có nói bậy. Khà khà, chẳng qua là nghệ thuật gia truyền thôi, không phải nhà tao mà là nghệ thuật truyền thống trong nhà cô em này đây.” Vươn tay chỉ Lưu Quản bên cạnh, Giang Bồi đắc ý giới thiệu: “Tất cả lồng đèn trong nhà đều do cô ấy chính tay tạo ra. Tiếc là da của bà cụ kia nát quá, dù muốn kỷ niệm cũng chỉ lột được một ít nguyên liệu, miễn cưỡng làm cái da bọc đèn lồng.”
“Lấy da người làm?” Tần Thiên Hạo hiểu ra ý quan trọng trong lời Giang Bồi.
Còn Quan Hử nghe thấy mặt ngoài chiếc đèn lồng được làm bằng da người thì bất giác nhíu mày. Nhẩm thầm trong lòng, ngoài hai chiếc đèn lồng siêu to ngoài cổng, tổng cộng những đèn lồng đỏ kích cỡ khác nhau mà y từng thấy trong tòa nhà đã không giới hạn ở con số mười mấy, nếu tất cả đều là da người, thế chẳng phải…
“Thật ra gia đình tôi có truyền thống làm đèn lồng bằng da động vật…” Dưới ánh đèn hiu hắt của chiếc đèn lồng, Lưu Quản mở lời.
Bấy giờ họ đã ra khỏi phòng, bước vào ‘hành lang xuống lòng đất’ thông vào tầng hầm bí mật, xung quanh chẳng có cây đèn điện nào cả mà chỉ treo một chiếc đèn lồng đỏ thắm. Ánh đèn đỏ tươi hắt lên gương mặt khô gầy của Lưu Quản trông như bộ xương còi cọc được bao bởi một lớp da.
Theo lời giới thiệu của Lưu Quản, nhà cô có truyền thống chế tác đèn lồng bằng thủ công, đầu tiên cần dùng vài mươi thậm chí phải cả trăm loại thảo dược đặc biệt để nấu bộ da đã qua xử lý, sau đó lại thông qua những thao tác phức tạp để tạo ra một chiếc đèn lồng da, quá trình vừa phiền vừa phức tạp, hầu như người nhà cô nay đã không còn ai muốn tiếp nối và học hỏi kỹ thuật cổ xưa khó làm này nữa.
Và một ngày nọ, Lưu Quản chợt nảy ra một ý tưởng, đó là muốn thử dùng da người để chế tác đèn lồng.
Ngoại hình cô vốn không đẹp, thậm chí có thể miêu tả bằng từ xấu xí, bất kể khi đi học hay đi làm đều luôn bị người khác xem như vô hình. Cô không có lấy một người bạn, cũng chưa từng nói chuyện với chàng trai nào. Dường như do mọi người thấy ngoại hình cô xấu xí nên không có hứng thú giao lưu tiếp xúc với cô, càng khỏi phải nhắc đến việc thật ra tính cách cô cũng chẳng khiến người ta thích chút nào.
Lưu Quản với cuộc sống khô khan nhạt nhẽo và đơn độc cứ thế mỗi ngày xoay quanh trong khu làm việc của mình, lạnh nhạt nhìn cô gái ăn diện xinh đẹp nhất công ty được các chàng trai trong văn phòng săn đón yêu chiều. Cô chẳng thấy cô gái đó có gì tốt cả, nhưng nhìn làn da sáng đẹp của cô gái, chợt một ý tưởng dần kết hạt rồi cứ thế ấp ủ và nảy mầm trong suy nghĩ của Lưu Quản.
Thế rồi một ngày, cô đã quá chán ghét cuộc sống tù túng vô vị, bèn nộp đơn từ chức, gần như không một ai phát hiện cô đã rời đi. Sau khi nghỉ việc, Lưu Quản lén lút theo dõi cô gái luôn được các chàng trai theo đuổi nuông chiều trong công ty. Có một lần nhân cơ hội tốt, cô đánh lén sau lưng cô gái nọ, chờ cô gái ngất đi thì kéo vào trong chiếc thùng dự bị đặt phía sau con xe hơi cũ vừa mua, chở người về căn nhà ở khu vực hẻo lánh mà mình đã cố tình thuê, sau đó lột cả bộ da của cô gái ‘lăng loàn’ mà cô luôn cảm thấy chán ghét và ghê tởm bằng phương pháp chế tác da động vật truyền thống của gia đình mình. Sau nhiều bước làm phức tạp, Lưu Quản đã tạo ra chiếc ‘đèn lồng da người’ thủ công đầu tiên trong đời mình.
Cơn thỏa mãn cực khoái vào khoảnh khắc ấy khiến Lưu Quản không thể hình dung bằng bất kỳ từ nào, đây là việc sung sướng và khoái trá nhất mà cô từng làm trong cuộc đời này, khiến cảm xúc cô thăng hoa đến mức chỉ biết ôm chiếc đèn lồng tung tăng nhảy múa. Từ đó, cơn nghiện chế tác đèn lồng của Lưu Quản cứ thế nặng dần và không thể kiềm nén lại nữa, để rồi không ngoài dự đoán, cô chọn bừa những người có tuổi tác khác nhau nhưng dễ tấn công, ngộ ra những bước còn thiếu sót trong quá trình làm da người, da của ai thích hợp làm đèn lồng, có vài người cực phẩm đến mức lột được trọn bộ da, không bị lãng phí.
