Đàn Chu Tước bị phá, Đàn chủ Hùng Thiên Cân bị thôn dân phẫn nộ xé xác tươi sống, ngoài ra còn bắt sống một số lượng không ít, đám này giết hay giữ đều phải nhìn ý của Mộ Thanh Yến. Du Quan Nguyệt ngẩng đầu ưỡn ngực đứng ở bên trái bảo tọa của Đàn chủ, sai thủ hạ áp giải từng tên tù binh nêu lý để Mộ Thanh Yến xử lý.
Dẫn đầu là Trương Huân Tả Phó Đàn chủ bị trói gô, y ngó Mộ Thanh Yến đang ngồi nở một nụ cười quyến rũ, đậm vẻ rực rỡ bức người, đến như Du Quan Nguyệt minh tranh ám đấu với tên giẻ rách này nhiều năm cũng không thể không thừa nhận tư sắc gã không hề tầm thường.
Mộ Thanh Yến đến mi mắt còn không nhúc nhích: “Mồm méo mắt lác, giết.”
Du Quan Nguyệt cả kinh.
Tiếp theo là Lý Chương Hữu Phó Đàn chủ đang bị thương nặng, xưa nay khéo hiểu lòng người, tâm tư tỉ mỉ, vừa thấy Mộ Thanh Yến đã ra ý tình nguyện hai tay dâng hết của cải của Hùng Thiên Cân cất giấu, sẽ vì Mộ Thanh Yến mà chiêu hàng Đàn chủ đàn Thanh Long kế bên.
Mộ Thanh Yến nhấc tay chỉ: “Không biết thời thế, giết.”
“?” Du Quan Nguyệt.
Tiếp theo là Giáp Ất Bính Đinh tâm phúc của Hùng Thiên Cân.
“Mày chim mắt chuột, giết.”
“Hai mặt ba đao, giết.”
“Ngũ cốc không phân, giết.”
“Tứ thể bất cần, giết…”
(*)Tặc mi thử nhãn: kiểu lấm la lấm lét
Lưỡng diện tam đao: kiểu là kẻ bất lương hai mặt hay châm ngòi đâm thọc, trước mặt thế này sau lưng thế khác.
Tứ thể bất cần, ngũ cốc không phân: hình dung 1 số người đọc sách mà xa rời thực hành lao động không thực tế. Kiểu như tay chân vô dụng, không phân biệt được cả ngũ cốc…
“Khoan, khoan, từ từ đã!” Du Quan Nguyệt nghe không nổi nữa, “Hắn là tay thủ hạ giỏi số một số hai của Hùng Thiên Cân, sao lại tứ thể bất cần chớ!”
Mộ Thanh Yến ồ lên: “Ồ vậy hả, thế thì trước khi giết thì đập gãy tứ chi hắn trước.”
“…” Du Quan Nguyệt hơi ngu người, “Không đúng, Thiếu Quân à, không phải là ngài muốn giết sạch toàn bộ bọn chúng đó chớ.”
“Có gì mà không được?” Mộ Thanh Yến vậy mà còn ngờ vực hơn cả y, “Không phải vừa nãy anh đã giám định rồi, số còn lại này đều là đám nhiều lần phạm giáo quy nợ máu chồng chất.”
Du Quan Nguyệt xấu hổ cười, “Một đàn Chu Tước to vậy, dẫu sao trong trong ngoài ngoài cũng phải có người duy trì chớ.”
Mộ Thanh Yến: “Không phải có các người sao, ta thấy Vương Điền Phong rất được, lịch luyện thêm mấy năm sẽ có thể một mình đảm đương một phía.”
Du Quan Nguyệt ra vẻ vui mừng, cẩn thận thuyết phục: “Đa tạ Thiếu Quân tín nhiệm chúng ta, có điều để lại vài người ban đầu cũng tốt, dù sao thân thủ bọn hắn cũng không tệ…”
“Giữ lại làm cái gì.” Mộ Thanh Yến ngắt lời, “Giữ lại chúng để dân chúng xung quanh tiếp tục ghi hận, hay là để cái thứ ba tâm hai ý của chúng, âm thầm cấu kết với Nhiếp Đề?”
Du Quan Nguyệt hơi ngớ ra: “Thiếu Quân nói cũng có lý, song nếu giết sạch hết thì đàn Chu Tước phải làm sao? Nếu lúc này sáu phái Bắc Thần đột kích thì phải làm sao cho phải.”
“Vậy trước tiên tiêu hủy đàn Chu Tước đi.”
“Thiếu Quân!” Du Quan Nguyệt kinh hãi.
Mộ Thanh Yến phất tay, Liên Thập Tam dẫn thủ hạ đi xử lý đám người còn thừa lại.
Du Quan Nguyệt theo Mộ Thanh Yến đi vào trong phòng khách riêng không người, cảm thấy lo sợ: “Thiếu Quân, là thuộc hạ hỏi nhiều, thuộc hạ hẳn nên cùng với Thập Tam huynh đệ cẩn tuân Thiếu Quân dặn dò…”
Mộ Thanh Yến đưa tay ngăn không cho y nói tiếp.
