“Con nghĩ xem, Hiến Dung chỉ nhỏ hơn Linh Nhi có mấy tháng, sao có thể là con của ta? Chẳng qua là vì Hiến Dung không biết sự thật nên con bé mới nghĩ ta là mẫu thân ruột thịt.”
Thẩm Cẩm Tú kể xong đoạn chuyện cũ này, bà cảm khái từ tận đáy lòng, “Hiến Dung là do một tay ta nuôi lớn, ở trong lòng ta, con bé giống như con và Linh Nhi vậy, thậm chí còn thân thiết hơn. Nếu không có đứa bé này, ta thật sự không biết phải trải qua những năm tháng cô tịch dài đằng đẵng như thế nào.”
Hiến Dung được sinh ra trong một tình huống đặc biệt như vậy, thân thể của con bé vốn bẩm sinh gầy yếu và việc nuôi nấng Hiến Dung khi còn nhỏ là vô cùng khó khăn. Thẩm Cẩm Tú đã dành cả thể xác lẫn tinh thần cho con bé, ngày đêm lo lắng chăm sóc, bà cố gắng hết sức để Hiến Dung mau chóng hồi phục. Cũng may bà có y thuật giỏi, Dương phủ cũng không thiếu tiền nên cuối cùng đứa bé cũng sống sót. Dương Huyền Chi rất tin tưởng bà, nên đã giao toàn quyền cho Thẩm Cẩm Tú về cách nuôi dạy Hiến Dung.
Mục tiêu bồi dưỡng duy nhất của các nhà thế gia đối với tiểu thư của họ chính là chăm sóc dạy dỗ ra một vị phu nhân quý tộc cho mai sau. Cầm kỳ thi họa đều không phải trọng điểm, vì điểm mấu chốt là người nữ ấy phải biết may vá thêu thùa, khéo léo trong việc quán xuyến nhà cửa, am hiểu sâu sắc những lễ nghi và gia phả của giới thượng lưu, và học một số kiến thức bên lề như: cách đấu trí với tiểu tam ra sao, hay là làm cách nào để bắt chẹt những lão công của mình, v.v… Thế nhưng, Thẩm Cẩm Tú vốn không phải con nhà thế gia, lại còn trải qua vận mệnh đau thương như vậy, bà không muốn cả đời Hiến Dung chỉ có lập gia đình và sinh con, giống như dây tơ hồng đến chết cũng chỉ có thể bám víu vào một thân cây. Nội bộ triều Tấn đang có một hoàng đế ngốc nghếch như vậy, bên ngoài lại có tộc Hung Nô và người Khương nhìn chằm chằm như hổ đói, tình hình chính sự mai sau chắc chắn sẽ biến hóa khôn lường. Nếu như chẳng may rơi vào cảnh loạn ly, thì một nữ tử chân yếu tay mềm nhất định phải có khả năng tự bảo vệ mình.
Thế nên, Thẩm Cẩm Tú đã phòng ngừa chu đáo và cố tình trau dồi một số kỹ năng sinh tồn cho Hiến Dung, để giảm bớt những tính nết không tốt của các tiểu thư thế gia. Từ khi Hiến Dung lên năm tuổi, bà đã để cho con bé chạy bộ trong vườn mỗi ngày, tập luyện bộ Ngũ Cầm Hí* do Hoa Đà truyền lại. Kết quả của việc kiên trì rèn luyện mỗi ngày chính là Hiến Dung ngày càng trở nên hoạt bát và khỏe mạnh hơn, thần sắc cũng tốt hơn, ai có thể ngờ rằng con bé đã từng suýt chết non đâu chứ.
Thẩm Cẩm Tú không bao giờ ngăn cản những điều Hiến Dung muốn học, bà để mặc cho con tự do phát triển. Khi Hiến Dung muốn học y, Thẩm Cẩm Tú liền dốc lòng dạy con mọi thứ, đưa con vào núi hái thuốc và cho con làm quen với các loại rau dại và cỏ dại. Bà cũng đưa con đến khu người nghèo để chữa bệnh cho những người dân khổ cực ở đó, để con học cách không phân biệt đối xử với mọi người theo tầng lớp giai cấp từ khi còn nhỏ. Thẩm Cẩm Tú rất tự hào vì đã nuôi dạy một đứa trẻ có thể suy nghĩ độc lập và có tính tự chủ như vậy, đây là niềm an ủi tinh thần duy nhất của bà trong mười bảy năm qua. Đứa con này đối với bà có ý nghĩa hơn cả hai người con ruột.