Cũng chính vì cơn nghiện đặc biệt này giúp cô làm quen với đám người hiện tại và hợp tác với nhau cùng hành động. Hiện tác phẩm của cô đã được trang trí ở khắp nơi trong tòa nhà. Cô không cần phải vất vả trốn chui trốn nhủi và cảnh giác quá mức mới bắt được một người để lấy nguyên liệu thử nghiệm, kể từ sau khi kết nhóm với chúng, nguyên liệu da người dễ tìm hơn trước đây rất nhiều, thậm chí bây giờ cô có thể tùy ý lựa chọn da người mà mình thích để tạo ra chiếc đèn lồng đỏ xinh đẹp.
Đèn lồng được tạo ra bằng phương pháp đặc biệt không những đặc sắc và tươi sáng về màu sắc, mà chất lượng lớp da bên ngoài cũng sẽ không thối rữa, mặc gió mặc mưa, cực kỳ bền. Hơn nữa lớp da được chế tác rất nhẹ, mỏng và sáng màu, dù đặt dây tóc bóng đèn hay nến vào, ánh sáng cũng sẽ dễ dàng chiếu rọi xung quanh, rất rõ. Không bị che chắn dù ở bất kỳ góc độ nào. Bấy giờ ánh đèn xuyên qua lớp da bên ngoài tỏa ra xung quanh, sắc đỏ diêm dúa.
Thật ra Lưu Quản thích nhất là da của những chàng trai trẻ tuổi, chúng săn chắc lại còn đàn hồi. Bởi còn trẻ nên lớp da vô cùng sạch sẽ và mịn màng, dễ xử lý, không dễ hỏng trong quá trình chế tạo. Kế đó là da của các cô gái trẻ, da của các cô tuy mềm mại và mịn màng hơn chàng trai, nhưng cũng chính vì thế mà lúc làm sẽ dễ hỏng, độ khó khá cao.
Còn da của con nít hoặc em bé nhỏ tuổi quá, chỉ cần lấy nước thuốc luộc chút thôi đã bị rã hết rồi, không thích hợp làm nguyên liệu, diện tích lớp da cũng chẳng đủ dùng. Còn những người tuổi tác hơi lớn thậm chí da cụ già, đó là loại Lưu Quản ghét nhất. Vì loại da này đa số đều khô khan thiếu ẩm, lại còn nhăn nheo lỏng lẻo, lúc vừa lột ra đã mỏng lắm rồi, ấy thế mà bên trên còn đầy nếp nhăn, chấm đồi mồi, muốn lấy lớp da đó ra trang trí còn phải tỉ mỉ rọc đi những dấu vết do tháng năm để lại, nói cách khác xử lý rất phiền và tốn sức.
Trước đây lúc giết xong bà cụ, chủ thật của tòa nhà, dự tính ban đầu là băm nát cho heo ăn để thủ tiêu xác chết. Nhưng lão đại Giang Bồi mỗi lần nghĩ đến việc mình từng nhún nhường phục vụ kẻ này lâu như vậy, cảm thấy băm xác chẳng có ý nghĩa gì cả, thế là nảy ra ý định muốn lấy da của bà cụ làm đèn lồng kỷ niệm.
Và rồi Lưu Quản được thử thách một độ khó mới, cô lấy da của bà cụ làm đèn lồng. Nhưng da của bà cụ rất khó lột được trọn vẹn, lột xong còn phải chọn lựa chắt lọc cả nửa ngày, Lưu Quản bèn chọn những mảng da dùng được làm thành chiếc đèn lồng to cỡ trái bóng, trong đó có vài chỗ không đủ da, cô đã phải lấy da của người khác đắp thêm vào, bấy giờ mới hoàn thành.
“Nhìn không ra cũng là chuyện thường, đèn lồng do Lưu Quản làm luôn được mọi người khen không dứt lời, chẳng ai nghĩ nó được làm từ cái gì cả. Hừ, nhưng chúng không biết, bản thân chúng bây giờ cũng trở thành một bộ phận của những chiếc đèn lồng này.” Giang Bồi cười nhạt chế nhạo, nói.
Bấy giờ họ đã bước đến bậc cuối cùng của cầu thang, bên trên đỉnh đầu họ là những tấm ván gỗ vừa tách ra mở lối cho họ xuống. Chợt, tấm ván phát ra tiếng “kẽo kẹt”, một lần nữa đóng lại. Lập tức không gian xung quanh trở nên tối tăm, Giang Bồi nhanh chóng kéo sợi dây màu trắng treo bên cạnh mình.
“Ầm!” Tiếng một vật cực nặng đang di chuyển vang lên ở phía trước.