Hắn đi đến cạnh cửa sổ, “Đêm qua từ đầu đến cuối giết vào Cung Chu Tước, ta luôn bảo anh chừa lại một góc ở phía Đông Bắc để cho đám Giáo chúng có ý chí không kiên định rời đi, lúc ấy anh còn ra lời can gián: ‘Vây sư chắc chắn sẽ thiếu, thiếu rồi chắc chắn sẽ trở ngại, nên phái một số mai phục ở góc Đông Bắc, tập kích giết ven đường’, nhưng mà ta không đồng ý.”
“Lần này ta cũng không phải đại quân áp cảnh, trước đó cũng chẳng có uy danh trong giáo, chỉ với từng ấy cái ngữ vừa đánh tới cửa đã muốn chạy trốn thì cần chi phải chém tận giết tuyệt? Sau đó thấy Hùng Thiên Cân có xu hướng suy tàn dần rõ, có người thấy tình thế bất ổn lại lục tục đi trốn. Đánh đến cuối còn lại một đám kiên trì ở lại, dù bị bắt bị giết thế nào vẫn khăng khăng một lòng với Nhiếp Đề và Hùng thiên Cân, vậy giữ có ích gì?”
Mắt Du Quan Nguyệt lóe lên: “Thì ra Thiếu Quân đã sàng lọc Giáo chúng đàn Chu Tước từ trước, đáng tiếc ti chức tầm nhìn hạn hẹp.”
Mộ Thanh Yến gật đầu, “Nhờ phúc của Nhiếp Đề, hiện nay sáu phái Bắc Thần phong thanh hạc lệ*, mấy vị chưởng môn không phải bận rộn thanh tra việc nội bộ thì là đang phục hồi lại như xưa, chí ít trong nửa năm sẽ không dễ chọc tới bản giáo. Xem như thực sự có người đánh lén, thì ở đây có thể duy trì thì duy trì, không duy trì được thì rút toàn bộ người đi trước. Không chỉ đàn Chu Tước, mà Thanh Long Bạch Hổ Huyền Vũ cũng thế.”
(*) thần hồn nát thần tính; sợ bóng sợ gió (tích: thời Tiên Tần, quân Phù Kiên ở phương Bắc bị quân Tấn đánh bại, trên đường tháo chạy nghe tiếng hạc kêu, lại ngỡ là quân Tấn truy đuổi)
Du Quan Nguyệt suy nghĩ giây lát, mỉm cười: “Thiếu Quân là quyết ý đập cũ lập mới.”
Mộ Thanh Yến xoay lại: “Lúc Nhiếp Hằng Thành chết, anh đã có thể nhớ chuyện. Anh thấy rời giáo thời Nhiếp Hằng Thành so với rời giáo thời Nhiếp Đề, là cùng một chuyện ư?”
Du Quan Nguyệt bật cười: “Đom đóm sao sánh nổi trăng sáng.” Bật thốt xong, bổ sung, “Đến Nhiếp Hằng Thành còn có thành tựu như vậy, hẳn lúc Mộ thị làm giáo chủ, thần giáo càng uy phong lớn mạnh hơn.”
Mộ Thanh Yến cười cười: “Anh không cần bổ sung. Nhiếp Hằng Thành có lỗi với họ Mộ, cũng không có lỗi với Thần giáo. Trong mấy mươi năm ông ta làm chủ đã quản lý Thần giáo rất thịnh vượng, tằng tổ phụ và tổ phụ có nhiều chỗ không bằng.”
Du Quan Nguyệt mừng thầm, nghĩ Tân chủ quân dù tuổi còn trẻ, song bày mưu nghĩ kế, tính toán không bỏ sót, còn lòng dạ rộng rãi hiếm có.
― có điều chỉ sau đó mấy ngày, y đã cộng thêm vào phán đoán này một ý ‘lúc làm chính sự’. Đáng hận là, đa số bản lĩnh của vị Tân chủ quân này đều không tiêu vô phần ‘chính sự’.
Mộ Thanh Yến nhìn ra dãy núi xa xa ngoài cửa sổ: “Không phải là vì có tòa cung điện lầu các nơi dãy núi Hãn Hải này mới có Thần giáo, mà là vì trải qua các triều đại Giáo chủ hùng đồ vĩ lược và Giáo chúng có lòng trung thành mới có cơ nghiệp của Thần giáo ngày hôm nay. Chỉ cần chúng ta trên dưới đồng lòng, đại sự tương lai có thể thành.”
