Beta: Hoàng Lan
Thanh Hà và Hà Đông gây rối ở bên ngoài, Dương Hiến Dung cũng không ngăn cản, đúng là mẹ con bọn họ đều là con rối, nhưng không phải ai cũng có thể tùy tiện giẫm đạp hay bắt nạt bọn họ.
Lương Hoàng hậu chạm phải cái mũi xám xịt, cộng thêm việc Đông Hải Vương phi Bùi thị tiến cung nhắc nhở, Đông Hải vương kiểm soát quyền lực thực tế, đế hậu cũng phải nhượng bộ. Lương Hoàng hậu chỉ đành phải trục xuất nữ quan truyền lời ra khỏi cung, sau đó tự mình đến cung Hoằng Huấn một chuyến, đẩy hết tội lỗi lên đầu nữ quan, nói nữ quan truyền sai lời, tất cả chỉ là hiểu lầm.
Đều sống trong hoàng cung, Dương Hiến Dung cũng tạo bậc thang cho em dâu bước xuống: “Đều là người một nhà, có gì hiểu lầm cứ nói ra là được, sắp đến ngày giỗ của tiên đế, Hoàng hậu còn phải bận rộn lo liệu việc tế lễ, hai nữ nhi này của ta đã gây thêm phiền toái cho Hoàng hậu rồi.”
Lương Hoàng hậu vội nói: “Không phiền, nếu không phải các nàng làm to chuyện, lúc này ta vẫn chẳng hay biết gì đâu”
Từ đó, giữa chị em bạn dâu lại khôi phục sự hòa thuận, Lương Hoàng hậu cũng không dám đụng vào cung Hoằng Huấn nữa.
Vào ngày giỗ của Huệ Đế, lần đầu tiên Dương Hoàng hậu rời khỏi cung Hoằng Huấn thực hiện tế lễ, bà tức giận mắng Hung Nô Hán quốc tung tin đồn Đông Hải vương hành thích vua: “Đông Hải vương hiền đức, đánh bại nghịch tặc Tư Mã Dĩnh, đưa tiên đế từ Trường An trở về Lạc Dương, một năm này biên quan và Hán quốc xảy ra giao chiến, Hung Nô lòng muông dạ thú, tung tin đồn nhảm ly gián hoàng tộc, mọi người chớ có mắc bẫy của địch quốc …”
Vào ngày giỗ của Huệ Đế, Dương Hiến Dung rửa sạch oan khuất cho Đông Hải vương, tuy nhiên lời đồn trong dân chúng vẫn không dừng lại, bọn họ nói Dương Hoàng hậu bị Đông Hải vương ép buộc, không thể không nói những lời trái lương tâm đó.
Cùng lúc ấy, tại Hán quốc cũng lưu truyền một tin đồn ——Hoàng đế Lưu Uyên của Hán quốc đã lấy được quốc tỉ Tân Mãng soán ngôi, ông ta là con của trời, được ông trời phái xuống phục hưng họ Lưu của Hán quốc.
Hoàng đế Lưu Uyên của Hán quốc dời đô đến Bình Dương (Lâm Phần, Sơn Tây), cách đô thành Lạc Dương của Đại Tấn ngày càng gần, dã tâm cướp đoạt Trung Nguyên rõ như ban ngày.
“Đúng lúc” có ngư dân vớt được một chiếc ngọc tỷ ở trong nước, phía trên khắc “Có tân bảo chi”, đó chính là ngọc tỷ từng được Vương Mãng sử dụng, vị Hoàng đế khai quốc, người đã soán nhà Hán. Thật ra đó chỉ là vở kịch do Lưu Uyên dựng nên mà thôi, ai chẳng biết khắc dấu, năm đó trong cuộc khởi nghĩa Trần Thắng - Ngô Quảng, bọn họ còn nhét mảnh vải vào bụng cá, viết “Đại Sở hưng, Trần Thắng vương”. Hành động này của Lưu Uyên là muốn truyền bá uy danh của Hán quốc trong dân gian, chuẩn bị cho dã tâm đánh chiếm Trung Nguyên trong tương lai.