Sau khi nghe tất cả những điều này, tảng đá đè lên trái tim A Diệu bấy lâu nay cuối cùng cũng đổ xuống. Chàng thực sự hạnh phúc vì cuối cùng cũng có thể quang minh chính đại thừa nhận tình cảm của mình dành cho Hiến Dung. Nhưng niềm vui chỉ kéo dài trong chốc lát, nghĩ đến tình cảnh hiện tại của mình, tâm trạng A Diệu lại rơi xuống mức thấp nhất. Ngày mai là lễ sắc phong hoàng hậu và chàng không có khả năng ngăn chặn nó. Chàng và nàng, lẽ nào phải bỏ lỡ nhau ở kiếp này?
Từ trong tủ, Thẩm Cẩm Tú lấy ra một gói bánh ngọt được bọc bằng giấy dầu, là bánh xốp hạch đào, nhưng chỉ có một cái. Bà không bảo A Diệu ăn, mà tự mình cắn từng miếng nhỏ.
A Diệu cũng không để ý đến cái bánh ấy, chàng nhìn bà đầy chờ đợi: “Bây giờ, con còn có thể làm gì để cứu nàng ấy đây?” Vào thời điểm nhạy cảm như vậy, Thẩm Cẩm Tú lại bất chấp nguy hiểm gọi chàng đến đây, nhất định vẫn còn cơ hội để cứu nàng.
Nào ngờ, Thẩm Cẩm Tú thở dài một tiếng: “Không kịp nữa rồi. Chuyện sống chết của cha Hiến Dung đều nằm trong tay con bé, Hiến Dung nhất định phải ngồi lên ngôi vị hoàng hậu.”
A Diệu tuyệt vọng, áy náy tự trách mình: “Đều là lỗi của con, con đã đẩy nàng vào hố lửa......”
“Con là bị ép buộc, hiện giờ nói những lời này cũng không giải quyết được gì.” Thẩm Cẩm Tú đem một chút bánh còn sót lại cho vào miệng, chậm chậm nuốt xuống. “Con đừng tự trách mình nữa, chúng ta đã không ngăn chặn được mọi chuyện thì nên nhìn đến sau này. Bắt đầu từ ngày Hiến Dung lên làm hoàng hậu, mới thực sự là những tháng ngày nguy hiểm cận kề.”
Tâm trí A Diệu kịch liệt chuyển động, chàng nhìn vẻ mặt lo lắng tiều tụy của Thẩm Cẩm Tú.
“Triệu Vương đã thèm muốn ngai vàng này từ lâu, giờ ông ta đã già, nhất định sẽ không đợi được lâu, bây giờ ông ta đã khống chế hoàng đế, có lẽ sẽ không giết vua mà sẽ giở trò thoái vị.” Trong mật thất khá lạnh, nhưng trên trán Thẩm Cẩm Tú lại lấm tấm mồ hôi, bà dùng khăn tay lau đi, “Hoàng đế bị phế truất vẫn còn có giá trị lợi dụng, vì một nhóm lớn gia tộc Tư Mã sẽ chiến đấu vì hắn. Nhưng nếu hoàng hậu bị phế truất thì sẽ như thế nào, trong sử sách đã ghi rất nhiều điển tích, không một ai có cái chết êm đẹp cả đâu!”
A Diệu bất giác rùng mình.
Mồ hôi trên trán Thẩm Cẩm Tú đổ ra ngày càng nhiều, thân thể bà có chút run rẩy. A Diệu thấy bà có gì đó không ổn, lo lắng hỏi bà có chuyện gì, Thẩm Cẩm Tú xua tay và tiếp tục: “A Diệu, Hiến Dung có thể sống sót hay không chỉ có thể dựa vào con. Người con muốn cứu không phải là tiểu thư của Dương phủ nữa rồi, mà là hoàng hậu của triều Tấn. Điều đó có nghĩa là con buộc phải tranh đấu với những người nắm giữ quyền lực to lớn, con có dám không? Con có thể làm được không?”
A Diệu trầm giọng nhận lời, giọng nói đầy mạnh mẽ kiên quyết: “Chỉ cần có thể cứu nàng, con nguyện trả giá bằng cả tính mạng!”