Du Quan Nguyệt vốn là người cực kỳ thông minh, rốt cuộc giờ đã hiểu quyết tâm của Mộ Thanh Yến. Y tươi cười ngoài mặt, cúi đầu chân thành nói: “Thuộc hạ hiểu rồi, Thiếu Quân hùng tài vĩ lược, kiến thức hơn người, thuộc hàng hiếm có. Sau này, thuộc hạ chắc chắn sẽ cẩn tuân sai bảo của Thiếu Quân, không dám tiếp tục để trong lòng còn lo nghĩ…”
“Vậy cũng không cần.” Mộ Thanh Yến có vẻ ghét bỏ, giọng có phần hờ hững, “Thập Tam từ nhỏ ngay thẳng quật cường, lòng không tạp niệm, ta nói gì cậu ta làm đó. Còn anh tâm tư tỉ mỉ, khôn khéo già dặn, Sau khi Cừu trưởng lão qua đời anh cũng mất chỗ dựa trong giáo, gặp chuyện dĩ nhiên phải suy nghĩ nhiều, đây không phải lỗi tại anh — nhưng, anh cứ lui xuống đi.”
Du Quan Nguyệt ngẩn ra.
Mộ Thanh Yến quay đi: “Hiện giờ anh còn khó coi hơn cả quỷ nữa.”
Du Quan Nguyệt cứng đờ, rốt cuộc mới ý thức ra, vội che cái mặt sưng như đầu heo, chạy như cáo bay.
Sau khi y rời đi, Liên Thập Tam từ chỗ tối bước ra, chép miệng: “Người này lắm điều quá, nhẫn nại tháng này của Thiếu Quân phải dùng hết rồi, lát lại nhốt trong phòng mấy ngày không nói, bác Thành lại sốt ruột nữa cho xem.”
“Đại sự còn chưa xong, ta không nhốt trong phòng đâu.” Mộ Thanh Yến mệt mỏi nhìn ra ngoài cửa sổ, nửa khuôn mặt đẹp nhuốm ánh mặt trời sáng nhạt, “Du Quan Nguyệt này tuy có phần phiền toái nhưng người thông minh vốn cũng không dễ thu phục. Năm ấy Cừu trưởng lão uy phong lẫm liệt, đệ tử dưới trướng vô số, giờ đây cũng chỉ còn vài kẻ Du Quan Nguyệt Vương Điền Phong vụng trộm tế bái ông ấy.”
“Đúng rồi, bác Thành về rồi à.” Hắn chợt hỏi.
“Mấy hôm trước về rồi ạ, đã về ‘Phương hoa một cái chớp mắt’.”
Mộ Thanh Yến cụp mi, không chút lộ vẻ: “Bác Thành có nhắn gửi lời nào không.”
Liên Thập Tam nói: “Như cũ, bảo Thiếu Quân cẩn thận chút chứ sao.”
Mộ Thanh Yến không vui xoay người: “Cậu cũng nên học Du Quan Nguyệt dùng đầu óc nhiều vào, đừng cứ một đầu nhảy xuống hố không kéo ra được. Nếu biết cứ nói mấy câu lải nhải cũ, ta chắc chắn sẽ hỏi là bác Thành có nhắn nhủ lời nào mới hay là không!”
Liên Thập Tam cố gắng ngẫm nghĩ: “… À đúng, bác Thành nói ‘Mì hoành thánh nên gói liền ăn liền, gói lâu mới thả sẽ mất vị, người dùng tức giận’ ― là ý gì vậy ta?”
Mộ Thanh Yến dời mắt, một hơi thở vui vẻ nhỏ bé chậm rãi thấm ra quanh người, ở một góc khuất không ai biết nở một nụ hoa.
Nếu Du Quan Nguyệt ở đây, tất nhiên sẽ có chỗ phát hiện, đáng tiếc Liên Thập Tam không biết gì, còn thẳng thừng hỏi: “Đàn Chu Tước một trong Tứ đại Tổng đàn đã mất, không biết Nhiếp Đề sẽ đáp lại sao nhỉ?”
“Đáp lại nhất định sẽ có. Còn đáp lại như nào à.” Mộ Thanh Yến cười, “Ta đại khái cũng đoán ra rồi.”
…
Du Quan Nguyệt đối diện tấm gương im ắng rên đến nửa đêm, nhịn đau nắn lại xương mũi, rồi bảo tỳ nữ thiếp thân tìm thuốc cao quý báu nhất xoa mặt cho mình. Hai chủ tớ bốn cái tay xoa bóp nửa ngày, khuôn mặt trong gương vẫn vô cùng thê thảm.
Tỳ nữ thiếp thân đau lòng khóc mãi, Du Quan Nguyệt tức giận: “Khóc cái gì! Không được khóc! Về sau công tử ta đi ngủ với ai ít nhất có thể tự mình làm chủ, chả nhẽ không phải chuyện tốt ư?! Còn chưa cút xuống ăn cơm, chết đói rồi ai tới hầu hạ bổn công tử!”
Du Quan Nguyệt đáng lý tính ở rịt trong phòng tránh mấy ngày, đợi khôi phục xíu mới ra gặp người, đáng tiếc Nhiếp Đề không chịu cho y núp bóng, một trước một sau gửi tới Mộ Thanh Yến hai cô gái, buộc Du Quan Nguyệt công tử không thể không lộ diện.