Lưu Uyên cố ý khắc thêm ba chữ “Uyên hải quang” phía sau ngọc tỷ, dù sao ông ta cũng nhận hoàng đế nhà Hán Vương là tổ tông của mình, tự xưng là hậu nhân của Tĩnh Vương Trung Sơn, trong miếu đường của Hán quốc còn thờ phụng bài vị của Lưu Bị, Lưu Thiền.
Tất nhiên, Đại Tấn mắng Lưu Uyên không biết xấu hổ nhận loạn tổ tông, mô phỏng quốc tỉ giả danh lừa bịp, còn Hán quốc lại mắng Đông Hải vương Tư Mã Hoạt mặt dày vô sỉ, hạ độc gi3t ch3t Huệ Đế, bức ép Dương Hoàng hậu.
Hai bên bắt đầu chửi bới, lời đồn là một công cụ không tồi, Lưu Uyên Hán quốc là người thắng lớn nhất.
Sau ngày giỗ của Huệ Đế, cuối cùng cũng truyền tới một tin tức tốt, Đông Bình Quận Hầu Cẩu Si thảo phạt phản quân Múc Tang, thành công rực rỡ, chém đầu đại tướng quân Hán quốc, chiến thắng trở về.
Đó là tin tốt duy nhất dạo gần đây, Đông Hải vương Tư Mã Hoạt lại càng vui hơn, bởi vì Cẩu Si xuất thân bình dân, may mắn được Đông Hải vương nhìn trúng, bồi dưỡng người tài, sau nhiều lần rèn luyện trong cuộc nổi dậy của tám vị phiên, trước mắt đã trở thành đại tướng quân lợi hại nhất Đại Tấn, thường xuyên thắng trận, được phong làm Đông Bình quận hầu, có thể nói là hy vọng duy nhất của Đại Tấn.
Đông Bình Quận Hầu là người của Đông Hải vương, thuộc hạ đánh thắng trận, Đông Hải vương được gia tăng thể diện, đồng thời củng cố uy danh trước quần thần và quân đội, vì thế Đông Hải vương đã thăng tước vị cho Cẩu Si, phong hắn làm Đông Bình Quận Công.
Đông Hải vương nắm giữ triều chính, nói phong ai thì phong người đó, Vĩnh Gia Đế cũng giống như Huệ Đế năm đó, chỉ biết nói “Thừa tướng nói rất đúng”, sau đó ngoan ngoãn đóng dấu ngọc tỷ.
Kết quả là, vòng đầu tiên, Đông Hải vương và Vĩnh Gia đế âm thầm phân cao thấp, thắng bại được quyết định bởi chiến thắng của Cẩu Si —— Uy danh của Đông Hải vương tăng lên rất nhiều, đối mặt với thế lực tuyệt đối, tin đồn không thể làm tổn thương ông ta. Vĩnh Gia Đế nơm nớp lo sợ, hắn và Lương Hoàng hậu tạm thời ngừng nghỉ, không dám làm ra một chút động tác nhỏ nào, ngoan ngoãn trở thành con rối.
Khi tin tức về chiến thắng của đại quân Cẩu Si truyền tới cung Hoằng Huấn, Thanh Hà vui mừng đến mức không thể ngồi yên, bởi vì Vương Duyệt cũng tham gia vào đội quân thảo phạt của Cẩu Si, xuất chinh nửa năm, hắn sắp trở về rồi!
Thanh Hà mong nhớ Vương Duyệt vô cùng, nàng thường xuyên hồi tưởng lại dư vị của nụ hôn đầu tại rừng mai năm ngoái, và nó cũng thường xuyên tiến vào giấc mộng của nàng.
Ngay cả Dương Hiến Dung, người vẫn luôn giữ thái độ bi quan về tương lai của Đại Tấn, khi nghe tin Đại Tấn thắng lợi, trái tim như dòng nước tĩnh lặng cũng trở nên gợn sóng: Có lẽ sau khi Đại Tấn trải qua kiếp nạn vẫn còn cơ hội sống sót?
Dù thế nào đi nữa, thắng trận là chuyện tốt, sắp tới thời điểm ăn tết, mọi người từ trong đến ngoài cung đều nở nụ cười trên môi.