“Con đừng xem thường mạng sống của mình, mạng sống của con rất quan trọng, đừng quên, Linh Nhi còn cần con chăm sóc.” Bà dừng lại thở dốc, mồ hôi đầm đìa, cau mày như đang chịu đựng đau đớn. A Diệu muốn giúp bà, nhưng bà xua tay từ chối, lúc này bà dùng cách dựa vào lưng ghế mới có thể đứng vững.
“Để chống lại họ, con phải trở nên mạnh mẽ hơn và cố gắng dùng tất cả sức mạnh mà con có. Ngày mai tại buổi lễ, cha của Hiến Dung sẽ được thả ra. Ông ấy là người gan dạ và có tính toán, nhất là rất yêu thương Hiến Dung, thế nên ông ấy có thể sẽ liên minh cùng con, chỉ là……” Bà thở dài cười khổ, “Ông ấy cùng Lưu Uyên là kẻ thù truyền kiếp, chỉ sợ đối với con sẽ không……”
Thẩm Cẩm Tú nói năng ngày càng khó khăn, cơ thể bà ngày càng run rẩy, tốc độ nói cũng ngày càng gấp gáp, như thể bà đang đuổi theo thời gian: “Nếu nhất thời cảm thấy mệt mỏi bất lực, con cũng đừng nản lòng mà bỏ cuộc, cũng không được lỗ mãng liều lĩnh, hãy học cách giấu giếm thực lực và chờ đợi thời cơ.”
Mấy câu nói này dường như đã tốn rất nhiều sức của Thẩm Cẩm Tú, bà đứng thẳng không được nữa liền ngã quỵ xuống, A Diệu vội vàng tiến lên đỡ lấy bà. Còn chưa kịp chạm đến, cả người bà đã mềm nhũn trên đất.
A Diệu lập tức hiểu ra, nghiêm giọng chất vấn: “Vừa rồi người đã ăn cái gì thế?!” Bà còn chưa kịp trả lời, một tay A Diệu ôm lấy vai Thẩm Cẩm Tú, tay còn lại giữ đầu gối bà và bế bà lên, chàng bước đi nhanh về phía cửa mật thất, “Con đưa người đi tìm thầy thuốc.”
Bà dựa đầu vào vai con trai cười gượng: “Không cần đâu, Thẩm Cẩm Tú ta đã bỏ độc dược thì liệu có mấy thầy thuốc có thể giải? Đừng lãng phí thời gian, hãy nghe ta nói hết!”
Tim A Diệu đột nhiên co rút mãnh liệt, hốc mắt chàng đỏ lên: “Tại sao người làm thế?!”
“Hãy giao đầu của ta cho Lưu Uyên, như vậy con mới lấy được lòng tin của ông ta……” Cơn đau bụng càng lúc càng không chịu nổi, bà đau đến co giật, khóe miệng chảy ra máu đen, “Bế tắc này, nhất định phải dùng đầu của ta để phá giải. ”
Thân thể A Diệu run lên, những giọt nước mắt nóng hổi cứ thế trào ra, chàng tức giận gầm lên: “Con không cần người làm thế! Con và người vừa mới nhận nhau, Linh Nhi còn không biết người đang còn sống, lẽ nào người cứ như vậy rời đi, người vứt bỏ chúng con một lần còn chưa đủ sao, bây giờ người còn muốn rời bỏ chúng con vĩnh viễn như thế?”
“Thật xin lỗi con……” Thẩm Cẩm Tú đưa bàn tay run rẩy lên, bà muốn vuốt ve mặt A Diệu, A Diệu cuống quít cầm lấy tay bà đặt lên mặt mình. Thẩm Cẩm Tú mãn nguyện thở dài một tiếng, “Nói cho ta biết thêm về Linh Nhi đi, con bé là một người như thế nào......”