Cô đầu tiên tuổi chừng mười tám, mắt hạnh má đào, eo nhỏ nhắn một nắm, lúc ngẩng lên sắc sảo kinh người. Nàng sợ hãi quỳ gối trước mặt Mộ Thanh Yến, không dám thốt một câu, nom thật điềm đạm đáng yêu.
“Ngươi là Thù Thúy Lan?” Du Quan Nguyệt nghiêm mặt hỏi.
Nữ tử rụt rè trả lời: “… Dạ.”
“Ngươi nói ngươi là cháu nội của Cừu trưởng lão?” “Đúng ạ.”
“Nhiếp Đề muốn gì?”
Trong hốc mắc Thù Thúy Lan ngân ngấn nước, “Ngài bảo thiếp tới hầu hạ Mộ Thiếu Quân.”
Vừa dứt lời, Mộ Thanh Yến có vẻ cực kỳ vui vẻ. Hắn xỉa ngón tay dài nhọn chống trán cao cao cười khẽ, “… Thật đúng là bắt chước bừa, đúng là phải để Nhiếp Hằng Thành nhìn thấy tên vưu vật Nhiếp Đề này.”
Du Quan Nguyệt biết rất rõ suy tính của Nhiếp Đề nhưng vẫn rất khó xử.
Dầu rằng Cừu trưởng lão tính khí nóng nả như lửa, nhưng chỉ cần là tử đệ dưới đôi cánh của mình sẽ cực kì bao che khuyết điểm, còn dốc lòng truyền dạy võ nghệ, Du Quan Nguyệt từ sau khi rơi vào tay răng của người, chỉ được mỗi mấy năm làm thủ hạ của Cừu trưởng lão xem như mới yên lòng, đối với ông cụ ấy y rất có mấy phần tình cảm.
“Thiếu Quân, ngài xem…?” Y trù trừ.
Mộ Thanh Yến: “Giết.”
“??” Du Quan Nguyệt, “Thiếu Quân!”
Thù Thúy Lan bị hù dọa ngây ra tại chỗ.
“Cừu trưởng lão vốn không có con trai, chỉ cùng người vợ đã khuất có một cô con gái, lấy chồng ở xa rồi.” Mộ Thanh Yến không thèm để ý.
Du Quan Nguyệt vội giải thích: “Không không, Cừu trưởng lão có một người con trai, do tỳ thiếp ông ấy nạp lúc tuổi già sinh ra.”
Mộ Thanh Yến sâu kín thở dài: “Anh xem, già rồi thất tiết còn không bằng kỹ nữ già hoàn lương, đã mấy mươi tuổi đời rồi còn nạp tỳ thiếp, thật sự là không tuân thủ đức hạnh. Nhưng mà vẫn cứ giết đi, con trai của Cừu trưởng lão căn bản chưa lấy vợ, con gái đâu ra.”
Du Quan Nguyệt suýt chút tắt thở ― hóa ra ngài biết là Cừu trưởng lão có con hả!
“Đừng đừng đừng, dù là con trai Cừu trưởng lão không lấy vợ, nhưng bên cạnh hắn cũng có mấy tỳ nữ được cưng chiều. Sau khi Cừu trưởng lão qua đời, con ông ấy ngây ngây ngẩn ngẩn sau hai năm cũng say rượu mà chết, tiếp đó mấy tháng, tỳ nữ của hắn nhờ phúc để lại sinh một cô con gái, từ đó Thiên Cơ trưởng lão Hồ Phượng Ca đã phái người nhận nuôi dưỡng.”
“Thật à.” Mộ Thanh Yến nhẹ nhàng nói, “cô ta nhìn chả giống Cừu trưởng lão gì cả, chắc là Nhiếp Đề phải kẻ giả mạo tới thăm dò cơ mật thôi. Để phòng sự cố nhỡ khi, vẫn cứ giết đi.”
“Thiếu Quân.” Du Quan Nguyệt bất đắc dĩ, “Ta từ xa xa ngó qua rồi, cô bé này đúng thật là Thù Thúy Lan.”
“Được rồi được rồi.” Mộ Thanh Yến không thể không bằng lòng, giơ tay lên về phía thiếu nữ đang quỳ trên mặt đất.
Thù Thúy Lan bị doạ run lẩy bẩy, run run rẩy rẩy tiến tới quỳ bên cạnh ghế ngồi của Mộ Thanh Yến.
Mộ Thanh Yến lấy tay trái chống cằm, tùy ý nhìn thiếu nữ mỉm cười, trong chốc lát hào quang chói mắt, như châu như ngọc, “Ta thích cô nương thông minh, cô thông minh sao?”
Thù Thúy Lan như hơi ngây ra, ngơ ngác gật đầu, “… Thúy Lan tình nguyện học thông minh vì Thiếu Quân.”