Ngay cả trên mặt công chúa Hà Đông cũng mang thần sắc vui vẻ, trong ba tháng qua, nàng ta nhớ mong Tôn Hội và con gái đã xuôi Nam, rất cô đơn —— Huệ Đế qua đời, nàng ta để tang trong phủ công chúa, có cơ hội đóng cửa không ra ngoài, từ chối tiếp khách, yên tĩnh dưỡng thai, đến mùa thu thì sinh hạ một con gái. Đứa nhỏ mạnh khỏe, tiếng khóc gần như muốn lật tung nóc nhà, nếu tiếp tục nuôi dưỡng trong phủ công chúa, sớm muộn gì cũng bại lộ, vì thế sang ngày hôm sau, công chúa Hà Đông liền nhịn đau lệnh cho Tôn Hội bế con gái đến Giang Nam nuôi dưỡng.
Tào Thục đã sớm tìm được hai vú nuôi chăm sóc và cho đứa nhỏ ăn uống. Công chúa Hà Đông muốn Tôn Hội ở lại Giang Nam nuôi lớn con gái, đừng trở lại nơi thị phi như Lạc Dương, người một nhà bị chia cắt, vô cùng thê lương.
Cẩu Si đánh thắng trận, công chúa Hà Đông cũng mơ mộng về việc liệu Đại Tấn có giống như cây khô hồi xuân, từ nay sẽ yên bình?
Nếu đúng như vậy, đợi thế cục ổn định, nàng ta sẽ bảo Tôn Hội bế con gái trở về Lạc Dương, sau đó giả bộ tình cờ gặp gỡ, nhận con gái ruột làm con nuôi, Tôn Hội sẽ lấy thân phận vú nuôi trở lại phủ công chúa, cả nhà đoàn tụ.
Rất nhiều công chúa Đại Tấn đều không sinh con, có người đến tuổi trung niên sẽ nhận nuôi một đứa trẻ để vơi đi nỗi cô đơn dưới gối. Không phải là công chúa không thể sinh, mà vì phần lớn tình cảm giữa công chúa và phò mã đều lạnh nhạt, ai lo phận người nấy, giống như vị phò mã Vương Đôn tính tình bướng bỉnh và công chúa Tương Thành cũng không có con nối dõi. Bởi vì công chúa không cần dùng con nối dõi để giữ vững địa vị, người mạnh mẽ như Tào Thục, cũng phải “sinh” xong đích trưởng tử Vương Duyệt, sau đó mới có thể muốn làm gì thì làm.
Thà làm chó thời bình còn hơn làm người thời loạn, dù thân phận đắt rẻ sang hèn, phần lớn mọi người đều nghĩ tới một cuộc sống yên ổn. Sau khi trải qua mấy năm sóng gió, mọi người từ chết lặng bắt đầu hy vọng, cảm thấy cuộc sống này dường như có chút hi vọng.
Tuy nhiên, luôn có một bộ phận nhỏ những người muốn gây chuyện, tranh quyền đoạt lợi.
Một năm này Đông Hải vương và Vĩnh Gia Đế âm thầm phân cao thấp, không ít người tận mắt chứng kiến, thấy Đông Hải vương toàn thắng, ép cho Vĩnh Gia Đế không dám ngẩng đầu, trong lòng vội tính toán vặt, muốn mượn cơ hội tranh công.
Vĩnh Gia Đế không nghe lời, vậy thì đổi một người khác thuộc Tư Mã thị, vâng lời, dễ thao túng hơn làm Hoàng đế, có lẽ Đông Hải vương cũng sẽ vui mừng.
Vì thế, Thị lang Lại bộ Chu Mục và Trung thừa Ngự sử Gia Cát Mân đưa ra đề xuất với Đông Hải vương, phế bỏ Vĩnh Gia Đế Tư Mã Sí, lập Sảnh Hà vương Tư Mã Đàm mới mười bốn tuổi làm Hoàng đế.
Vì sao lại chọn Sảnh Hà vương? Bởi vì Chu Mục là cậu của Sảnh Hà vương, mà Gia Cát Mân lại là em rể của Chu Mục, hai người muốn nương theo mối quan hệ cọc chèo, đẩy Sảnh Hà vương lên ngôi vị Hoàng đế.
Huyết thống của Sảnh Hà vương cũng đủ thuần khiết, hắn là cháu nội của Tấn Võ Đế Tư Mã Viêm.