Trong lòng A Diệu trào dâng nỗi bi thương, chàng nắm tay mẫu thân, vội vàng nói: “Linh Nhi rất xinh đẹp, tính cách thì ấm áp, bất kể như thế nào muội ấy cũng đều nở nụ cười, dù chịu bao nhiêu uất ức cũng không hề oán giận. Muội ấy có một đôi tay khéo léo, là cô nàng có tài nghệ thêu thùa giỏi nhất ở Tả Quốc Thành, chỉ cần cho muội ấy xem một mẫu hoa văn nào đó, ngay lập tức muội ấy có thể thêu được ngay. Lúc chúng con còn khốn khó, đều dựa vào nghề thêu thùa của Linh Nhi sống qua được ít ngày. Đúng rồi, muội ấy còn có chất giọng như chim sơn ca, hát hay hơn bất kỳ người nữ nào trên thảo nguyên. Bất cứ khi nào con không vui, Linh Nhi đều hát cho con nghe và con không còn cảm thấy phiền muộn nữa, có thể dũng cảm đối mặt với mọi bất công.”
Đôi mắt vốn sáng ngời của Thẩm Cẩm Tú từ từ tối sầm lại, bà chỉ nghe được A Diệu nói liên miên, trong bụng bà đang quặn thắt và tiếp tục nôn ra một ngụm máu đen: “Đáng tiếc, ta không thể nghe tiếp được nữa……”
A Diệu đau đớn lấy khăn tay lau đi vết máu trên khóe miệng bà, chàng nức nở nói: “Linh Nhi luôn mong chờ được gặp người, muội ấy vẫn luôn cho rằng, năm ấy người bị bức ép nên mới bỏ rơi chúng con......”
“Linh Nhi của ta là một đứa trẻ thiện lương.....” Bà mở miệng hít một hơi, giọng nói ngắt quãng: “Không gặp được Linh Nhi, là tiếc nuối lớn nhất của ta, giờ đây ta chỉ có thể giao phó con bé cho con chăm sóc……” Bà cố sức chỉ vào tủ bên giường: “Bên trong có bốn phong thư, giúp ta giao cho Hiến Dung và cha con bé, còn có cho con và Linh......” Lời còn chưa nói xong, hai tay bà rủ xuống, hơi thở dần yếu đi.
A Diệu khóc không thành tiếng, ôm chặt lấy bà không chút do dự, lớn tiếng gọi: “Mẫu thân!”
Trên mặt Thẩm Cẩm Tú đã bao phủ một tầng tử khí màu đen, nghe vậy ánh mắt bà đột nhiên sáng lên, khóe miệng mỉm cười, tựa như ánh hào quang bùng lên rồi tắt lịm: “Đây là lần đầu tiên con gọi ta......”
A Diệu gọi liên tiếp tiếng “Mẫu thân”, trong lòng chàng đau nhói như có móng vuốt sắt cào vào tim. Chàng chưa kịp nói với bà rằng, trong giấc mơ của chàng thường xuất hiện một giọng nói êm dịu dễ nghe và đôi lúc còn khe khẽ hát một bài hát ru nào đó. Thân ảnh của bà bị bao phủ trong một tầng sương trắng, nhìn không rõ mặt, nhưng nhất định là một mỹ nhân. Chàng biết rằng đây là mẫu thân của mình và giống như tất cả những người mẹ trong thiên hạ này, bà vô cùng yêu thương con mình. Trong những giấc mơ ấy, chàng đã gọi tiếng “Mẫu thân” đến vô số lần. Chỉ trong giấc mơ, chàng mới có thể hét lên mà không gặp bất cứ trở ngại nào, tiếng gọi ấy như thể hiện hết sự quyến luyến sâu sắc của chàng dành cho mẫu thân mình.
A Diệu khàn giọng nắm lấy tay bà: “Con không hận người nữa...... Thật ra, kể từ thời điểm khi con biết người là mẫu thân của con, con đã không thể hận người. Cầu xin người, đừng rời xa con……”
Con đường phía trước mênh mông mù mịt như vậy, sương mù đã dăng dày đặc, chàng cần sự dẫn dắt của mẫu thân. Chàng đã thiếu vắng tình thương của mẹ từ khi còn nhỏ, cả niềm vui của những mối quan hệ giữa con người với nhau mà chàng chưa bao giờ được hưởng thụ, chàng cần phải cảm nhận lại từ bà. Ông trời đã tước đoạt của chàng một lần rồi, vì sao lại để chàng đánh mất một lần nữa?
Ánh nến làm nổi bật sườn mặt Thẩm Cẩm Tú, trên mặt bà tỏa ra một tia sáng yếu ớt cuối cùng, ánh mắt bà rời rạc: “Con phải bảo vệ Hiến Dung, mắt trái của con bé không nhìn thấy được……”
A Diệu sững sờ.