Mộ Thanh Yến cười: “Thông minh thì tốt, vậy ta nói thẳng nhé ― ta sắp đánh tới đàn Bạch Hổ, tiếp theo là Thanh Long rồi Huyền Vũ, rồi sẽ là Cung Cực Lạc. Ta sẽ làm thịt tên Nhiếp súc đoạt lại ngôi vị Giáo chủ. Cho nên, chớ nóng vội đặt cược, xem thêm mấy ngày đã, hiểu không?”
Thù Thúy Lan lo sợ không yên cúi người dập đầu.
Dẫn thiếu nữ ra ngoài xong, Du Quan Nguyệt lại chần chờ: “Thiếu Quân, dù sao thì nàng ta cũng được Nhiếp Đề nuôi lớn, dù nể mặt Cừu trưởng lão không thể giết nàng ta thì cũng nên tặng đi xa, tránh hỏng chuyện lớn.”
Mộ Thanh Yến khẽ cười: “Thù Thúy Lan thật sự đã chết yểu vào năm năm tuổi, lúc bốn năm trước ta mới vào Thần giáo, Nhiếp Đề mới vội vội vàng vàng tìm không biết bao nhiêu cô gái xinh đẹp đến giả trang thành Thù Thúy Lan. Có điều chưa đợi đến lúc lão dạy xong người thả ra thì ta đã chạy mất, cô gái này chưa có đất phát huy tác dụng.”
“Ra là thế!” Du Quan Nguyệt kinh hãi, “Đã vậy, tuyệt đối không thể giữ ả, lập tức trừ bỏ!”
“Không vội.” Mộ Thanh Yến mỉm cười, “Cô bé này nom không tệ, lại còn biết diễn, người Nhiếp Đề đã khổ tâm dạy dỗ thì đừng lãng phí một cách vô ích.”
Du Quan Nguyệt vừa giật mình vừa bội phục, cảm thấy Mộ Thanh Yến thâm sâu khó lường, hết dám hỏi.
Ngày hôm sau, Nhiếp Đề lại đưa tới cô thứ hai. Du Quan Nguyệt tức suýt thì đập bể gương, dạo này mỹ nhân kế còn có thể chơi kiểu một không được thì lại tiếp một nữa hả! Y tức mình bước ra cửa phòng, quyết ý thay mặt Tân chủ quân giám định hồ ly tinh mới tới.
Ai ngờ lần này đưa tới không phải là thiếu nữ quyến rũ, mà là một phụ nữ trung niên cực kỳ xinh đẹp, bà còn có một cái tên thật đáng khiếp sợ, Tôn Nhược Thủy ―― hơn hai mươi năm trước, là một trong các mỹ nhân đưa Nhiếp Hằng Thành đưa đến bên cạnh Mộ Chính Mính, cũng là vị cuối cùng thành công.
Mẹ ruột Mộ Thanh Yến.
Lần này đến nói Du Quan Nguyệt cũng không dám nói, tiếc là mình chẳng thể ra khỏi phòng.
Chuyện năm xưa về Tôn Nhược Thủy ở tầng lớp cấp cao trong giáo không phải là bí mật.
Mộ Chính Minh thời bé từng có một lão phu tử dạy vỡ lòng, không lâu sau đã rời dãy núi Hãn Hải ẩn cư phương xa, sau một cơn ôn dịch không rõ tung tích. Để khống chế Mộ Chính Minh, Nhiếp Hằng Thành ngàn cay vạn đắng tìm được cô con gái bé nhỏ còn sống sót của vị lão phu tử này, sau khi dạy dỗ mấy năm đã đưa đến bên cạnh Mộ Chính Minh.
Lúc ấy Mộ Chính Minh đang huyết khí cường tráng, cộng thêm nể tình lúc xưa của thầy dạy vỡ lòng, tất nhiên đã nhìn Tôn Nhược Thủy với con mắt khác, huống chi mỹ nhân như ngọc, hiếm thấy trên đời. Nam nữ trẻ tuổi ngày đêm bầu bạn, không lâu sau đã thành thân, năm, sáu tháng sau sinh ra Mộ Thanh Yến.
Cừu trưởng lão tức giận chửi đổng, Nhiếp Hằng Thành thì đắc ý vô vàn.
Song điều mà mọi người không ngờ tới chính là, người trong tim của Tôn Nhược Thủy cũng không phải là Mộ Chính Minh, mà là Nhiếp Đề thanh mai trúc mã lớn lên cùng bà.
Trong mắt Nhiếp Hằng Thành, Tôn Nhược Thủy chẳng qua chỉ là một món công cụ tiện tay, ông ta đã cho chất nhi cưới hỏi đàng hoàng với một cô con gái của người huynh đệ kết nghĩa mất sớm, Lý Như Tâm. Trước mặt người bá phụ nói một không hai này, Nhiếp Đề cũng chẳng dám mở miệng.
Về sau, Cừu trưởng lão chết không rõ ràng, Mộ Chính Minh bị thương nặng ly kỳ mất tích, mấy tháng sau đó, Nhiếp Hằng Thành cũng chết dưới tay Thái Bình Thù, Triệu Thiên Phách và Hàn Nhất hạt triệu tập người ngựa điên cuồng báo thù, không lâu sau đã lọt vào tai hoạ ngợp trời ở bên bờ Thanh La Giang.