Chu Mục và Gia Cát Mân đều cho rằng Đông Hải vương nhất định sẽ đồng ý với đề nghị của bọn họ, thử hỏi làm gì có ai không muốn khống chế một quân chủ còn nhỏ? Vĩnh Gia Đế hai mươi tư tuổi quá không nghe lời, lại dám lợi dụng lời đồn của người Hung Nô công kích Đông Hải vương, nói Đông Hải vương hạ độc gi3t ch3t tiên đế, nếu không nghe lời, vậy thì đổi một vị phiên vương mười bốn tuổi khác nghe lời hơn làm Hoàng đế.
Thế nhưng, hai người tuyệt đối không nghĩ tới, Đông Hải vương Tư Mã Hoạt lại không phải loại người kiêu hùng, ta thà phụ người trong thiên hạ, chứ người trong thiên hạ không thể phụ ta. Đông Hải vương cũng muốn một cuộc sống ổn định, ông ta vẫn có thể khống chế được cục diện chính trị hiện giờ, không cần đổi một vị Hoàng đế khác nghe lời hơn, ông ta nắm trong tay quyền lực quân sự, còn sợ một tên Hoàng đế bù nhìn gây chuyện?
Chu Mục và Gia Cát Mân đúng là hai cây gậy chọc vào phân, hôi thối không ngửi được, Đông Hải vương giận dữ: “Hoàng đế mới đăng cơ được một năm, cũng không phạm phải sai lầm lớn, vì sao phải phế bỏ? Hai người thân là thần tử, lại dám bất kính với Hoàng đế, đây là tội mưu phản! Người đâu, bắt lấy hai người này, đẩy đến chợ ngựa kể lại chi tiết tội ác, chém đầu thị chúng, ta xem còn ai dám bất kính với Hoàng đế!”
Chu Mục và Gia Cát Mân đã xem nhẹ đầu óc của Đông Hải vương, vỗ sai mông ngựa, rước lấy họa sát sinh.
Dựa theo luật pháp, tội mưu phản ít nhất phải tru di tam tộc, tuy nhiên, Chu Mục là cậu của Sảnh Hà vương, Gia Cát Mân xuất thân từ Gia Cát thị nổi tiếng ở Lang Gia. Vào những năm cuối triều Hán, Gia Cát thị lần lượt phân tán đến Trung Nguyên, đất Thục và Giang Nam, tất cả đều có những thành tựu nhất định. Gia Cát Khôi là mưu thần của Tào Tháo, Gia Cát Lượng phụ tá cho Thục Đế Lưu Bị, nhi tử Gia Cát Khác của Gia Cát Cẩn là Tể tướng Đông Ngô, Gia Cát thị toàn là nhân tài.
Nếu muốn tru di tam tộc Gia Cát Mân, Đông Hải vương nhất định sẽ mất đi sự ủng hộ của gia tộc Lang Gia Gia Cát, một gia tộc lâu đời.
Vì thế Đông Hải vương chỉ nhốt Sảnh Hà vương vào thành Kim Dung, sau khi gi3t ch3t Chu Mục và Gia Cát Mân thì đặc xá cho tam tộc của hai người, hơn nữa còn hạ lệnh từ nay huỷ bỏ hình phạt tru di tam tộc, chỉ giết kẻ cầm đầu tội ác, sẽ không liên lụy đến thân thích.
Đông Hải vương bảo vệ Vĩnh Gia Đế, huỷ bỏ hình phạt tru di tam tộc, thắng ngay được tiếng thơm hào hiệp nhân từ, mọi người đều nói Đông Hải vương hiền đức, là phúc của Đại Tấn, xem ra Đại Tấn không thể diệt vong, vẫn còn cứu được.
Ngay cả Dương Hiến Dung và Thanh Hà tại cung Hoằng Huấn cũng thay đổi rất nhiều đánh giá về Đông Hải vương, xem ra Đông Hải vương đã thật sự học được bài học từ cuộc nổi dậy của tám vị phiên vương, những cuộc nội chiến chém giết không ngừng nghỉ sẽ kết thúc trong tay Đông Hải vương.
Như thế, thật sự là điều may mắn cho nước nhà!