Môi Thẩm Cẩm Tú khẽ mấp máy, thanh âm yếu đến mức không thể nghe thấy. A Diệu dán tai vào môi bà, chỉ nghe được mấy chữ này: “Vì cứu hai người xa lạ......”
Hồn vía A Diệu bấn loạn, chàng vội vàng truy hỏi: “Là ở Tấn Dương sao, có phải nàng ấy đã cứu hai tiểu nô lệ Hung Nô không?”
Thẩm Cẩm Tú không thể mở mắt ra được nữa, từ trong cổ họng bà tuôn ra một chuỗi bọt máu, bà cố sức phát ra mấy âm tiết mơ hồ. A Diệu đang định hỏi lại, chợt phát hiện mẫu thân nằm trong lòng mình đã ngừng thở.
Ánh nến lờ mờ trong mật thất đã cháy đến tận cùng, giãy giụa nhảy lên mấy lần rồi tắt ngấm. Khói xanh lượn lờ bay lên, bốn phía chìm vào bóng tối vô tận, yên tĩnh đến đáng sợ. Thời khắc này, thời gian như ngưng trệ, cả thể xác và tinh thần của chàng cũng chết lặng, mọi thứ xung quanh đối với A Diệu hoàn toàn trở nên vô nghĩa.
Không biết qua bao lâu, tiếng đá đánh lửa ma sát vào nhau vang lên thanh âm, một ngọn nến được thắp lên, ánh lửa ấy kéo người trước mặt ra khỏi bóng đêm dài.
Cổ Li lặng lẽ nhìn A Diệu đang ngồi trên mặt đất. Chàng ôm thi thể của Thẩm Cẩm Tú, đôi mắt đỏ ngầu đến đáng sợ, vẻ đau buồn trên khuôn mặt chàng khiến cho một người từng thấy nhiều chuyện sinh ly tử biệt như Cổ Li cũng không dám nhìn thẳng.
A Diệu hóa dại nhìn mẫu thân đang nằm trong lòng mình, bà tựa hồ đã ngủ say, hai mắt nhắm chặt, khóe miệng còn mang theo nụ cười ôn nhu.
Đẹp như vậy, dịu dàng như vậy, giống như người mẹ trong ký ức của chàng. Chỉ là bà không còn nhìn chàng với ánh mắt dịu dàng ấy và không thể chỉ dẫn phương hướng cho chàng được nữa. Lồng ngực của bà không còn phập phồng, cơ thể không còn chút hơi ấm, chính điều này đã nói với chàng ngàn lần sự thật mà chàng không muốn đối mặt: Chỉ vẻn vẹn ba ngày chàng nhận mẫu thân, thì đã mất đi bà mãi mãi!
Cổ Li thở dài một tiếng: “Hãy đặt bà ấy xuống đi. Sự bi thương này cần phải nhanh chóng qua đi, huynh không có nhiều thời gian đâu. Việc tiếp theo chính là…… huynh…...nên ra ngoài.”
A Diệu ngước khuôn mặt đẫm nước mắt lên, lạnh lùng nhìn Cổ Ly: “Là cô nói cho bà ấy phải không?”
Cổ Li không nói gì.
*****
Chú thích:
- Ngũ Cầm Hí (Năm loài thú nô đùa): là một bài khí công cổ đại, tương truyền là của Hoa Đà sáng tạo ra, dùng để tập dưỡng sinh. Bộ Ngũ Cầm Hí đã tồn tại và phát triển hơn 1800 năm, gồm năm loài thú là Hổ (cọp), Lộc (nai), Hùng (gấu), Viên (vượn), Điểu (chim). Mỗi hí gồm 2 thức, mỗi thức vài động tác.
Đặc điểm của Ngũ cầm hí là phối hợp học thuyết tạng phủ kinh lạc của đông y, sự kết hợp của “ngũ hí” hay riêng rẻ từng hí đều có tác dụng tốt cho cơ thể. Ngũ Cầm Hí mô tả cái uy mãnh của Hổ; cái an nhàn thoải mái của Nai; cái trầm tĩnh của Gấu; cái linh hoạt của Khỉ; cái nhẹ nhàng sắc bén của chim Hạc.
- Bánh xốp hạch đào:
*****