Hỗn loạn máu chảy như biển thây ngang khắp đồng liên tiếp ấy, lại thành toàn tâm nguyện của Tôn Nhược Thủy.
Bà ta ném đứa con trai chưa đầy năm cho bảo mẫu, không chờ kịp chạy đến bên cạnh Nhiếp Đề. Dù Nhiếp Đề sợ điều tiếng không dám gần gũi bà, thế nhưng chỉ cần thường xuyên có thể nhìn thấy người trong lòng, Tôn Nhược Thủy cũng đã vui sướng.
Không lâu sau, Mộ Chính Minh xuất hiện, dẫn cậu con trai năm tuổi đi, cũng gửi cho bà ta một bức thư ly hôn, bà bèn chính thức gả làm bình thê của Nhiếp Đề, sống cuộc sống tôn vinh của Đại Giáo chủ phu nhân, trước hô sau ủng, tuyệt không thể tả.
Nhưng mà rất lạ là, sau khi cả hai thật sự thành vợ chồng rồi thì trái lại ở chung không hòa thuận như trước. Nhiếp Đề hô hô quát tháo, vắng vẻ coi thường.
Tôn Nhược Thủy hiện giờ tuy đã trung niên, nhưng vẫn rất đẹp.
Bà sướt mướt kể lể mình đã nhớ con thế nào, Nhiếp Đề đã ngăn cản bà và con trai gặp nhau thế nào, quặn thấu tim gan ra sao, hơn một năm trước Mộ Thanh Yến và Nhiếp Đề đã sống với nhau không dễ, lần này đến đây hi vọng có thể biến chiến tranh thành tơ lụa vân vân…
Mộ Thanh Yến tựa như hóa thành một bức điêu khắc bằng muối lạnh như băng, lẳng lặng nghe lời nói dối chẳng ai tin nổi của người phụ nữ này.
“Hay là giết luôn đi.” Vẻ mặt hắn lạnh lùng.
Du Quan Nguyệt một chữ cũng không dám nói, ha ha cười ngây ngô.
Tôn Nhược Thủy cực kỳ chấn kinh, trách mắng: “Ngươi, thằng ngỗ nghịch, sao có thể…”
Một tỳ nữ mặt mày lanh lợi bên cạnh bà đứng ra hoà giải, “Phu nhân chớ vội, công tử chỉ nói đùa thôi, có câu máu mủ tình thâm, công tử dù gì cũng từ trong bụng phu nhân chui ra, sao lại thế…Áaa!”
Một tiếng thét thê lương, máu ấm áp đầy đất, tỳ nữ phơi thây tại chỗ, một vết kiếm xẹt qua từ vai trái đến eo phải sâu đủ thấy xương, bụng chảy ra. Tôn Nhược Thủy bị hù xụi lơ ra đất, gần như không kiềm được bài tiết.
Mộ Thanh Yến đặt thanh trường kiếm Ngân Nguyệt lên bàn, ngồi xổm xuống trước mặt Tôn Nhược Thủy, chậm rãi nói: “Đừng có lôi tôi vào vở mẹ hiền con hiếu nữa, trong lòng tôi và bà đều rõ nó là cái thứ gì. Bà vốn chẳng xứng làm một người mẹ, tôi dễ dàng khoan thứ cho bà, còn phụng dưỡng bà sống quãng đời còn lại, không phải là vì bà sinh ra tôi, mà là vì tôi đã đồng ý với cha.”
“Nên là, đừng chớ ép tôi hủy lời hứa mà giết người, Thần giáo chúng ta, cũng không kị chuyện giết người thân, nói vậy bà hiểu không?”
Tôn Nhược Thủy hoảng sợ gật đầu.
Mộ Thanh Yến quay đi, “Quan Nguyệt, anh có đem Loạn Phách châm trên người phải không, cho bà a mấy châm. Mai chúng ta phải ra tay rồi, không thể để bà ta làm hỏng chuyện.”
Du Quan Nguyệt như được đại xá, vội hấp tấp bảo có có, nếu không có y cũng có thể mài sắt thành kim ngay trong đêm!
Đêm đến, Mộ Thanh Yến mơ một giấc đã lâu không còn gặp nữa.
Trước năm tuổi, hắn không biết mình tên gì, cũng không biết mình là ai.
Những đứa bé lớn lên trong tạp viện kia đều có cha có mẹ, nếu cha mẹ có chết bên ngoài thì chí ít cũng còn biết bọn họ là ai, chỉ mỗi hắn thì không, cứ như sống giữa một đám hỗn độn. độc hắn không biết, phảng phất sống ở một mảnh trong hỗn độn. Đã thế hắn còn sớm hiểu chuyện, loại chuyện mờ mịt không rõ này làm hắn vô cùng sợ hãi.
Không ai nói chuyện với hắn, không thể bước ra khỏi phòng một bước, chăn đệm cứng ngắc, bốn bức tường lạnh lẽo, bữa no bữa đói, bất kể thế nào cũng chẳng có ai để ý đến. Có khi, hắn ngồi xổm ngó con kiến trong kẽ đất còn thấy hâm mộ.
Ban ngày nắng trời sáng rõ, từ khe cửa sổ hắn duỗi bàn tay nhỏ nứt nẻ muốn bắt lấy một sợi ấm áp.
Nhưng mà, chỉ là phí công.
Hắn sống trong tối tăm mãi đến năm tuổi, chỉ ê a gọi mấy tiếng, gầy như que củi, tái nhợt ốm yếu, gần như chẳng giống con người.
“Ôi chao, thật là nghiệp chướng mà, nuôi thế này chi bằng dứt khoát giết đi cho rồi.” Thi thoảng và bà lão đi ngang cứ dông dài mãi như vậy.
“Mụ già mau im miệng đi, đây là chuyện bọn chúng ta có thể bàn tán à?” Ông chồng thấp giọng quát lớn, “Rốt cuộc cũng là con cháu nhà họ Mộ, giết thi khó coi, nuôi cho tốt thì lại sợ tương lai thành họa lớn. Nuôi thế này là tốt nhất, lớn lên cũng là thứ bỏ đi thôi!”
“Ôi chao, mẹ ruột ăn ngon uống sướng sống trong tơ lụa, con trai sống chết cũng chẳng hỏi tới một câu, thật nhẫn tâm quá!”
“Ả đàn bà kia thật là đồ lòng lang dạ sói, cũng chỉ ỷ vào sắc đẹp gạt đàn ông thôi!”
Mộ Thanh Yến năm tuổi không hiểu ý nghĩa những câu nói đó, nhưng hắn vẫn nhớ rất rõ.
Trí nhớ của hắn vẫn luôn rất tốt.
Hắn nhớ rõ vào một đêm chạng vạng lắc rắc mưa rơi, sắc trời xanh đen, nước nhỏ tí tách, mớ tóc rối bù sinh chấy rận cắn hắn vừa đau lại vừa ngứa, móng tay gặm nham nhở gãi loạn, da đầu chảy máu khắp.
Nhưng cậu bé gầy còm nhỏ con không khóc, vì hắn biết sẽ chẳng ai đoái hoài đến.
Lúc ấy, một người đàn ông vóc dáng cao cao đạp vỡ cửa phòng, hiền từ ôm cậu vào lòng.
Người đàn ông ấy tỉ mỉ nhìn hắn, gọi hắn là ‘Yến Nhi’, sờ nắn tay chân gầy guộc, đầy đau lòng.
Từ đây, hắn có cha, hắn còn có tên.
Phụ thân tắm rửa cho hắn, cạo tóc, đút ăn, đắp thuốc nước vào từng một vết nứt da của hắn, dạy hắn nói viết chữ luyện công.
Phụ thân còn dẫn dắt hắn thưởng lãm đống sách vở, truy tìm học thức trong điển tịch cổ xưa, mặt trời lên mặt trăng lặn, thể nghiệm cảm giác động lòng người của nội lực dạo chơi trong kinh mạch. Phụ thân hy vọng hắn sẽ cử chỉ cao nhã, nói chuyện lễ nghĩa, cao cao như dãy núi, uyên bác như sa mạc, đi thưởng thức cảnh đẹp rực rỡ tuyệt vời của trời đất, cảm nhận trôi chảy của bốn mùa thay đổi.
Quan trọng nhất là, cha dạy hắn biết, ‘Yến Nhi là một đứa bé thông minh hiểu chuyện nhất trên đời này, vi phụ có một người con như thế, vui lắm”.
Mỗi lần nhớ tới chuyện cũ, Mộ Thanh Yến cảm nhận nhiều nhất không phải là vui vẻ, mà là nhớ lại chuyện cũ, nỗi đau của cha mà sợ.
Nỗi sợ khắc thật sâu.
Hắn thường nghĩ, nếu như cha bị thương nặng không khỏi, cô đơn chết đi trong một hang động nào đó? Nếu như cha vì nản lòng thoái chí mà đi luôn một mạch? Nếu như không ai đến tìm hắn, phải chăng hắn vẫn phải ngày qua ngày thối rữa đi trong gian phòng nhỏ rách nát kia.
Hắn kính yêu phụ thân, vượt qua tất thảy trên thế gian, hơn cả sống chết của mình.
Thế nhưng, nếu hắn chưa từng bước vào thế gian này, phải chăng cha sẽ được tự do hơn rất nhiều.
…
Hôm sau tỉnh lại, Mộ Thanh Yến giống như hoàn toàn chẳng xảy ra chuyện gì, tỉnh táo tự nhiên chỉ huy bài binh bố trận, bàn chuyện thật hư của đàn Thanh Long và Bạch Hổ với mọi người.
Dựa theo kế hoạch, Du Quan Nguyệt dẫn một số lượng ít người đi trước đánh nghi binh đàn Bạch Hổ vốn yếu nhất trong bốn đàn, Đàn chủ Tư Mã Chí đóng chặt cửa cung, liều chết không ra, liều mạng gửi thư xung quanh cầu binh cứu viện.
Đàn chủ đàn Thanh Long Liêu Đồ và hắn là huynh đệ kết nghĩa, nghe hỏi tự nhiên chạy đến cứu viện, bị Mộ Thanh Yến Liên Thập Tam bố trí trọng binh mai phục dọc đường vây chặt.
Một trận chém giết máu tanh, cuối cùng vì Liêu Đồ bị Mộ Thanh Yến một chưởng đánh đứt tâm mạch mà kết thúc, Liên Thập Tam nhanh gọn dọn dẹp tàn cuộc xong tập hợp người chạy đến đàn Bạch Hổ.
Du Quan Nguyệt đến trước tiếp đón quái lạ đầy mặt: “Vừa nãy còn thấy ở ngoài cổng nhốn nha nhốn nhao, mà nửa canh giờ trước chẳng nghe tiếng nào, không biết người đi đâu cả rồi.”
Y thấy Mộ Thanh Yến không nói không rằng, vẻ mặt mệt mỏi, vội chỉ huy thủ hạ dùng Cự Long thạch phá tan cửa cung Bạch Hổ, cả đám thừa thắng giết chóc đi vào.
Nhưng giống như Du Quan Nguyệt đã dự liệu, cửa trước, sảnh cung, thậm chí cả tiền điện cũng không có một ai. Đám người xông thẳng vào, rốt cuộc nghe ở hâu điện cung Bạch Hổ vài tiếng chém giết, cùng một giọng con gái tức giận —
“Đám vô sỉ khốn nạn các ngươi, gieo họa cho danh môn chính phái không tính, cho là bổn phận Ma giáo các ngươi đi, nhưng bây giờ đến cả dân làng dưới chân cũng gieo họa nốt, các ngươi có còn là con người hử! Hôm qua mấy người mà các ngươi bắt đi luyện thi khôi nô, phần lớn còn là con em dốc sức vì Ma giáo các ngươi đó! Không nói công đức vậy vẫn nên chết sớm mau siêu sinh đi!”
Du Quan Nguyệt còn chưa rõ lắm, ánh mắt sắc bén đã để ý thấy vẻ mặt Mộ Thanh Yến đã hoàn toàn thay đổi.
Thật không phải gọi là vui mừng hoan hỉ, mà là… sống lại. Cứ như một bức tranh thuỷ mặc thanh thoát lạnh lẽo kia, bỗng cháy lên sắc thái tươi mới rực rỡ. nhiên đốt lên tươi nghiên sáng rỡ sắc thái. Lưu bạch* đơn sơ trống trải đã thoáng chốc thành khói lửa nhân gian.
(*) 1 thủ pháp trong sáng tác nghệ thuật, thường là trong hội họa TQ, cố ý để lại khoảng trống để tạo kết cấu tinh tế cho hình ảnh tổng thể, giành không gian cho tưởng tượng.
Cổng chính hậu điện bị phá tan, giữa vũng máu và đám thi thể là Đàn chủ đàn Bạch Hổ Tư Mã Chí nằm không nhúc nhích, bên cạnh là một thiếu nữ tuổi còn trẻ vóc người mảnh dẻ đang đứng, vây quanh cô hai vòng là giáp chúng đàn Bạch Hổ.
Liên Thập Tam hừ hừ quát tháo rồi dẫn người chém giết vào, thấy người là muốn tước vũ khí, giáo chúng ở đàn Bạch Hổ vừa mới bị cô gái chà đạp không nhẹ, giờ lại thấy một đám đông xông vào, càng rối thành một nùi.
Cô gái cầm một thanh đao ánh sắc vàng đỏ kim chói lọi, cô nghe thấy tiếng, chợt xoay lại, thấy rõ người đến bèn nở một nét tươi cười ngạc nhiên.
Du Quan Nguyệt thấy cô nương này cứ như một quầng nắng rực, mãnh liệt soi sáng, chiếu đến ấm áp lòng người. Y ghé mắt liếc qua, quả nhiên, Mộ Thanh Yến cũng bị mặt trời thiêu ‘nóng’, cả khuôn mặt đầy mỉm cười ấm áp, chậm rãi đi thẳng tới.
Lúc này, một thanh niên anh tuấn tay cầm trường kiếm vừa bước ra, trên thân kiếm dính không ít máu. Vẻ mặt lạnh lùng đi tới, “Chiêu Chiêu, bên kia đã dọn dẹp sạch sẽ, Tư Mã Chí chết rồi hả?”
Du Quan Nguyệt thấy bên cạnh lạnh lẽo cả, phát hiện sắc mặt Chủ Quân nhà mình xanh xám thiệt dọa người.
Nắng trời ấm áp bay bay rơi bịch vào trong nước đá, phụt tắt.